1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chuyện người tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ là con trai Tổng thống Trần Văn Hương

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi kiepngheo2, 09/05/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kiepngheo2

    kiepngheo2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2003
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    0
    Chuyện người tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ là con trai Tổng thống Trần Văn Hương

    Chuyện người tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ là con trai... Tổng thống chính quyền Sài Gòn Trần Văn Hương

    Nhân vật chính trong câu chuyện là ông Lưu Vĩnh Châu, người con trai Tổng thống chính quyền Sài Gòn Trần Văn Hương...

    Đám lá ngằn ngặt xanh không biết là thứ cây gì trước căn hộ nhà ông Lưu Vĩnh Châu trong khu chung cư đường Tân Bình ngoại ô chừng như bỏ lại những âm thanh ầm ào sôi động cuả một chiều Sài Gòn luôn hừng hực năng động không khí thị trường. Cái tuổi tám mươi mốt hình như còn chút năm nữa mới tìm tới ông?

    Dẫu mái tóc bạc trắng nhưng vóc dáng manh mảnh lanh lẹ cùng cung cách cưng chiều thằng cháu nội kháu khỉnh đang quẩn quanh kế bên, cộng với chất giọng chắc khoẻ về những ngày cách đây sáu mươi năm ấy cứ như là mới hôm qua vậy?

    Hồi ấy ông có tên là Dõi. Trần Văn Dõi. Con trai đầu lòng của Đốc học Tây Ninh Trần Văn Hương. Trong những ngày đầu sôi nổi của cuộc Cách mạng tháng Tám, rất nhiều trí thức miền Đông miền Tây tham gia kháng chiến trong đó có Đốc học tỉnh Tây Ninh Trần Văn Hương.

    Vị đốc học này đã trở thành Chủ tịch ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Tây Ninh như vậy đó! Cách mạng về khi ông Dõi đang tuổi mười tám vừa học xong trung học Cần Thơ. Như một lẽ tự nhiên của lớp trẻ hồi ấy, ông xung vào thanh niên tiền phong rồi vào Vệ quốc đoàn tháng 10 năm 1945.

    Những trận đánh ác liệt của bộ đội Tây Ninh chọi lại những tiểu đoàn thiện chiến quân đội Pháp như Trâu Vàng, Bến Sỏi, Bến Cầu... đơn vị ông đều tham gia tuốt luốt. Gian khổ ác liệt. Thiếu thốn trăm bề. Nhưng thứ thiếu nhất, bức xúc nhất vẫn là thiếu súng đạn! Vì vậy ông nhận lệnh nhập vào một đội quân ra Bắc nhận vũ khí vào thời điểm cuối năm bốn sáu.

    Lênh đênh nhiều ngày trên biển, tới đất Bắc lần đầu tiên trong đời biết thế nào là những cơn gió bấc cắt thịt da thì bập ngay vào không khí hừng hực sục sôi của những ngày toàn quốc kháng chiến. Ông tham gia chiến đấu cùng tự vệ và Vệ quốc đoàn khu phố Bạch Mai phối thuộc với Trung đoàn Thủ Đô. Đơn vị ông may mắn thoát ra được.

    Ông được lựa trong số những người ưu tú đi học trường lục quân Trần Quốc Tuấn khoá IV. Ngày khai giảng khoá học, anh thanh niên người Nam Bộ Trần Văn Dõi lấy tên mới là Lưu Vĩnh Châu và sau đó một năm trở thành đảng viên ĐCS Đông Dương.

    Tốt nghiệp, Lưu Vĩnh Châu được điều về một đơn vị vận tải. Năm 1952 là đại đội trưởng C57, tiểu đoàn 206 thuộc Tổng cục Hậu cần QĐNDVN. Sau đó, đơn vị của Châu được lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

    Phần việc nặng nề nhất để chuẩn bị cho chiến dịch là đảm bảo giao thông thông suốt ở hai cửa ngõ quan trọng vào mặt trận như thứ yết hầu của cơ thể là bến phà Tạ Khoa qua sông Đà và ngã ba Cò Nòi. Tiểu đoàn 206 sau khi vinh dự nhận cờ thưởng luân lưu của Hồ Chủ tịch đã kiên cường bám trụ liên tục suốt ngày đêm tại hai trọng điểm này.

    Địch tập trung rải các loại bom đạn hòng chặt đứt đường tiếp tế chuyển quân chuyền lương thực đạn dược nhưng nguy hiểm nhất là bom nổ chậm, thứ vũ khí gây ách tắc cũng như thương vong nhiều nhất mà đơn vị của Châu khi đó lần đầu vấp phải. Thương vong chả phải ít. Công sức bỏ ra khó mà tính đếm để tìm được tìm ra phương pháp tháo gỡ nhiều loại bom nổ chậm cũng như tìm những cung chặng vòng tránh đảm bảo giao thông thông suốt với mặt trận.

    Trong số cán bộ chiến sĩ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ ngày ấy, anh em người Nam Bộ rất hiếm hoi, hình như chỉ có 3 người là Nguyễn Trí Việt (312) và Châu Kỳ Nam (316) và đại đội trưởng công binh - vận tải Lưu Vĩnh Châu? May mắn là cả 3 anh em đều cùng khoá IV của trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, cùng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng bước sang tuổi tám mươi và bây giờ cùng sống tại thành phố mang tên Bác!

    Năm 1954, niềm vui chiến thắng thì có nhưng niềm vui đoàn tụ với Châu chưa thành! Không có tổng tuyển cử cũng như ngày Bắc Nam đoàn tụ. Lưu Vĩnh Châu đi dò hỏi hàng tháng trời qua bà con ra tập kết tin tức người thân quê nhà nhưng vẫn bặt vô âm tín. Hình ảnh người cha gày gò dong dỏng ngày nắm vội bàn tay cậu con trai như in hằn trong tâm trí ...

    Xứ Bắc ba lâu rồi chưa ghé lại... ở ngoải, ba có nhiều bạn bè hồi cùng học trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Nguyễn Khánh Toàn, Hoàng Minh Giám, Phạm Huy Thông... Mà thôi, ra đó ráng làm mau nhiệm vụ rồi về!

    Thoáng chút đau đớn, bâng khuâng! Tưởng ngày đó ra Bắc lãnh vũ khí mấy tháng thì về. Ai dè hơn chục năm lận? Có nguôi ngoai chút nỗi đêm Nam ngày Bắc là đơn vị của Lưu Vĩnh Châu một lần về Đồ Sơn an dưỡng, Lưu Vĩnh Châu đã gặp được một người con gái quê mẹ ở Mỏ Cày, công tác ở bên y tế Hải Phòng. Họ nên vợ nên chồng ...

    Vâng, bà xã nhà tôi vừa bồng thằng cháu hồi nãy đó... Năm 1961, Đại uý QĐNDVN Lưu Vĩnh Châu chuyển ngành đi học Đại học Bách khoa Hà Nội. Tốt nghiệp loại ưu, Châu được điều về công tác ở Ban công nghiệp Trung ương.

    Một ngày nọ, một người bạn thân cùng quê tập kết đang công tác ở Hà Nội bất ngờ cho anh hay cái tin là người cha của anh hiện còn sống! Chưa kịp mừng, Châu suýt té ngửa sững sờ bởi người bạn cho biết thêm, trong đó cha anh vừa mới được chọn làm một chức lớn, Phó Tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn! Người bạn ấy còn lén bố trí cho anh nghe đài BBC, cả đài Sài Gòn nữa! Quân đội. Tổ chức nhà trường Đại học Bách khoa và tổ chức nơi anh công tác chỉ biết Lưu Vĩnh Châu là con trai Trần Văn Hương chủ tịch UBKC tỉnh Tây Ninh!

    Đã hơn hai chục năm, cha con và gia đình anh bặt vô âm tín! Mang tâm trạng hoang hoang rối bời ấy, theo gợi ý của người bạn, anh lên gặp ông Ung Văn Khiêm là chỗ quen của hai anh em, hiện đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ông Bộ trưởng niềm nở tiếp hai anh em rồi thở phào khi được biết chỉ mỗi người bạn của Lưu Vĩnh Châu biết được chuyện Châu là con trai ruột của phó tổng thống Trần Văn Hương bấy giờ! Rồi ông dặn thêm tuyệt đối không nói cho ai biết mình là con trai ông Trần Văn Hương hiện là Phó tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn. Ông sẽ có trách nhiệm làm việc với tổ chức! Có yên tâm hơn nhưng Lưu Vĩnh Châu vẫn canh cánh chuyện này.

    Lưu Vĩnh Châu biết tính ba khẳng khái tới mức cực đoan... Rồi một hôm, Lưu Vĩnh Châu lại được ông Ung Văn Khiêm kêu tới... Việc của anh là viết một bức thư cho ?oông già? như ông Khiêm gợi ý, không nói chi cả, chỉ báo tin cho ổng hay là Châu có công ăn việc làm tử tế ngoài Bắc, hiện là kỹ sư cơ khí, có một mái ấm gia đình với vợ và hai con v.v...

    Lá thư được gửi đi... Một thời gian sau, ông Khiêm lại gọi anh tới, gợi ý rằng có thể Châu sẽ phải vô Nam làm một nhiệm vụ đặc biệt. Còn nhiệm vụ chi, thời gian nào, tổ chức sẽ tính tiếp và giao cụ thể. Châu phải giữ bí mật việc này, không được nói với ai kể cả tổ chức cơ quan hay vợ con...

    Lá thư không có hồi âm cũng như nhiệm vụ đặc biệt đã không đến với kỹ sư Lưu Vĩnh Châu. Năm năm qua đi... rồi tới ngày toàn thắng 30 tháng Tư... Kỹ sư Lưu Vĩnh Châu cứ yên ổn làm việc, trước là tại Ban công nghiệp Trung ương sau là một thời gian dài biệt phái xuống nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo chuyên lo chế tạo động cơ nổ 12 mã lực cùng việc cải tiến bơm cao áp con heo dầu là đề tài khoa học mà Lưu Vĩnh Châu say mê và đã bỏ ra rất nhiều thời gian lẫn công sức!

    Ba năm sau mùa xuân 1975, tại căn nhà số 216A, đường Điện Biên Phủ thành phố Hồ Chí Minh, đêm đã khuya lắm tại phòng khách, câu chuyện giữa hai người một già một trẻ của hai cha con đã diễn ra tới sáng! Mãi khi đó kỹ sư Lưu Vĩnh Châu mới tường được một số việc mà trước đây ông đã nhiều lúc hoài nghi, dằn vặt, đau đáu...

    Thời gian làm chủ tịch UBHC kháng chiến Tây Ninh thấy bộ đội du kích đằng mình bắt nhầm mấy ông trí thức rồi qui là Việt gian, có người còn bị họ đem bắn, ba ớn quá! Ba mặc cảm, hoang mang... Sau năm 1946, ba bỏ về quê và tuyên bố hẳn hoi Trần Văn Hương nầy không làm bất cứ việc gì liên quan đến chuyện theo Tây phản lại dân tộc! Ba về Sài Gòn mở một kho thuốc. Nhưng đâu có yên. Chánh tham biện gặp ba, Bảo Đại gặp ba. Rồi sau này có cả người của Diệm nữa... Tất thảy đều mời ba ra làm việc nhưng ba đã thề rồi. Chính quyền Diệm bắt ba giam 3 tháng. Con hỏi sao ba lại nhận chức phó tổng thống?

    Chuyện thì dài nhưng ba có cái ý của ba... Mỹ đưa quân vô dữ lắm. Mỹ thì có khác chi Tây? Học trò của ba nhiều người làm cấp này chức khác tới khóc nói là đám quân sự Thiệu Kỳ nắm hết quyền hành, hoành hành tham nhũng dữ quá, khổ dân... Thày là người có tài có đức, dù sao lúc này tiếng nói của thày có trọng lượng, thày nên đứng ra lãnh một việc chi đặng giúp gì đó cho dân tộc!

    Ba đã lầm cũng như sau này lại lầm. Mình hổng có đảng riêng có quân đội có tài chính riêng, ngoại bang kiểm soát hết thì mần được cái chi ?! À, còn cái thơ của con, ba có nhận được, nghe nói hồi đó do chính ông Phạm Ngọc Thạch đem vô Nam, nhưng lúc đó ba cứ bán tín bán nghi bởi nghe nói hồi ra Bắc con chết lâu rồi mà? Thằng Ba em con nói, thôi cứ đốt tiêu đi nhỡ có bề gì lại liên luỵ!

    Căn biệt thự sang trọng của ông cựu Tổng thống Trần Văn Hương sau giải phóng, cách mạng không đụng tới. Hàng ngày từ nhà riêng ông dùng xe đạp tự tới dinh Độc lập là địa điểm học tập cải tạo do ông Cao Đăng Chiếm giảng bài. Cuối khoá các quan chức tướng tá nguỵ quyền Sài Gòn tham gia học tập đều phải viết thu hoạch. Ông Chiếm nói ông Trần Văn Hương có tuổi, mắt lại kém nên miễn cho việc viết nhưng ông Hương cứ tình nguyện viết thu hoạch nghiêm cẩn.

    Sau cuộc hội ngộ lần đó, vợ chồng kỹ sư Lưu Vĩnh Châu chuyển vô thành phố công tác. Thi thoảng vợ chồng ông có ghé qua thăm ông già (mẹ ông mất trước giải phóng nhằm ngày 30 tháng 12 năm 1974 . Ông Hương ở với người con gái. Người con trai út, em ruột ông Châu đã ra nước ngoài).

    Chú Tư Chì, giáo sư dạy đại học Mỹ Tho, bạn với ông Trần Văn Hương, hồi đó công tác ở Mặt trận Tổ quốc thành phố giục ông Châu nên về ở với ông già. Thứ nhứt, vợ ông là bác sĩ, ông già tuổi cao lại lắm bệnh, nhỡ có bề gì. Thứ hai, ông Tư cười bộ tụi bây cứ e dè làm vậy người ta ngỡ cách mạng mình hổng có tình cảm gia đình chi ráo trọi...

    Được lời như cởi tấm lòng. Vợ chồng ông nghe chú Tư, bỏ ngoài tai những sự đồn thổi ác ý, lẳng lặng dọn về ngôi nhà ở đường Điện Biên Phủ để làm phận sự con trai với cha già, dâu con với cha chồng! Hàng ngày vợ ông vừa lo công chuyện cơ quan vừa lui cui tất bật cơm nước chợ búa để chắp nối cho vừa cho đủ những năm tháng bao cấp khốn khó. Trong mớ tem phiếu mà bà chầu chực trước các cửa hàng mậu dịch có tiêu chuẩn phiếu E của người cha chồng mà nhà nước mình cấp cho nguyên tổng thống chính quyền Sài Gòn Trần Văn Hương!

    Có lẽ sự so xúi túng bấn là có thực còn chuyện của chìm của nổi của người đứng đầu chính quyền cũ - cho dù chỉ ít ngày - chỉ là sự đồn thổi chăng mà người em trai của ông Châu khi đó đang ở nước ngoài đã viết thơ về hối thúc cha lẫn anh mình rằng cứ đưa ông già qua biên giới tức khắc sẽ có người đón (!?). Ông già Trần Văn Hương đọc thơ cười lớn sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại sứ Ma-tin còn gọi điện hối thúc là luôn giành sẵn cho qua một chiếc trực thăng. Nếu qua có đi thì đi ngay từ hồi đó rồi!

    ...Có lẽ đám tang ông Trần Văn Hương thuộc loại hiếm ở thành phố vào cái thời điểm Mồng Ba Tết năm 1982? Muốn chết đơn giản, ông xin được thiêu xác. Quây kín ở đài hoá thân hoàn vũ bữa đó như cách nói vui của người Sài Gòn là đông đủ cả người của cách mạng và người của chế độ cũ. Lại có sự hiện diện của mấy vị tướng nguỵ vừa mãn hạn học tập cải tạo. Phụ trách lễ tang là bạn cũ của người vừa quá cố, GS Nguyễn Văn Chì tức chú Tư Chì, Chủ tịch UBMTTQ thành phố Hồ Chí Minh...

    Ngó cái tuổi tám mươi của ông Châu thơ thái cùng con cháu trong khu chung cư theo tiêu chuẩn nhà nước, tôi chả muốn hỏi ông bà thêm về duyên do hồi họ vui vẻ rời căn biệt thự đường Điện Biên Phủ. Hình như biết đủ, tri túc, cũng là thang trật là tiêu chí của người thức giả? Nhìn đồ đạc khiêm nhường trong căn chung cư giản dị này, tôi bất giác nhớ tới một trưa ấy ghé đất Vĩnh Long. Chuyến đi ấy tôi chỉ nhớ hơi lâu căn nhà lợp ngói ta xây thâm thấp tờ tợ như cung cách xây cất của một nhà địa chủ thường ngoài Bắc của cụ thân sinh ra ông Trần Văn Hương ở thị trấn Long Hồ...
  2. kiepngheo2

    kiepngheo2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2003
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    0
    "Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền công dân trước..." (Lời cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trả lời một cán bộ CS, khi họ đến nhà định làm lễ, quay phim "trả quyền công dân cho ông").
    Cụ Trần Văn Hương, hai lần làm đô trưởng Sàigòn, hai lần làm thủ tướng và Phó Tổng Thống, và cuối cùng là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ được 3 ngày... Cụ Hương mất đi không một lời cáo phó. Cụ mất, nhưng gương hi sinh và thái độ sống của người quân tử mà cụ nêu gương không bao giờ mất. Tuy là người đồng hương, vì nhà tôi ở chỉ cách nhà người chị ruột của cụ Trần Văn Hương chừng 300 mét, trên đường Văn Thánh (tức Văn Thánh miếu thờ Ðức Khổng Tử và cụ Phan Thanh Giản) tại Vĩnh Long. Là thế hệ sau, thuộc hàng con cháu, nên tôi không được quen biết với cụ. Tháng Hai năm 1975, tôi là thành viên của một phái đoàn vận động thành lập Viện Ðại học Long Hồ cho 3 tỉnh Vĩnh Long Kiến Phong và Vĩnh Bình, có đến tư thất của cụ ở đường Phan Thanh Giản Sàigòn, để yết kiến và xin cụ giúp đỡ. Tháng 3 năm 1975, cụ với tư cách là Phó Tổng Thống, có đến tại hội trường thuộc trường Sư Phạm (cao đẳng) Vĩnh Long, để chứng kiến lễ chấp nhận thành lập Viện Ðại Học Long Hồ, do Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh ký trước mặt cụ. Mặc dầu rất nhiều lần giữ những địa vị cao trong chính trường miền Nam, nhưng cụ Trần Văn Hương là một người có đời sống giản dị, mẫu mực, thanh liêm không bất cứ một ai có thể mua chuộc được. Khi thôi việc, cụ Hương sống cuộc đời chật vật nhưng vẫn giữ được tư cách.
    Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu, nay thuộc quận Châu Thành Vĩnh Long, trong một gia đình nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia đình, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư Phạm... Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Le Myrle de Vilers Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà ông đã theo học mấy năm trước. Thời gian từ năm 1943 ? 1945, ông Hương là giáo sư dạy môn văn chương và luân lý tại trường nầy. Sau đó ông Hương được đổi lên làm Ðốc học tỉnh Tây Ninh.
    Năm 1945, ********* nổi dậy cướp chính quyền khắp 3 kỳ, nhóm ********* mới của Trần Văn Giàu (chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam bộ) cử cụ làm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với ********* được mấy tháng, thấy họ không thành thật, và theo con đường bá đạo, nên ông Hương từ chức. Tuy vậy cụ vẫn còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Khi thấy bộ mặt thật của ********* là CS, cụ bỏ về thành. Ban đầu cụ bán thuốc tây cho nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan (Pharmacy Kim Quan) ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành bây giờ).
    Theo tài liệu của tình báo Mỹ, ông Hương có hai người con: Trần Văn Dinh và Trần Văn Doi (Giỏi?). Hồi còn theo học trường "College de Can Tho", kháng chiến nổi lên, Doi bỏ học theo kháng chiến. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua Pháp cùng một lúc với hội nghị Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Doi theo xuống tàu ra Bắc. Từ đó hai cha con không bao giờ gặp nhau nữa. Ông Huỳnh Văn Lang, cựu Tổng giám đốc Viện Hối Ðoái dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm cho biết "Ông Trần Văn Giỏi (không phải Dõi) ở tại Sàigòn, bên cạnh ông Hương như một người cố vấn.
    Năm 1964, ông Hương làm Thủ tướng chính phủ, tình báo Mỹ có đem lại một hồ sơ cho biết cụ có người con theo CS. Cụ Hương thẳng thắn nhìn nhận và cho biết từ đó cho đến nay, cụ không còn liên lạc gì với người con đó hết. Khi cụ tham chính, thì nguòi con lớn là Trần Văn Doi ở kế cận đóng vai người cố vấn thân tín.
    Tháng 7 - 1967, ông cùng với ông Mai Thọ Truyền, ra ứng cử chức Tổng Thống chỉ được 10% số phiếu, về hạng tư. Tháng 5 - 1966, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mời làm Thủ Tướng, thay thế Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc. Trong nhiệm kỳ Tổng Thống 1971 - 75, ông Trần Văn Hương làm phó tổng thống, và khi ông Thiệu từ chức tổng thống giữa lúc tình thế đất nước lâm nguy,ông Hương được đôn lên làm tổng thống dùng theo hiếp pháp.
    Các chi tiết về cuộc đời của cụ Trần Văn Hương trong những ngày tháng cuối cùng, được bà Phan Cẩm Anh cùng chồng là bác sĩ, người có dịp gần gũi với cụ Hương kể lại. Tôi được phép chỉ để trích một phần lớn trong bài ấy: ?Hương trà năm cũ? trong bài viết để đồng bào, đồng hương có dịp biết thêm về nhiều chi tiết cảm động của một kẻ sĩ thế hệ cũ còn sốt lại. Kính xin anh chị Phan Cẩm Anh thể nhận nơi đây lòng biết ơn của tác giả.
    "...Nhiều năm trước, khi tôi học trung học, một buổi tối sau khi dùng cơm, chị tôi dẫn tôi đến phủ "cây tùng" để thăm Mai Hương, một người bạn cùng "khóa I Nữ quân nhân" của chị, bây giờ vừa lập gia đình với đại úy Phan Hữu Chương, cháu ruột cụ Trần Văn Hương. Ba chị em đứng trò chuyện dưới táng cây của phủ phó tổng thống. Thình lình, cụ Hương từ trong nhà bước ra, nhìn về phía chúng tôi, gật đầu, rồi đưa tay ra hiệu bảo Mai Hương theo cụ vào trong phủ. Khi trở ra, Mai Hương lè lưỡi nói với chị tôi:
    - Ông cụ vừa mới la.
    - La về chuyện gì vậy?
    - Ông cụ nói: "Sao không mời bạn bè vào phòng khách nói chuyện đàng hoàng mà để bạn đứng dưới gốc cây... ông cụ nói tiếp: "Tiếp bạn đến chơi như vậy là không trọng bạn chút nào hết."
    Ðó lần đầu tiên tôi thấy cụ Hương, nhưng nghe thuật lại những lời cụ trách, lòng tôi tự nhiên nhen nhúm một cảm tình đầy quý trọng. Sau đó, tôi có dịp trở lại phủ phó tổng thống vài lần lúc Mai Hương sắp vào nhà bảo sanh. Vì lẽ phu quân Mai Hương bận công vụ, nên Mai Hương cho tài xế đến nhờ tôi và em gái tôi giúp đưa Mai Hương vô bịnh viện. Tất cả những lần đó, tôi chẳng có dịp nào giáp mặt cụ Hương.
    Thời gian trôi qua, miền Nam sụp đổ, Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng. Ngay buổi sáng sớm ngày đầu mất nước, tại ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất trong ngõ hẻm ngăn đường Phan Thanh Giản, thân nhân sống trong biệt thự này đã đau đớn đem đặt giữa nhà hai xác người cùng nhau tìm cái chết. Họ vừa chia nhau ống thuốc ngủ đêm qua. Ðó là đại úy Phan Hữu Chương và vợ là cựu trung úy Trần Mai Hương. Họ để lại vỏn vẹn vài lời trăng trối, xin nhờ lòng tha thứ của cụ Hương và gia đình vì không thể sống khi đất nước rơi vào tay kẻ thù... Ðôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa con trai còn thơ dại, nhờ ông bà nội (em rể cụ Hương) dưỡng nuôi. Cũng trong ngôi biệt thự bao phủ một bầu không khí ảm đạm và im lìm đó, nơi một căn phòng khác trên lầu, cụ Hương đóng cửa, im lặng, trầm mình trong nỗi đau khổ của một người đã từng lãnh đạo đất nước, bây giờ đành tâm chứng kiến giờ phút suy vong, cảnh nhà tang chế. Nỗi đau khổ của cụ ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được cụ hé môi thổ lộ.
    Nhưng ý định cùng chồng đi tìm cái chết của Mai Hương, không được toại nguyện bởi lẽ một người cháu đem Mai Hương đi cấp cứu. Sự sống của Mai Hương đã được các bác sĩ giành giựt lại từ đường tơ kẻ tóc. Nhờ đó Mai Hương trở thành một chiếc cầu để tôi có cơ hội biết thêm chút ít về cụ Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng của cụ.
    Nhiều lần Mai Hương dẫn tôi về lại ngôi biệt thự trên để thăm các con của Mai Hương, hiện đang sống nương nhờ vào ông bà nội. Tôi đã chứng kiến cảnh sống đạm bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn, túng quẩn của gia đình cụ Hương. Cụ Hương luôn luôn sống lặng lẽ một mình trong căn phòng nhỏ ở trên lầu. Căn phòng bày trí thật sơ sài, chẳng có món đồ nào được coi là sang trọng. Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật còn lại là hai chiếc ghế bành, một cái tủ đựng quần áo đã cũ, một chiếc bàn con trên đó cụ để một tượng Phật Di Lạc. Căn phòng có một cửa ăn thông ra sân thượng. Hầu cận, săn sóc cụ là người em rể của cụ mà tôi gọi theo như Mai Hương là Dượng. Phía dưới lầu là các gian nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo bức tường phía trong của khuôn viên biệt thự, có lẽ trước kia là nhà kho, bây giờ trở thành nơi tá túc qua ngày cho các thân nhân gồm các em và cháu của cụ, vì phải gặp cảnh khó khăn dưới quê, tìm về Sàigòn nương náu trong ngôi biệt thự cũ nát mà tổng thống Thiệu đã cấp từ thời trước.
    Ngôi biệt thự nầy, trước khi cấp cho cụ Hương, tổng thống Thiệu đã chỉ thị phải sửa chửa, chỉnh trang lại đàng hoàng, nhưng cụ từ chối viện lẽ cụ già rồi, không làm việc gì ích nước lợi dân được nữa, nên không muốn làm hao tốn công quỹ. Do đó, đến khi CS vào, ngôi biệt thự trên chẳng phải là mồi ngon cho cán bộ của họ tranh nhau giành giật chiếm đoạt như các ngôi biệt thự xinh xắn khác. Tường biệt thự nhiều nơi nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ vở bung lên, màu vôi trải qua nhiều năm tháng vàng ố không được trùng tu, sơn quét. Hình ảnh cụ lúc nầy như một con chim đại bàng sa cơ, gãy cánh mà vẫn cố giương đôi cánh mang thương tích của mình để bảo bọc chim non. Tôi được nghe kể lại cứ mỗi lần người nhà bưng cơm lên lầu cho cụ, phần cơm rất đạm bạc, lâu lâu mới có chút cá thịt, thân nhân muốn nhường cho cụ để bổ dưỡng, cụ hỏi xem mọi người trong nhà có được ăn như cụ vậy không. Mặc dầu người nhà thường trả lời "có" cho cụ an tâm, nhưng cụ vẫn hiểu sự thật của chữ "có", nên thường cụ để dành lại thức ăn ngon trên mâm, hầu đem xuống nhà cho con cháu.
    Có những lần tôi theo Mai Hương đến thăm ông bà nội các con Mai Hương, lúc trở về, ra tới cánh cổng, tôi quay đầu nhìn lên sân thượng thấy cụ Hương, ngồi yên lặng trên đó. Mình cụ để trần, mái tóc bạc trắng, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước không hề di động... Tôi thấy cụ Hương ngồi trên sân thượng như vậy nhiều lần, và những lần như vậy, trên đường đạp xe về nhà, hình ảnh già nua, im lặng và cô độc của cụ cứ lẩn quẩn mãi trong đầu óc tôi,
    Một hôm, có lẽ cũng vào dịp gần Tết, Mai Hương đưa một củ sâm Ðài Loan và nói với tôi:
    - Bà nội sắp nhỏ biểu chị đem củ sâm nầy đi bán. Ðó là củ sâm người ta tặng cho ông cụ từ lúc ông cụ sang Ðài Loan, còn cất giữ mãi đến bây giờ. Ông nói chắc không dùng đến nó, nên sai đem bán lấy tiền đong gạo cho sắp nhỏ?.
    Mai Hương mở gói giấy bọc củ sâm ra, củ sâm vỏn vẹn bằng hai phần ba bàn tay, nằm giữa mấy lớp giấy gói đã cũ. Nhìn qua, ai cũng biết củ sâm được gói kỹ lưỡng, và bị lãng quên trong một ngăn tủ nào đó lâu lắm rồi, nay mới được nhớ lại... Tôi nhìn củ sâm nghẹn ngào. Một nhà giáo thanh bạch, một người lãnh đạo quốc gia trong sạch như cụ, chỉ lấy đạo đức bản thân làm tài sản. Cụ đâu có nén vàng nào có thể đem bán lấy tiền đong gạo cho đàn cháu, hay giúp đỡ người thân đang tá túc trong nhà, những người đã ít nhiều liên lụy vì các hoạt động chính trị của cụ.
    Khoảng hơn một tuần sau, ông nội các cháu, tức em rể cụ Hương, ghé lại nhà Mai Hương và tôi (lúc này Mai Hương và tôi sống chung với nhau trong một căn nhà nhỏ ở quận Tân Bình) kể cho chúng tôi biết là ông vừa làm theo ý cụ Hương: đem mấy bộ đồ veste còn tốt của cụ ra chợ trời bán. Ðể an ủi người nhà bớt đau lòng, cụ Hương bình thản giải thích:
    - Từ đây cũng đâu có dịp nào mặc nó nữa, đem bán đi chớ để làm chi!
    Số tiền bán áo trên, chẳng ở trong túi được bao lâu, vì ngay sau đó bà Út đi chợ mua đồ ăn cho sắp nhỏ...Gia đình cụ Hương đã chịu chung số phận đau khổ và bi đát tột cùng từ tinh thần đến vật chất khi miền Nam rơi vào tay CS. Có một sự kiện làm tôi chảy nước mắt mỗi khi nhớ đến, lòng thêm kính mến và cảm phục cụ Hương: Trước khi chính quyền CS cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên, cụ Hương được họ thông báo sẽ có một buổi lễ để chính phủ trả quyền công dân cho cụ. Sau đó, để có buổi lễ được quay phim tuyên truyền, khi một cán bộ thay mặt chính quyền, đọc ?chính sách khoan hồng, rộng lượng? của nhà nước đối với những ?thành phần? như cụ, cụ dõng dạc nói:
    - Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân này. Dù gì tôi cũng là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân trước. Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân này, sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đã được nhận.
    Ðại diện của chính quyền CS không ngờ sự thể xảy ra như vậy. Tức giận, họ ra lịnh cúp máy thu thanh, thu hình. Vài ngày sau cụ nhận được lịnh quản thúc tại gia 3 năm. Cụ Hương nói với người nhà:
    - Bọn nó cũng chẳng cần phải quản thúc tao. Tao già và đau yếu như vầy, có khi nào bước chân ra khỏi nhà đâu mà cần phải quản thúc! Vào năm 80 tuổi, mỗi lần theo Mai Hương ghé vào thăm ông bà nội của các cháu, tôi ít thấy cụ Hương ra ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức khỏe của cụ sa sút nhiều. Một hôm, em rể cụ Hương bảo tôi:
    - Ông cụ dạo nầy yếu quá. Ông lại dứt khoát không muốn vô nhà thương khám bịnh hay chữa trị gì cả. Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao rồi. Dượng muốn nhờ Cẩm Anh có quen ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến nhà khám bịnh giùm cho ông cụ. Nếu không thì Dượng chẳng yên tâm.
    Nghe ông Dượng nói tôi mới nhớ, cách đó không lâu, cụ Hương bị mệt xỉu phải đưa vô nhà thương cấp cứu. Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định đòi người nhà phải đưa cụ về ngay. Cụ một mực từ chối, không chịu để điều trị trong bịnh viện đã thuộc về tay chính quyền CS.
    còn tiếp
    Được kiepngheo2 sửa chữa / chuyển vào 13:41 ngày 09/05/2005
  3. kiepngheo2

    kiepngheo2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2003
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    0
    Mặc dầu có quen biết vài bác sĩ, nhưng tôi nghĩ ngay đến nhà tôi, lúc ấy còn là một người bạn, vì trong hoàn cảnh không biết tương lai ra sao, nên chúng tôi chưa nghĩ đến việc lập gia đình. Tôi nhận lời Dượng, hứa tìm một bác sĩ của ?chế độ mình? để nhờ khám bịnh cho cụ. Khi nghe tôi trình bày, nhà tôi chẳng chút ngần ngại, vui vẻ nhận lời ngay. Lần đầu tiên nhà tôi đến, cụ bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nhìn mặt vì mắt cụ đã mờ. Cụ Hương hỏi nhà tôi:
    - Con đến đây thăm bịnh cho qua, con có sợ họ làm khó dễ con không?
    Nhà tôi trả lời:
    - Thưa cụ, cháu chỉ làm bổn phận và công việc của người thầy thuốc, cháu không ngại...
    Cụ xúc động, ghé người gần lại, đưa tay ôm lấy đầu nhà tôi. Nhà tôi tiếp:
    - Thưa cụ, cháu là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh nghiệm và kiến thức hãy còn ít, chữa bịnh cho cụ, nếu có điều gì không biết, cháu sẽ về đọc sách lại.
    Cụ Hương vui vẻ, mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay nhà tôi như để trấn an.
    Từ đó nhà tôi lui, tới với cụ thường xuyên để thăm bịnh cụ. Dường như việc trị bịnh đối với cụ chẳng có gì quan trọng, cụ không quan tâm lắm, mặc dầu cụ luôn luôn là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng những lời dặn của bác sĩ. Ðiều làm cho cụ vui và thoải mái hơn có lẽ là có người để cụ nói chuyện. Do đó, nhà tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau khi khám bịnh. Cụ nói thuốc men cụ dùng hàng ngày là do bà Trần Văn Văn và bạn bè ở Pháp gởi về tặng cụ. Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa cho người em rể cụ đem ra chợ trời bán, lấy tiền chia đều cho gia đình con cháu đong gạo. Một hôm cụ kể cho nhà tôi nghe một câu chuyện rất cảm động như sau:
    - Con biết không, chú có thằng em đến thăm (cụ xưng chú với nhà tôi, khi biết thân phụ nhà tôi lớn hơn cụ vài tuổi) nó đem đến một hộp sữa bò còn tặng chú 5 đồng (lúc mới đổi tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1 đồng tiền mới). Chú thương nó có tình, nhưng nghĩ nó phải đạp xích lô cực khổ để sinh sống, nên chú không nở lấy. Nhưng nếu chú không nhận thì ?sợ nó? buồn tội nghiệp, nên chú chỉ nhận có 5 đồng, còn hộp sữa thì bảo nó đem về cho gia đình (lúc ấy sữa rất khó mua). Người mà cụ kể là ?thằng em? một cách thân mật chính là thuộc hạ cũ của cụ.
    Cụ Hương còn tâm sự với nhà tôi những chuyện lúc cụ còn trẻ. Có một thời gian cụ cùng với một người con trai (Trần Văn Doi) theo hoạt động cho ********* chống Pháp. Nhưng khi nhận ra bộ mặt thật của *********, cụ dứt khoát trở về lại trong Nam và mất liên lạc với người con trai từ lúc ấy. Người con trai nầy đã ở lại miền Bắc, và phục vụ trong quân đội CS. Sau khi Sàigòn bị chiếm, anh có về thăm cụ với vợ là một bác sĩ VC. Có lẽ sự lui tới của cặp vợ chồng nầy cũng nhằm mục đích theo dõi cụ.
    Cụ Hương cũng có một người con khác đang sinh sống tại California. Anh có một đứa con bị bịnh Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa trị trước năm 1975. Ðã bao lần anh muốn bảo lãnh cụ ra nước ngoài, nhưng cụ nói với nhà tôi:
    - Trước kia đại sứ Martin năn nỉ, yêu cầu chú đi, chú đã từ chối. Bây giờ đời nào chú lại xin chính quyền CS để được đi.
    Những lần đi thăm bịnh sau của nhà tôi, cụ tâm sự nhiều hơn về những vụ buồn trong cuộc đời tham chính của cụ. Cụ luôn nhắc đến tên của những người mà cụ đặc biệt quý mến như bác sĩ Bạch Ðình Minh. Cụ ngậm ngùi kể:
    - Bác sĩ Minh là một người mà chú rất quý trọng. Hồi trước chú thấy bác sĩ Minh đi khám bịnh mà không có đồng hồ đeo tay. Chú mua tặng cho bác sĩ Minh một cái, nhưng đeo được vài tuần, bác sĩ Minh đem trả lại chú. Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân đội hết lòng tận tụy và giàu tinh thần trách nhiệm, chú đề nghị lên tổng thống Thiệu tưởng thưởng "Bảo quốc huân chương" cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối không nhận viện lẽ ông đang làm việc ở chỗ an toàn, xin dành huy chương ấy cho những người xả thân chiến đấu, hy sinh xương máu cho đất nước. Một lần khác cụ hỏi nhà tôi:
    - Con có biết bác sĩ Trần Lữ Y không?
    Nhà tôi thưa:
    - Bác sĩ Trần Lữ Y dạy con môn Nội Khoa ở trường Y khoa.
    Cụ Hương tâm sự:
    - Hồi trước bác sĩ Hoa Kỳ sang đây khám bịnh cho chú, họ đề nghị đưa chú sang Hoa Kỳ chữa bịnh. Thằng Trần Lữ Y đi theo chú, xin lỗi con, chú gọi bác sĩ Trần Lữ Y bằng "thằng", vì chú thương nó như con chú vậy. Khi máy bay ghé Manille, suốt mấy hôm chú ăn không nổi đồ ăn của họ, nên bác sĩ Trần Lữ Y phải ra phố kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú nghe có người nói bác sĩ Trần Lữ Y qua đời bên Pháp vì bịnh ung thư, có đúng như vậy không?
    Nói tới đây, cụ im lặng hồi lâu như nén sự xúc động. Mấy tuần sau, nhà tôi được tin bác sĩ Trần Lữ Y vẫn còn khỏe mạnh ở bên Pháp và có phòng mạch tư, gần với phòng mạch của bác sĩ Phạm Tu Chính. Nhà tôi vội vàng ghé lại thăm và nói cho cụ Hương biết tin thật về bác sĩ Trần Lữ Y. Nghe xong, cụ Hương nắm lấy tay nhà tôi mà chẳng nói gì. Hai giòng nước mắt từ từ lăn trên má cụ.
    Mặc dầu sức khỏe cụ Hương lúc đó đã sa sút nhiều, đi đứng khó khăn, dầu chỉ vài bước cũng cần cây gậy. Bên cạnh giường ngủ có gắn một cái chuông điện, trên bàn luôn có một cái chuông nhỏ để khi cần người nhà, cụ lắc bằng tay. Nhà tôi thán phục cụ có trí nhớ đặc biệt. Cụ có thể nhớ nguyên văn câu nói của từng người, ngày tháng, giờ giấc của sự kiện đã xảy ra. Cụ không quên từng chi tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ với nhà tôi rằng:
    - Chú nghĩ người làm chính trị phải có giáo dục và đạo đức. Khi tham chính tất nhiên chú chấp nhận có phe đối lập, nhưng dầu khác lập trường, chú vẫn luôn luôn tôn trọng họ. Có một dân biểu trẻ tên là (xin giấu tên), trong một buổi họp quốc hội, đã đứng lên đập bàn, chỉ vào mặt chú nói những lời vô lễ (xin không ghi lại câu vô lễ nầy)... Vì dân biểu nầy đáng con chú. Chú buồn và tiếc cho người làm dân biểu mà không biết đến chữ ?lễ?, không tỏ ra có tư cách của người học thức, chớ không buồn về lập trường đối lập của họ.
    Một hôm đến thăm cụ, nhà tôi thố lộ với cụ rằng "sớm muộn gì con cũng phải ra đi". Chuyện ra đi không biết khi nào mới thành công, nhưng không bao giờ con bỏ ý định đó. Chẳng phải vì miếng cơm manh áo, hay sự cực khổ mà phải bỏ quê hương. Nhưng vì cuộc sống lúc nào cũng thấy bị đe dọa, thiếu an toàn, ngủ một đêm thức dậy có thể bị bắt vì bất cứ một lý do viển vông nào... Nghe nhà tôi nói, cụ Hương trầm ngâm một hồi lâu mà không nói gì. Mãi một lúc sau, cụ thở dài chép miệng:
    - Có lẽ chú làm không đúng khi ra lịnh ngăn người ta ra khỏi nước trong những ngày hỗn loạn.
    Lúc nhà tôi từ giã cụ ra về, cụ ôm hôn nhà tôi và nói:
    - Chú gặp con muộn quá!
    Vào tháng 4 - 1981, tôi đạp xe đưa nhà tôi đi vượt biên lần thứ 13. Trước khi đi, nhà tôi có đến thăm cụ lần cuối. Biết cụ rất buồn, nhưng cụ giấu kín tình cảm để người đi bớt vướng víu. Một tháng sau đó, tôi cũng rời Việt Nam đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình do anh chị tôi bảo lãnh. Một ngày trước khi đi, tôi đạp xe trở lại đường Phan Thanh Giản, đứng một mình bên chiếc cổng sắt. Giữa một niềm vui khi sắp sửa thoát khỏi cảnh đời vô vọng, tăm tối, và một nỗi buồn khi biết rằng mình sẽ mất bao nhiêu gắn bó thân thuộc khi lìa khỏi nơi đây... cụ Hương vẫn là hình ảnh làm cho lòng tôi se thắt, là một cánh sen nổi trên dòng nước đang giao động của tâm hồn tôi...
    Dưới đây là hai mẩu chuyện được nhắc lại như một giai thoại. Hồi tháng 4 năm 1954, khi có sự vụ lịnh của thủ tướng Ngô Ðình Diệm bổ nhiệm cụ Hương làm đô trưởng Sàigòn - Chợlớn, thì cụ đi làm việc hàng ngày bằng chiếc xe đạp Alcyon. Khi vô tòa đô chính nhận việc, người lính gác cổng chận lại và không cho cụ vô. Cụ phải nói thật "Tôi là Ðô Trưởng" họ cũng không tin. Cụ phải trình sự vụ lịnh mới được bổ nhiệm, người lính mới hoảng hồn, định chắp tay lạy cụ, nhưng cụ từ tốn, an ủi mấy câu, rồi dẫn xe đạp vô làm việc. Khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bịnh (1964), hàng tháng chính phủ trả phủ cấp thêm 10.000 đồng, nhưng cụ từ chối, gởi trả lại công quỹ, vì cụ nói..."không có chuyện gì cần phải xài..."
    Nhắc lại về thái độ của cụ Trần Văn Hương trong những ngày đen tối của đất nước chúng tôi thấy có hai sự kiện đáng ghi nhớ:
    Cuốn hồi ký "Saigon et moi" của cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Mérillon kể lại: "Mãi tới tối 18 - 4 - 1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới cho ông (Mérillon) hay rằng Hoa Kỳ sẽ buông VN. Ðại sứ Martin nói:
    - Từ giờ phút này nước Pháp sẽ đảm nhận vai trò tái lập hòa bình cho VN.
    Mérillon chuyển lời nói nầy cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Hương nói:
    - Ông Ðại sứ à! Tui đâu có ngán *********. Nó muốn đánh, tui đánh tới cùng. Tui không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước tui, tui xin thề ở lại và mất theo nước này.
    Ðến ngày mất nước, đại sứ Martin còn đến gặp cụ Hương và nói:
    - Ngài đi với tôi sang Mỹ. Chánh phủ Mỹ sẽ nuôi dưỡng Ngài suốt đời, tôi nhân danh chánh phủ Hoa Kỳ đến mời Tổng Thống ra khỏi nước với bất cứ phương tiện nào mà ngài muốn. Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống mãn phần.
    Cụ Trần Văn Hương mỉm cười, trả lời (tiếng Pháp):
    - Thưa ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Ðã đến nỗi như vậy, Mỹ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Ðại Sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Ðại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng CS vào được Saigon, thì bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại chia xẻ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Ðại Sứ đã đến thăm tôi.
    Tới đây, tôi lại nhớ đến liêm sỉ và tiết tháo của một người lãnh đạo Cam Bốt, một nước láng giềng mà dân ta thường hay có thái độ coi thường. Ðó là ông hoàng Sirik Matak, Phó Thủ Tướng Cam Bốt. Cũng tháng 4 định mệnh ấy (1975) khi quân Khmer đỏ sắp tràn ngập Phnom Penh, Ðại Sứ Mỹ tại đây là John Gunther Dean đến mời hoàng thân Sirik Matak lưu vong qua Mỹ. ông Sirik Matak từ chối và trả lời bằng thư sau:
    "Thưa Ngài và bạn thân (Excellence et Cher Ami) "
    Tôi rất thành thật cám ơn Ngài về cái thơ và đề nghị giúp đỡ của Ngài đưa chúng tôi đến nơi tự do, nhưng tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế.
    Về phần Ngài và quốc gia to lớn của Ngài, tôi không có một lúc nào không tưởng rằng Ngài sẽ bỏ rơi một dân tộc đã chọn tự do. Quý Ngài đã từ chối bảo vệ chúng tôi, chúng tôi không làm sao được. Ngài ra đi và tôi chúc cho Ngài và quốc gia của Ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu trời của quý ngài.
    Nếu tôi chết ở đây trong nước tôi mà tôi yêu, thì thôi mặc, bởi vì tất cả chúng ta đã được sanh ra để rồi một ngày nào đó thì chết. Tôi chỉ có làm một lỗi lầm là đã tin nơi Ngài và tin nơi những người Hoa Kỳ.
    Xin Ngài và bạn thân, nhận nơi đây những cảm tình trung thực và thân ái của tôi.
    Sirik Matak,
    Theo lời người dịch, thư này sau mấy năm, có lần được đọc trong một phiên họp Quốc hội Hoa Kỳ, và được lưu giữ trong văn khố Quốc Hội. (Trích bài biết của BS Nguyễn Lưu Viên, tập san Y Tế số III, tháng 3 năm 1998).
  4. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32

    Năm 1945, ********* nổi dậy cướp chính quyền khắp 3 kỳ, nhóm ********* mới của Trần Văn Giàu (chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam bộ) cử cụ làm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với ********* được mấy tháng, thấy họ không thành thật, và theo con đường bá đạo, nên ông Hương từ chức.
    ================
    Tôi không hiểu bạn kiepngheo dùng diễn đàn này chống phá Việt nam, ********* hay cải huấn những người không theo Quốc gia,kể cả không phải Cộng sản ? Tôi chắc là nhiều người sẵn sàng tranh luận chính trị,nhưng diễn đàn này phi chính trị,mời kiepngheo sang những diễn đàn của những người quá khích Hải ngoại co phải hợp cạ không ?
    Kiếp nghèo lên án chính phủ mới cho ông Hương ở khổ. Nhưng ông đó được bìa tem phiếu của cán bộ,còn gì. Hơn nữa,là một người chống Cộng sản điên cuồng,là Tổng thống
    ông có bị bắt đâu,như thế là tử tế quá còn gì /
    Dưới thời Pháp-Việt Bảo đại,cụ Nhà nho Bộ Trưởng Nguyễn Văn Tố bị bắt là bắn ngay. Bao nhiêu bí thư Tỉnh Ủy, tướng tá của Cộng sản bị hành quyết ngay dưới triều ông Thiệu Hương. Ông Phạm Ngọc Thảo bị giết dã man. Thiếu tướng Thứ trưởng Bộ Công An VNDCCH Nguyễn Tài
    ,đặc phái viên của ***** hoà đàm với chính quyền Ông Diệm, bị giam trong xà lim,liệt hai chân tay mới được giải thoát tháng 4.1975 nh nhơ một người Hạ sỹ VNCH không theo lệnh trên quảng lựu đạn thủ tiêu . Nếu biết là cán bộ cao cấp của VC..: chỉ còn nước chết hay bị thủ tiêu. Trường hợp ông Minh Hương,hay Bí thư Tỉnh ủy Bến tre,may thoát được vì chính quyền không biết .
    Tôi thấy một người đã bị dân chúng miền Nam chê cười vì dùng thủ đoạn bẩn thỉu trong cuộc bầu cử độc diễn của Đảng Dân chủ là cặp ngựa ông Thiệu-Hương,thì nay lại ca tụng ông ấy.?? Hai ông Thiệu Hương bầy trò bầu cử mà chỉ cho có 1 liên danh ứng cử,lại được đa số phiếu. Ông chửi bới những người đối lập nặng nề, quy tất cả cho họ là ăn cơm quốc gia thờ ma CS. Báo chí Thế giới chửi và cười lút đầu về cuộc bầu cử này.Ông đặc biệt ủng hộ đảng Dân chủ ,đảng Khaki của ông Thiệu và các tướng lĩnh. Cái Đảng độc tài này bắt bao người giữa Sài gòn vì nghi là sửa khẩu hiệu bầu cử ,chữa chữ Dân chủ thành Dân chửi. Tôi đã đọc các bài báo còn lưu lại về việc này.
    Ông Hương ủng hộ phe đối lập với chính phủ mới nhưng đàn áp phe đối lập hồi ông làm Phó Thủ tướng.

    Kiếp nghèo gọi ông Tổng thống Minh trống không theo tôi là không tôn trọng. Ông Minh có hành động thiết thực cứu bao sinh mạng,còn cụ Hương kêu mọi người rút về Cần thơ tử thủ.
    Ví thử Mỹ đồng ý như vậy, hàng trăm ngàn người sẽ phải chết
    Vì thế, vực dậy một con người độc tài,chống cộng ,coi thường mạng sống của dân ấy làm gì ?
    Cụ Hương chết rồi,thì để cụ ấy yên nghỉ.
  5. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    Thực ra Ông Hương không thể so sánh với nhiều tướng tá quân đội Sài Gòn cũ đã dám tuẫn tiết vì "sự nghiệp" của họ không thành. Những người ấy mới còn có một ít khí phách của người quân tử. Tôi đề cập đến "sự nghiệp" ở đây là binh nghiệp, chứ không phẩi là "lý tưởng". Ở trên box này và nhiều box khác vẫn còn nhiều người tranh luận, bảo vệ cho chế độ Sài Gòn hồi ấy. Nhưng con cháu mình mai sau, cũng như chúng ta bây giờ có ai bảo vệ cho Lê Chiêu Thống!
    Muốn gì cũng phải công nhận CS (dù là dưới hình thức *********, *********...) là những người đã làm được điều mong ước của các cụ Nguyễn Trung Trực, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Đề Thám... Sau hơn 100 năm đã quét được bè lũ giặc ngoại xâm ra khỏi Việt Nam. Tất nhiên họ cũng mắc phải nhiều sai lầm trong xây dựng kinh tế, nhưng họ cũng đã giữ được đất nước ổn định đề giờ đây đang chuyển mình... Chỉ những kẻ mang trong mình dòng máu của Lê Chiêu Thống mới mừng vui khi đất nước họ bị bao vây, đồng bào họ bị cấm vận và sống trong đói nghèo... Hãy xem người nước ngoài như Olivier Todd trong "Tháng tư ác liệt" họ nhận xét Ông Hương và Chính quyền của Ông. Ông Hương có thể không trực tiếp, nhưng bằng các mệnh lệnh của ông bao nhiêu người đã bị giết chết, do sự hỗ trợ, tiếp tay hay ngoảnh mặt làm ngơ của Ông mà đồng bào của Ông dã bị "đồng minh" của Ông tàn sát ở Mỹ Lai... Nhưng cuối cùng khi ở lại Việt Nam, trong khi mọi người phải ăn hạt Bo Bo thay cơm, Ông được cấp phiếu E, được ở lại trong ngôi biệt thự... Như thế gọi là gì?
  6. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Đọc mấy bài của bọn Việt kiều bán nước lưu vong mà buồn cười - không biết chúng bịa ra chuyện ông già Hương trả lời ở lúc nào ? có bằng chứng nào ? mà chúng kể thao thao cứ như thật, mỗi thằng kể lại thêm một đống râu ria.
    Nhưng thôi lũ đó sắp tuyệt hết dòng giống rồi, cũng như lũ "Việt kiều lưu vong" - con cháu của Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống bên Tàu bây giờ vậy.
  7. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Thôi các bác ạ, đừng có hồng vệ binh quá, dẫu sao đây cũng là một câu chuyện với cách nhìn từ hai phía về số phận một gia đình trong chiến tranh thôi. Ông Hương xem vậy quả là có tư cách đáng trọng: ông dám ở lại chờ một tương lai không rõ ràng, cho dù nhận phiếu hạng E chăng nữa nhưng chắc không tham nhũng nhiều tiền như mấy ông Thiệu, Kỳ kia. Chỉ tội ông hơi hám danh chút, bon chen nghiệp chính trị lúc đã già, mà ở đời ai chẳng thích danh nhỉ, tôi với mấy bác chắc cũng vậy.
    Mà ở hải ngoại cũng như trong nước không ai nhắc tới chuyện hai ông Cao Văn Viên và Cao Văn Khánh là anh em nhỉ? Một ông là tổng tham mưu trưởng, một ông làm đại đoàn phó, rồi phó tổng tham mưu.
  8. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1
    Còn bạn thì sao quyenlinh666, bạn tự đánh giá mình là gì? Yêu nước à? Yêu nước thì đâu có mạt sát đồng bào mình như vậy. Hay bạn chỉ yêu CNCS, hay bạn thù ghét Cộng Hòa vì lý do riêng, hay bạn ... thôi không nói nữa. Kêu gọi hòa hợp dân tộc mà vẫn còn những người có ý nghĩ như bạn còn xuất hiện....
  9. maple_leaf

    maple_leaf Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    24/03/2004
    Bài viết:
    464
    Đã được thích:
    25
    Bọn "bán nước" là những người chiến đấu đến cùng để bảo vệ Hoàng Sa, còn những vị "yêu nước" thì ra văn bản công nhận chủ quyền của bọn chó Tàu ở đó. Nếu nói là bán nước như thế thì bọn Nam Hàn, Nhật Bản, Đức tụi nó đều bán nước hết. Nếu bán nước mà được giàu mạnh, uy tín trên trường quốc tế cao, thêu mướn bọn công dân ở những tổ quốc vĩ đại về làm thuê cho mình thì cũng nên bán nước. Nhưng mà những "đỉnh cao trí tuệ của loài người" vẫn phải đi xin viện trợ của bọn bán nước nhỉ ?
  10. thepaladin

    thepaladin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/01/2003
    Bài viết:
    813
    Đã được thích:
    0
    Vị nào "yêu nước" ở cả trong nước lẫn hải ngoại cứ việc ra sứ quán tàu mà ăn vạ cái Hoàng Sa. Tớ thì bản thân tin rằng "từ xưa lâu lắm rồi ko ai nhớ rõ" , tàu khựa là những thằng đầu tiên đặt chân đến đó.
    Về hoà hợp dân tộc, bên kia còn tát nước thì bên này vẫn phun mưa.
    Mời các bác chiêm ngưỡng.
    www.gianghocungnhauchongcong.net
    (nghe tên đã thấy vô văn hoá)
    Hoà hợp là phải cả 2 đưa tay ra bắt tay nhau, chứ ko thể có chuyện vừa đấm vừa kêu đau được.
    Được thepaladin sửa chữa / chuyển vào 02:42 ngày 10/05/2005
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này