CHUYỆN VUI NGÔN NGỮ NHỮNG CÂU CHUYỆN THÚ VỊ VỀ TIẾNG VIỆT Xung quanh tiếng Việt có bao nhiêu câu chuyện thú vị, như chuyện phát âm, dùng từ, nói lái vv? Trong cuộc sống, nếu chịu khó lắng nghe, quan sát chúng ta còn có thể phát hiện ra nhiều điều thú vị hơn nữa. Xin góp vui những câu chuyện thú vị sau đây: Chuyện tiết kiệm khi sáng tạo từ Sáng tạo từ là cả một quá trình lâu dài của một ngôn ngữ. Có nhiều cách để sáng tạo từ, nhưng có một cách đó là sử dụng tối thiểu số lượng vỏ ngữ âm để có số lượng tối đa từ vựng. Điều này đẻ ra hệ quả là: vậy thì từ nào có có trước, từ nào có sau. Trong tiếng Việt, chuyện này không khó như chuyện vật chất và ý thức trong triết học, chuyện cái trứng có trước hay con gà có trước trong sinh học. Từ là sự phản ánh nhận thức của con người về thế giới khách quan và chủ quan nên sẽ rất thú vị khi chúng ta biết từ nào có trước, từ nào có sau để biết được nhận thức nào có trước, nhận thức nào có sau của con người về thế giới. Bạn thử tự mình lấy ví dụ xem: từ con gà sẽ có trước từ cây hoa mào gà vì khi có từ con gà mới có từ mào gà, có từ mào gà mới có sự liên tưởng để đặt tên cho một loài hoa giống cái mào gà. Tương tự, từ cây vòi voi sẽ có sau từ con voi, từ cây nắp ấm chỉ có sau khi đã có cái ấm, vv? Bằng cách này, bạn sẽ tìm kiếm ra bao điều thú vị về việc sáng tạo ra thế giới từ vựng của ông cha ta mà một điều hết sức đáng lưu ý là ông cha ta rất chú ý tiết kiệm tối đa vỏ ngữ âm để có một số lượng từ vựng phong phú. Cấp độ sử dụng của một từ Bạn đã bao giờ chú ý từ cha được sử dụng với biên độ khác với từ bố, từ ba? như thế nào chưa? Không để ý, ta dễ lầm chúng có giá trị sử dụng ngang nhau. Nhưng nếu lưu tâm một chút, bạn sẽ thấy rằng, từ cha có biên độ sử dụng rộng hơn từ ba, từ bố thật nhiều. Xem khả năng kết hợp các từ đơn đó trong các ví dụ sau bạn sẽ rõ: Từ cha có các khả năng kết hợp sau: cha mẹ, mẹ cha, cha ông (thế hệ cha ông), ông cha (ông cha chúng ta), cha con, cha chú (bậc cha chú), vv?Trong lúc đó, từ bố chỉ có các kết hợp: bố mẹ, bố con (2 khả năng); từ ba tương tự, chỉ có: ba mẹ, ba con (2 khả năng). Từ gợi ý của ví dụ trên, bạn có thể nghĩ thêm được ví dụ nào nữa không? Nhưng chắc chắn với bạn rằng, giá trị sử dụng của một từ đâu phải chỉ tự thân nó. Giá trị đó là ở các mối quan hệ. Một từ có quan hệ càng nhiều, khả năng kết hợp càng lớn thì????. Cách nói của cha tôi Cha tôi là con người bộc trực, cứng rắn và quyết liệt. Cách nói của ông cũng vậy, quyết liệt và tận cùng. Nói một ai đó sai, ông nói sai quay lấu, sai hoay hoáy. Sai quay lấu là sai như thế nào? Rất sai, sai cho nên anh không đứng vững được, phải ngã. Mà ngã thì ngã quay lơ, ngã quay lấu. Tương tự như vậy, sai hoay hoáy nghĩa là rất sai, sai rất sâu sắc. Mà sâu thì sâu hoay hoáy. Mẹ tôi cũng nói vậy Trong một tài liệu dạy ngữ pháp tiếng Việt, có người cho rằng, phu nhân người Nga của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là người có công phát hiện ra một cách tạo từ đặc biệt của tiếng Việt. Thay vì sử dụng quy tắc ?oiêc hoá? (quy tắc này được sử dụng để chỉ chung, mang tính khái quát và xem thường sự vật, hiện tượng được nói đến) người ta không nói cà phê cà phiếc thì người ta nói cà phê cà pháo. Vậy thì điều này mẹ tôi cũng hay nói: bộ đội bộ bưng, cán bộ cán chòng .Bạn hãy suy nghĩ xem, cách nói này có quy luật nào. Thử lấy thêm ít ví dụ. Cứ tưởng thực đơn nhà bếp Một anh chàng làm nghề sửa xe đạp bảo vợ thế này, ai mà không tưởng anh ta kê thực đơn cho vợ: ?o Hôm nay em mua cho anh 4 đùm (moay ơ), 5 chén (côn), 6 nồi, 1 chục đũa, 1 chục bó tăm (nan hoa), 3 cặp giò (càng), 8 vỏ (lốp), 8 ruột (săm)? . Nghe vậy, ta mới thấy quy luật tiết kiệm vỏ ngữ âm của tiếng Việt ta thật tuyệt vời khi biết rằng, tiếng Việt ta đã đơn tiết hoá các từ chambre, lopbre trong tiếng Pháp để có từ săm, lốp. Hai nghĩa đối nghịch trong một từ Người nước ngoài thật khó học tiếng Việt. Khó không phải bởi quy tắc ngữ pháp quá phức tạp như tiếng Nga, không phải kiểu chia động từ của tiếng Pháp. Khó của tiếng Việt là bởi các hiện tượng bất thường của nó (tiếng nước ngoài cũng có những cái bất quy tắc của nó). Lấy từ chắc và từ nhau làm ví dụ. Câu cuối trong bài ?o Nhớ? của Hồng Nguyên: Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc ( Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau). Như vậy, từ chắc và từ nhau cùng có nghĩa như nhau. Tương tự, lấy chắc, lấy nhau, đánh chắc, đánh nhau vv? đều như vậy. Nhưng trong các kết hợp đi với nhau, đi một chắc, ở với nhau, ở một chắc, ngồi với nhau, ngồi một chắc thì chắc với nhau là khác nghĩa. Cách gọi ước lệ trong mua bán Nếu không phải là người Việt thông thạo chợ búa cùng giá cả hàng hoá thì rất khó biết được trong câu chuyện sau đây của mấy bà đi chợ về, giá của mặt hàng thế nào. - Bữa ni bán được không mự ? (bán được mang nghĩa hàng có giá) - Ế làm bà ạ ! - Giá ra răng? - Trù 10, cau 50, chè 80. Mà gạo thì kém lắm (gạo kém nghĩa là gạo đắt). Gạo mấy? 80. Chà giá cả tăng vùn vụt. Gạo 80, vàng 80, không biết mần răng dừ. Khi nói trù 10, có nghĩa là 1000đồng/ tay (4 liền, mỗi liền 30 lá); cau 50 có nghĩa là 500đồng/ 1 chục trái; chè 80 nghĩa là 800 đồng/ bó, gạo 80, nghĩa là 8000đồng /cân, vàng 80 nghĩa là 800.000 đồng/ chỉ. Cách nói đó, cả người nói lẫn người nghe đều mặc nhiên rút gọn và cùng công nhận với nhau các đơn vị tính, đơn vị đếm. Không thông thạo giá cả và chuyện chợ búa, không thể hiểu được cách nói ước lệ trên. Thay thế ngôi thứ trong xưng hô Trong tiếng Việt, ta bắt gặp những đại từ xưng hô như ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh, chị vv... nhưng người xưng lại không đứng ở vị trí cuả mình mà lại đứng ở vị trí con cháu mình mà xưng. Điều này đem lại một lợi thế đặc biệt để xử lý những tình huống hết sức tế nhị mà lại rất lịch sự. Xét trường hợp sau ta sẽ thấy: Một người chú ít tuổi xưng hô với một người cháu nhiều tuổi hơn mình. Xưng cháu thì thấy khó coi, đầy bất tiện. Anh ta mượn con mình và xưng với người cháu là anh. Chú với anh chứ không phải chú với cháu đâu nhé. Anh ở đây là anh trong quan hệ với con của người chú. Vì vậy, ta sẽ thấy, người Việt rất tinh tế trong chỗ này: - Gọi cha mẹ bằng ông bà thay cho con của mình. - Anh trai, chị dâu gọi em trai, em dâu là chú mự - Em trai, em dâu gọi anh trai, chị dâu là bác - vv... và các trường hợp khác Như vậy, trong việc sử dụng đại từ nhân xưng của người Việt, ngoài việc xưng hô đúng ngôi thứ thì việc thay thế ngôi thứ trong xưng hô có tính phổ biến. Điều này chứng tỏ tiếng Việt hết sức phong phú và tinh tế trong việc sử dụng đại từ nhân xưng. Bác nhưng là anh là chị đấy, chú, mự nhưng là em đấy. Thật thú vị cho người nước ngoài khi học tiếng Việt. Dấu câu trong các khẩu hiệu Khẩu hiệu - xét về mặt cú pháp, có thể coi là những câu đặc biệt, nghĩa là chúng ta khó có thể xác định chức năng ngữ pháp của chúng. Ấy vậy mà chúng tôi đã từng chứng kiến những câu khẩu hiệu kết thúc bằng dấu chấm than ở một trường THCS như sau: Tất cả vì học sinh thân yêu ! Thi đua dạy tốt, học tốt ! Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại ! Về một lớp thành từ được sử dụng như thành ngữ Hãy thử so sánh những tình huống giao tiếp sau: A đi giải quyết một việc gì đó không được trở về đang trong tâm trạng hết sức tức tối, gặp B. (B cũng biết việc A đi giải quyết) B: - Thế nào? A: - Lộn ruột. (rất tức, tức như lộn ruột) Trong tình huống trên, cả A và B đều đã thực hiện việc giao tiếp với số lượng tín hiệu thông tin đưa ra thấp nhất nhưng hiệu quả thông tin cao nhất. Cách hỏi của B rõ ràng là tập trung hỏi vào kết quả của việc giải quyết công việc: Thế nào ? Đây là câu đã được rút gọn tối đa. Câu trả lời của A : Lộn ruột, cũng tập trung trả lời vào kết quả giải quyết công việc. Nhưng đây là câu trả lời có hình ảnh, ngắn gọn, hoàn cảnh đối thoại trực tiếp cho phép B không hề nhầm lẫn A bị lộn ruột mà phải hiểu với nghĩa: A không giải quyết được công việc mà còn rất tức, tức đến lộn ruột. Rõ ràng là, với hiệu quả trên, hệ thống từ được sử dụng như thành ngữ rất có lợi thế trong giao tiếp. Thay vì nói " dốt như bò" người ta sẽ nói" me lặt", rủa một kẻ lì lợm, người ta không nói " mặt lì, mày lợm" mà nói "mặt mo"(mặt mo đã thấy Sở Khanh dẫn vào- Kiều), chê một kẻ không làm nên chuyện gì, người ta sẽ nói "xách dép", một tên dâm đãng sẽ có tên " dê cụ", một kẻ ngoa ngoắt được cho là " lắm mồm" hoặc "to mồm", hiểu ra một việc gì đấy thì được gọi là "sáng mắt" vv... và vv... Hệ thống từ được sử dụng như thành ngữ nói trên là một tồn tại thực tế, góp phần tạo hiệu quả cao trong giao tiếp. Những từ đó có cấu tạo bền vững, không thể chia tách, được sử dụng nguyên khối trong giao tiếp và được hiểu theo nghĩa bóng. Đó chính là những đặc điểm của thành ngữ. Phan Bá Tiến