1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Có bác nào ở đây biết về ISO ? (Bạn nào cần tham khảo những thông tin về ISO 14000 thì xem từ trang

Chủ đề trong 'Khoa học công nghệ và môi trường' bởi thamlam, 07/02/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. NTA

    NTA Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Tiện đây mình cũng xin trình bày một số vấn đề về ISO 14000 để các bạn cùng tham khảo
    1. Loạt các tiêu chuẩn ISO 14000 về Quản lý Môi trường

    1.1. Lý do và cách thức ISO xây dựng các tiêu chuẩn quản lý Môi trường
    Tháng Giêng năm 1993, ISO đã lập ra Uỷ ban Kỹ thuật (TC) 207 để xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường. Mục đích của việc khởi xướng mới này là:
    Cung cấp cơ sở cho việc hoà nhập các tiêu chuẩn hiện có cũng như các nỗ lực trong tương lai trong lĩnh vực này, nhằm tạo điều kiện cho thương mại quốc tế.
    Hỗ trợ việc "bảo vệ môi trường cân đối với những nhu cầu kinh tế xã hội"3 bằng cách đảm bảo cho các tổ chức có được công cụ để đạt được và cải thiện về biện pháp trong hoạt động môi trường.
    Số các nước tham gia vào Uỷ ban kỹ thuật 207 ngày càng tăng, có đến 64 nước tham dự cuộc họp lần đầu tiên tổ chức vào tháng 6 năm 1995 - gần 60% tổng số các thành viên của ISO.
    Mỗi nước thành viên có thể tham gia tích cực vào tiến trình xây dựng tiêu chuẩn hoặc là nước quan sát viên. Nước quan sát viên không có quyền bầu cử song có quyền tham dự các cuộc họp và được thông báo bằng thư tín. Các nước thành viên tham gia có "các cơ quan thành viên" ISO, chịu trách nhiệm xây dựng tiêu chuẩn trong nước mình.
    Những cơ quan này phần lớn là các cơ quan nhà nước. Các tổ chức quốc tế có mối liên lạc với ISO cũng tham gia vào công việc hoặc quan sát công việc của ISO.
    TC 207 bao gồm các đại diện chính thức của các tổ chức công nghiệp, các tổ chức tiêu chuẩn, tổ chức chính phủ, phi chính phủ và các tổ chức quốc tế. Phần lớn các đại biểu là từ các nước Tây Âu Canađa và Mỹ. Các đại diện từ các nước đang phát triển tới nay chưa có mặt tại các cuộc họp của TC 207. Kết quả là các tiêu chuẩn đã được soạn thảo bước đấu theo tinh thần công nghiệp hoá.

    Về mặt nội dung TC 207 được chia ra thành 6 Tiểu ban (TB) mỗi Tiểu ban chịu trách nhiệm về một lĩnh vực quản lý môi trường cụ thể:

    TB1 : Các hệ thống quản lý môi trường;
    TB2: Kiểm toán môi trường;
    TB3: Cấp nhãn hiệu môi trường;
    TB4: Đánh giá hoạt động môi trường;
    TB5: Đánh giá chu trình sống;
    TB6: Thuật ngữ và định nghĩa.

    Tiểu ban chịu trách nhiệm về việc ra quyết định chính thức để cho phép một Dự thảo công tác (WD), có được vị trí một Dự thảo của toàn Ban (CD). CD được chuyển tới các thành viên lấy ý kiến và bỏ phiếu thông qua và để đăng ký nó như là một dự thảo tiêu chuẩn quốc tế (DIS). Cần có 80% phiếu thuận để một tài liệu có thể chuyển sang bớc tiếp theo. Mỗi nước thành viên tham gia sẽ có một phiếu bầu. Khi tiêu chuẩn đó được chấp thuận là một tiêu chuẩn ISO, nó được phổ biến tới các nước thành viên để chấp thuận nó nh là tiêu chuẩn quốc gia của mình.
    Trong tiến trình đạt được sự nhất trí về việc phê chuẩn một dự thảo, các Tiểu ban phải xem xét lại một loạt các ý tưởng và các cách tiếp cận có mâu thuẫn. Những triển vọng từ các nước, các ngành công nghiệp khác nhau hoặc thậm chí từ các công ty riêng lẻ phản ánh không chỉ sự khác nhau về văn hoá mà còn những kinh nghiệm khác nhau đối với các vấn đề môi trường và các lợi ích cá nhân của các thành viên tham gia. Các đoàn đại biểu của các quốc gia cũng có quan tâm tới việc bảo vệ các tiêu chuẩn quốc gia hiện có của mình.
    Phần lớn thành phần các đoàn đại biểu các quốc gia không cân xứng tới mức, hoặc là một số toàn các đại diện về tiêu chuẩn quốc gia, một số toàn các cố vấn hoặc một số khác lại toàn đại diện các ngành công nghiệp.
    Vì các Dự thảo của toàn Ban hiện có có xu hướng thay đổi cho tới khi đạt được văn bản tiêu chuẩn cuối cùng của mình, các ý tởng chính của loạt các tiêu chuẩn ISO 14000 có"thể được tổng kết trên cơ sở của những tài liệu này.

    Chào mừng các bạn đến với diễn đàn KHCN&MT
    Được nta sửa chữa / chuyển vào 10:34 ngày 16/02/2003
  2. NTA

    NTA Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    1.2. Nội dung của loạt các tiệu chuẩn ISO 14000

    Loạt 14000, theo dự kiện hiện nay, sẽ bao gồm trên 20 tiêu chuẩn riêng:

    14001
    Cụ thể hoá Hệ thống quản lý môi trường
    DIS
    14004
    Hướng dẫn chung - Hệ thống quản lý môi trường
    DIS
    14002
    Hướng dẫn Hệ thống quản lý môi trường cho XN vừa, nhỏ
    NP
    SC2
    14010
    Hướng dẫn Kiểm toán môi trường - Những nguyên tắc chung
    DIS
    14011.3
    Hướng dẫn Kiểm toán môi trường - Thủ tục KT, Phần I: Kiểm toán Xí nghiệp vừa và nhỏ
    DIS

    14011.2
    Phần II: Kiểm toán sự tuân thủ
    NP
    14011.3
    Phần III: Kiểm toán báo cáo môi trường
    NP
    14012
    Hướng dẫn Kiểm toán môi trường - Chỉ tiêu trình độ đối với kiểm toán viên
    DIS
    14013
    Quản lý các chương trình kiểm toán hệ thống môi trường
    NP
    14014
    Hướng dẫn tổng quan môi trường ban đầu
    WD
    14015
    Hướng dẫn đánh giá địa điểm môi trường
    NP
    SC3
    14020
    Các nguyên tắc cơ bản đối với cấp nhãn hiệu môi trường
    WD
    14021
    Cấp nhãn hiệu môi trường - Khiếu nại môi trường tự tuyên bố - Thuật ngữ, định nghĩa
    CD
    14022
    Các ký hiệu cấp nhãn hiệu môi trường (Kiểu II)
    WD
    14023
    Cấp nhãn hiệu môi trường - kiểm định và các phương pháp uỷ quyền
    NP
    14024
    Cấp nhãn hiệu môi trường - nguyên tắc chỉ đạo, thực tế, chỉ tiêu cho các chương trình cấp chứng chỉ - hướng dẫn thủ tục
    CD
    SC4
    14031
    Đánh giá hoạt động môi trường
    WD
    14032
    Các chỉ thị hoạt động môi trường công nghiệp cụ thể
    NP
    SC5
    14040
    Đánh giá chu trình sống - Nguyên tắc chung và thực tế
    CD
    14041
    Đánh giá chu trình sống - Phân tích thống kê chu trình sống
    WD
    14042
    Đánh giá chu trình sống - Đánh giá tác động chu trình sống
    WD
    14043
    Đánh giá chu trình sống - Đánh giá cải thiện chu trình sống
    NP
    SC6
    14050
    Quản lý môi trường - thuật ngữ và định nghĩa
    WD
    WG(*)
    14060
    Hướng dẫn đối với việc đưa các khía cạnh môi trường vào tiêu chuẩn sản phẩm
    DIS
    Ghi chú:
    (*) Dự kiến cho những người viết tiêu chuẩn
    (NP - Dự án mới; WD - Dự thảo Công tác; CD - Dự thảo của toàn Ban; DIS - Dự thảo tiêu chuẩn quốc tế)

    Các hệ thống quản lý Môi trường
    Một hệ thống quản lý môi trường (EMS) được coi như là một cơ cấu tổ chức, bao gồm các thủ tục, các quá trình, các nguồn lực và những trách nhiệm thực hiện quản lý môi trường. Một hệ thống như thế phải tạo cho các tổ chức có khả năng đạt được kết quả và thể hiện được việc tuân thủ theo các quy định. Nó phải cho phép các tổ chức kiểm soát được tác động môi trường của mọi hoạt động, mọi sản phẩm và dịch vụ có lu ý tới chính sách và các mục tiêu môi trường tự xác định. Những mục tiêu này cần phải bao gồm các lĩnh vực môi trường mà các tổ chức đó có thể kiểm soát và muốn có ảnh hưởng đối với chúng.
    Các tiêu chuẩn dựa vào cơ sở là các tổ chức này sẽ định kỳ xem xét lại và đánh giá các hệ thống nhằm cải thiện các hoạt động môi trường.
    Tài liệu chi tiết hoá các hệ thống quản lý môi trường, CD 14001, xác định các yếu tố chủ chốt của một hệ thống quản lý môi trường, và sẽ được bên thứ ba tiến hành kiểm toán để cấp chứng chỉ/đăng ký 5. Một tài liệu hướng dẫn riêng cung cấp những thông tin bổ sung cho việc giải thích CD 14001, chứ không có ý định để cấp chứng chỉ.
    Ngoài yêu cầu tuân thủ luật pháp được áp dụng và tiếp tục cải thiện hoạt động môi trường, tiêu chuẩn không đa ra chỉ tiêu thực hiện chính xác.
    Vì thế hai tổ chức có trách nhiệm trong những hoạt động tương tự nhau nhưng có hoạt động môi trường khác nhau có thể đều đáp ứng được những yêu cầu này như khi cam kết thực hiện luật pháp.
    Lý do để ISO không đưa ra các ngưỡng cụ thể cho hoạt động là để cho phép các tiêu chuẩn áp dụng được tại các nước khác nhau có các quy chế và các điều kiện môi trường khác nhau.

    Chào mừng các bạn đến với diễn đàn KHCN&MT
  3. NTA

    NTA Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    (...tiếp theo)
    CD 14001 xác định các yếu tố chủ chốt sau đây của một hệ thống quản lý môi trường:

    a. Xác định chính sách:
    Xác định một chính sách quản lý môi trường cấp cao. Chính sách này bao gồm các mục tiêu tổ chức liên quan tới hoạt động môi trường. Nó phải được tư liệu hoá, truyền đạt cho mọi cán bộ và cho quảng đại quần chúng.
    b. Giai đoạn quy hoạch:
    Xác định các lĩnh vực môi trường7 và các yêu cầu pháp lý liên quan tới các hoạt động, các sản phẩm và các dịch vụ của công ty;
    Xây dựng và tư liệu hoá các mục tiêu và các đối tượng môi trường8 tại mỗi cấp tổ chức thích hợp. Các giải pháp kỹ thuật9 Và các quan điểm của các bên quan tâm phải được lu ý tới;
    Xây dựng một chương trình quản lý môi trường10 nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Định rõ trách nhiệm ở từng cấp tổ chức: tư liệu hoá và thông tin về những trách nhiệm này;
    Cụ thể hoá các biện pháp và thời hạn đạt được các mục tiêu nêu ra.
    c. Giai đoạn thực hiện:
    Cung ứng công nghệ, tài chính và nhân lực cần thiết cho các hệ thống quản lý môi trường; chỉ định đại diện quản lý cụ thể11
    Đào tạo và các phương pháp nâng cao nhận thức cho nhân viên12.
    Các quy trình truyền thông nội bộ và ra bên ngoài;
    T liệu hoá và kiểm soát tài liệu13
    Kiểm soát việc vận hành hệ thống.

    d. Giai đoạn kiểm tra:
    Giám sát và đánh giá tiến trình vận hành cũng như việc thiết lập một chương trình kiểm toán hệ thống quản lý môi trường nhằm xác định sự tuân thủ theo các mục tiêu và các yêu cầu tiêu chuẩn và cung cấp thông tin cho việc thẩm định quản lý;
    Hoạt động phòng ngừa và sửa chữa trong trường hợp không tuân thủ và tư liệu hoá các hoạt động đó;
    Duy trì các hồ sơ môi trường, bao gồm cả các hồ sơ đào tạo, kiểm toán và các kết quả thẩm định.

    e. Thẩm định của cấp quản lý:
    Cấp quản lý phải thẩm định hệ thống quản lý môi trường nhằm đảm bảo là hệ thống vẫn tiếp tục một cách có hiệu quả, dựa vào các kết quả kiểm toán, việc thay đổi hoàn cảnh và sự cam kết cải thiện. Những thay đổi phải được tư liệu hoá.

    Kiểm toán môi trường
    Kiểm toán môi trường (EA) là một quá trình được tư liệu hoá có hệ thống nhằm thu nhận chứng cứ là một hoạt động môi trường hay một hệ thống quản lý có tuân thủ theo tiêu chuẩn kiển toán đặt ra hay không. Một chương trình kiểm toán môi trường được coi là biện pháp đánh giá việc thực hiện hợp lý và duy trì một hệ thống quản lý môi trường cũng như xác định các lĩnh vực cải thiện tiềm tàng.

    TC 207 cung cấp hướng dẫn cho các tổ chức về việc làm thế nào để thực hiện kiểm toán nội bộ hệ thống quản lý môi trường. Một số các nguyên lý chung về tiến trình kiểm toán môi trường được đa ra như sau:

    -Kiểm toán môi trường phải được thực hiện theo cách thức khách quan và có hệ thống
    -Phải theo các phương pháp luận, các mục tiêu và các tiêu chuẩn xác định rõ ràng
    -Các chứng cứ của những kết quả kiểm toán phải dựa trên việc phân tích, lý giải và tư liệu hoá các thông tin phù hợp
    -Các biện pháp thu thập chứng cứ bao gồm: phỏng vấn, xem xét các tài liệu và các thủ tục lấy mẫu cũng như quan trắc các hoạt động.

    Tiếp theo TC 207 xác định các tiêu chuẩn trình độ nghề nghiệp đối với các chuyên gia kiểm toán, như trình dộ văn hoá, kinh nghiệm công tác, t cách và trình độ cá nhân. Hệ thống quản lý môi trường và các tài liệu kiểm toán được đa ra dưới dạng các biêu bảng như là Tiêu chuẩn quốc tế dự thảo vào tháng 6 năm 1995. Chúng dự kiến sẽ được phát hành vào đầu năm 1996.

    Đánh giá hoạt động môi trường và các chỉ số
    Các tiêu chuẩn về đánh giá hoạt động môi trường (EPEW) và các chỉ số tạo ra một công cụ cho các công ty thiết lập nên một hệ thống thẩm định hoạt động môi trường riêng cho mình. Hệ thống này phải bao quát ba lĩnh vực: hệ thống quản lý môi trường của công ty, hệ thống vận hành nó, và tình trạng môi trường bị tác động bởi các hoạt động đó. Phương pháp luận, phạm vi và nội dung của ba lĩnh vực này cũng như những mối liên quan qua lại của chúng đã được bàn đến. Những kết quả làm việc của đánh giá hoạt động môi trường cũng được tóm tắt trong Dự tháo Công tác. Dự thảo công tác bao gồm các đề cương về các chỉ số14, cũng như các hướng dẫn về thu thập và phân tích dữ liệu. Dự thảo Tiêu chuẩn quốc tế dã được phát hành vào 1996/1997.

    Đánh giá chu trình sống
    Đánh giá chu trình sống (LCA) là quá trình phân tích tác động môi trường của sản phẩm (sử dụng nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm đất, nước, không khí) trong suốt một chu trình sống của sản phẩm đó (từ chiếc nôi đến nấm mồ). Việc phân tích bao gồm giai đoạn khai thác tài nguyên, sản xuất, phân phối, sử dụng/tiêu thụ và loại bỏ các tiêu chuẩn ISO xác định những yêu cầu chung đối với việc thực hiện việc Đánh giá chu trình sống và báo cáo những kết quả của nó. Mục đích của những tiêu chuẩn này là cung cấp cho các công ty một công cụ ra quyết định cũng như đánh giá các phương pháp sản xuất thay thế.

    Chúng có thể được sử dụng để giúp cho việc xác nhận nhãn hiệu môi trường hoặc lựa chọn các chỉ số môi trường. Khi xây dựng các tiêu chuẩn này đã gặp phải khó khăn do thiếu kiến thức cụ thể về các tác động môi trường, chỉ có một tài liệu về các nguyên lý chung, tại thời điểm hiện nay là có tính pháp lý của một Dự tháo của toàn Ban.

    Cấp nhãn hiệu Môi trường
    Các kế hoạch cấp nhãn hiệu sinh thái, chú yếu là dựa trên những khởi xướng của chính phủ, nhằm gây ảnh hưởng vào các quyết định tiêu thụ để chọn lựa những sản phẩm thân thiện về mặt môi trường và thúc đẩy việc tạo ra những sản phẩm như vậy. Đối với khu vực tư nhân, các nhãn hiệu sinh thái là thuộc mối quan tâm từ triển vọng tiếp thị. Chúng là phương thức chứng tỏ chất lượng môi trường của một sản phẩm, hoặc chứng tỏ các đặc tính ưu việt và các dịch vụ đối với người tiêu dùng, có tác động tích cực đến việc quyết định lựa chọn một sản phẩm15.

    Các tiêu chuẩn về cấp nhãn hiệu sinh thái có tác dụng đưa ra một cách tiếp cận phù hợp giữa các quốc gia nhằm đánh giá các đặc tính môi trường của một sản phẩm và cung cấp thông tin đó tới người tiêu dùng.

    Các tư liệu dự thảo tiêu chuẩn ISO xác định ba kiểu cấp nhãn hiệu:

    +Kiểu các nhãn hiệu I, do một bên thứ ba (nhà nước hoặc tư nhân) cấp, là bên đa ra các chỉ tiêu. Những nhà sản xuất đăng ký vào các chương trình này trên cơ sở tự nguyện.
    +Kiểu nhãn hiệu II, dựa trên những xác nhận tự tuyên bố của các nhà sản xuất, nhập khẩu, phân phối, người bán lẻ hoặc những người khác được hưởng lợi ích từ những xác nhận đó.
    +Kiểu nhãn hiệu III là các nhãn hiệu thông tin về sản phẩm được xác định đủ tiêu chuẩn, chúng dựa vào các chỉ số định trước không đo đếm hoặc so sánh được16.

    Những khởi xướng gần đây của Tiểu ban 3 gồm có một hướng dẫn đưa ra 9 nguyên tắc cơ bản cho các chương trình cấp nhãn hiệu môi trường phải tuân theo nhằm tránh các hàng rào thương mại phi thuế quan17. Các chương trình cần phải:

    +Không được nhầm lẫn và làm cho các thuộc tính của sản phẩm phải rõ ràng;
    +Tạo lập thông tin cấp nhãn hiệu môi trường trên cơ sở cách tiếp cận chu trình sống;
    +Sử dụng các phương pháp khoa học và mô phỏng để đánh giá tác động môi trường của sản phẩm;
    +Tuân theo các hướng dẫn đã được thừa nhận liên quan tới các phương pháp kiểm định và tránh việc kiểm định tạo ra các hàng rào thương mại;
    +Sử dụng các quy trình và các phương pháp rõ ràng;
    +Đảm bảo sự tiếp cận công bằng cho mọi bên;
    +Bao gồm cả hệ thống thông tin người tiêu dùng;
    +Xử lý các sản phẩm trong nước và của nước ngoài theo một cách thức rõ ràng không có phân biệt;
    +Khuyến khích cải tiến nhằm cải thiện hoạt động môi trường, xem xét lại các chỉ tiêu cấp nhãn một cách định kỳ nhằm kết hợp thêm những triển khai mới.

    Một dự thảo về các chương trình cấp nhãn kiểu I xác định những nguyên tắc và những thông lệ đảm bảo độ tin cậy và thực chất không phân biệt của việc cấp nhãn của bên thứ ba:
    Các thông lệ phải dựa vào 9 nguyên tắc cơ bản đã được nêu ở trên;
    Định nghĩa loại sản phẩm và các chỉ tiêu sinh thái cần phải đa vào tất cả các cách tiếp cận công nghiệp thay thế và tránh việc bỏ sót sản phẩm hoặc quy trình liên quan được chấp nhận về mặt môi trường tại nước sản xuất;
    Việc xây dựng các chỉ tiêu phải để ngỏ để cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước tham gia xây dựng;
    Những yêu cầu liên quan tới mặt bằng sản xuất phải quan tâm đến những yêu cầu về môi trường quốc gia của nước sản xuất.
    Các thủ tục hành chính nhằm thẩm tra việc cấp nhãn hiệu cho người sản xuất phải không được phân biệt.

    Để hoà hợp việc sử dụng những xác nhận tự tuyên bố, Tiểu ban 3 đa ra những thuật ngữ và những định nghĩa cho việc cấp nhãn hiệu kiểu II. Những xác nhận này có thể có những hình thức khác nhau, như các tuyên bố, các ký hiệu, các đồ thị về sản phẩm hoặc bao gói, tài liệu về sản phẩm hoặc quảng cáo. Tiểu ban 3 xác định ra các thuật ngữ cụ thể được sử dụng trong các xác nhận môi trường, như thuật ngữ "tái chế được" hoặc "phân huỷ sinh học được". Những định nghĩa khác của những thuật ngữ như vậy có thể ít được rõ ràng hơn. Bằng cách đa ra một định nghĩa chung, ISO nhằm mục đích làm giảm những hạn chế ngăn cản thương mại và cả sự nhầm lẫn của người tiêu dùng về những xác nhận như vậy.

    Tiểu ban 3 chưa xây dựng được một tài liệu dự thảo nào về nhãn hiệu kiểu III, song hiện đang bàn bạc về những dự án mới trong lĩnh vực này.

    Được nta sửa chữa / chuyển vào 10:43 ngày 16/02/2003
  4. NTA

    NTA Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    1.3. Những vấn đề quan trọng hiện đang còn tranh cãi
    Ngoài việc tranh luận về nội dung của các tiêu chuẩn, những vấn đề sau đây hiện đang được tiếp tục tranh luận:
    Các thủ tục đánh giá việc tuân thủ
    Uỷ ban Đánh giá sự tuân thủ của Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (CASCO) chịu trách nhiệm về những vấn đề thực hiện việc tuân theo các tiêu chuẩn do Uỷ ban Kỹ thuật xây dựng nên. Trong thời gian Hội thảo chung giữa TC207 và CASCO vào tháng 6 năm 1995, người ta đã nhấn mạnh đến nhu cầu rất lớn đối với việc phải xây dựng các nguyên tắc chỉ đạo cho các thủ tục Uỷ nhiệm và cấp chứng chỉ trong lĩnh vực quản lý môi trường.
    Các cơ quan Uỷ nhiệm sẽ xây dựng những yêu cầu đối với việc đăng ký với tiêu chuẩn hệ thống quản lý môi trường và các chỉ tiêu để xác định có đủ điều kiện hay không cho các cơ quan đăng ký.
    Cơ quan đăng ký phải xét xem tổ chức đó có đáp ứng các yêu cầu để trở thành tổ chức được đăng ký tiêu chuẩn ISO 14001 hay không. Cơ quan đăng ký tự mình phải đáp ứng được các yêu cầu mà cơ quan uỷ quyền áp dụng. Người đăng ký thuê các kiểm toán viên là những người được đào tạo để thực hiện các kiểm toán trong các công ty muốn đăng ký.
    Có những mô hình khác nhau về hệ thống quốc gia đánh giá sự tuân thủ các tiêu chuẩn ở các nước phát triển. Các tiêu chuẩn đối với người đăng ký để cấp chứng chỉ cho các công ty là chua thống nhất quốc tế. Các kiểm toán viên cũng chua được quốc tế thừa nhận và việc đào tạo kiểm toán viên thường khác nhau ở mỗi nước. Đề xuất hiện nay là các cơ quan của Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế18 cần phải xây dựng một hệ thống toàn cầu nhằm đảm bảo việc đăng ký đạt được ở một nước phải được thế giới thừa nhận và chấp thuận.
    Dự thảo của toàn Ban 14001 đã dành nhiều chỗ cho việc giải thích đối với người sử dụng tiêu chuẩn. Các thuật ngữ như "phù hợp" "có ý nghĩa" hoặc yêu cầu về "cải thiện liên tục" có thể khó đánh giá và người sử dụng ở các nước khác nhau hiểu theo cách khác nhau. Và do đó cơ sở cho các thực tế phù hợp với quốc tế để đánh giá việc tuân thủ các tiêu chuẩn là việc giải thích tài liệu. Trong thời gian hội thảo người ta đã đề nghị là CASCO phải thực hiện chức năng giải thích này. Mặc dù cần phải có sự hoà hợp và cũng cần phải có sự linh hoạt để tránh gây điều kiện không thích hợp cho các nước nào đó.

    Các xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ
    Một số đoàn đại biểu từ các nước đang phát triển thấy cần phải tách riêng việc hướng dẫn EMS cho các xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ (SMEs). Các chuyên gia thuộc Tiểu ban I không nhất trí và nhấn mạnh rằng các tài liệu hiện có đã được soạn thảo để áp dụng được cho tất cả các công ty.

    Hoà hợp ISO 14000 và IS0 9000
    Một trong những mục đích của Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế là kết hợp ISO 9000 và ISO 14000 với nhau sao cho các công ty có thể thiết lập chỉ một hệ thống quản lý và chỉ thực hiện một kiểm toán. Vì việc này có thể giảm được chi phí và được coi là một u điểm đặc biệt đối với các xí nghiệp công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Một nhóm đặc trách chung giữa TC207 và TC176 ( ISO 9000) hiện làm việc nhằm đảm bảo sao cho hai loạt tiêu chuẩn này phù hợp với nhau. Một số người tham gia tin rằng các tiêu chuẩn quản lý môi trường rốt cuộc có thể được kết hợp với tiêu chuẩn ISO 9000 sao cho ISO 14000 trở thành một bộ phận của hệ thống này để cho các công ty được cấp chứng chỉ.

    ISO 14000 và Kế hoạch Quản lý và Kiểm toán Môi trường Châu Âu

    Uỷ ban tiêu chuẩn Châu Âu (CEN) hiện đang xem xét cân nhắc là các tiêu chuẩn ISO 14000 sẽ được thừa nhận hay không trong Kế hoạch quản lý và kiểm toán môi trường Châu Âu (EMAS). Dự thảo ISO 14001 hiện có không bao quát được tất cả các yêu cầu của EMAS. Những yêu cầu trong EMAS, thí dụ liên quan tới các chỉ tiêu hoạt động và tiết lộ thông tin, là các yêu cầu chặt chẽ hơn nhiều so với ISO 1400019. Mặc dù ISO ở mức độ nào đó cũng đã đạt được các yêu cầu của Uỷ ban tiêu chuẩn Châu Âu, nhưng Uỷ ban tiêu chuẩn Châu Âu thì chưa nhất trí hoàn toàn việc chấp thuận ISO 14001 và các tiêu chuẩn liên quan.



    Chào mừng các bạn đến với diễn đàn KHCN&MT
  5. NTA

    NTA Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    2. Việc thực hiện đối với các công ty và phát triển Thương mại đất nước

    2.1 Các Hệ thống quản lý Môi trường
    Cho đến nay, chưa có kinh nghiệm về ISO 14001 và việc điều tra về việc thực hiện nó của các công ty và phát triển Thương mại trong nước có thể chỉ dựa trên những dự tính và kinh nghiệm của các tiêu chuẩn hiện có. Những kết quả sau đây là dựa vào ý kiến của các chuyên gia thuộc TC207, thu thập được thông qua các phiếu điều tra và phỏng vấn cá nhân.

    Hệ thống quản lý môi trường và kiểm toán các tiêu chuẩn đặc biệt được hy vọng là sẽ được một số lớn các nước đa áp dụng với tính cách là các tiêu chuẩn môi trường tự nguyện. Tác động chính của việc cấp chứng nhận hệ thống quản lý môi trường sẽ xảy ra trong giao dịch Thương mại giữa các công ty. Hơn nữa, các chính phủ có thể yêu cầu giấy chứng nhận như là một điều kiện đối với những công ty xin đấu thầu. Các công ty bảo hiểm và các ngân hàng có thể sử dụng giấy chứng nhận của hệ thống quản lý môi trường như là một chỉ tiêu của khoản đóng bảo hiểm và các điều kiện cấp tín dụng. Nói chung, việc cấp chứng nhận có thể là quan trọng trong các ngành công nghiệp mà ở đó rủi ro môi trường cũng như việc dễ vi phạm luật pháp môi trường là rất cao, thí dụ như các ngành công nghiệp hoá chất và hoá dầu, khai thác mỏ, lâm nghiệp, công nghiệp thép và điện tử. Trong các ngành có tác động môi trường tương đối thấp, thì các tiêu chuẩn không chắc là sẽ trở thành thực tế kinh doanh.

    Việc thực hiện đối với các công ty nói chung
    Một công ty sẽ thực hiện các tiêu chuẩn ISO 14001, cần phải kết hợp các yếu tố chủ chốt đã được đề cập đến trong tiêu chuẩn vào trong cơ cấu tổ chức của mình. Công ty đó cần phải lập nên các hệ thống quản lý, kiểm toán và đánh giá hoạt động môi trường. Công ty cần phải tập trung sử dụng việc phân tích chu trình sống trong việc ra quyết định về các sản phẩm và các quy trình mới là những vấn đề cần có sự nghiên cứu. Hơn nữa, công ty sẽ phải xây dựng một quy trình truyền thống ra ngoài về các chính sách môi trường của mình.

    Những hệ thống sẽ đòi hỏi sự kết hợp thống nhất áp dụng trong các cấp và các quy trình sản xuất của công ty và sẽ ảnh hưởng tới các thông số cơ bản của việc quản lý và ra quyết định. Chúng yêu cầu có sự cam kết của tất cả các nhân viên tham gia vào những quy trình sản xuất này, đặc biệt là cam kết của những lãnh đạo cao nhất.

    Cũng như đối với ISO 9000, các công ty áp dụng các tiêu chuẩn sẽ bị kiểm toán bởi một bên thứ ba (nơi đăng ký). Phần lớn các chuyên gia cho rằng ý kiến cho phép các công ty tự tuyên bố áp dụng ISO 14001, trong thực tế là sẽ không phù hợp. Nơi đăng ký sẽ có khả năng kiểm tra lại việc cam kết trên từng cấp chức năng, bằng cách điều tra công ty và trao đổi chuyện trò với công nhân. Thậm chí trong các công ty đã có chương trình môi trường, mức độ và nhận thức cần thiết của các cán bộ làm việc liên quan tới tiêu chuẩn cũng có thể là còn chưa có. Do việc phần lớn các công ty chua quản lý đối với các lĩnh vực môi trường theo cách tiếp cận hệ thống, các chuyên gia cho rằng các tiêu chuẩn sẽ có tác động đáng kể đến việc là các công ty sẽ quản lý các vấn đề môi trường như thế nào trong tương lai.

    Các chi phí cho việc tuân thủ theo các tiêu chuẩn
    Các chuyên gia đều nhất trí là việc tuân thủ theo các tiêu chuẩn ISO 14000 nói chung sẽ là rất tốn kém cho từng công ty. Các chi phí liên quan gồm có 3 loại như sau:
    +Chi phí cho việc xây dựng và duy trì một hệ thống quản lý môi trường:
    +Các chi phí t vấn
    +Chi phí cho việc đăng ký với bên thứ ba

    Những chi phí này phụ thuộc vào chi phí thời gian thực hiện và đăng ký hệ thống quản lý môi trường của công ty. Một công ty nhỏ hơn có thể, do cơ cấu ít phức tạp hơn và các sản phẩm ít đa dạng hơn, cần ít thời gian hơn so với một công ty lớn và do đó chí phí thấp hơn. Các chuyên gia dự tính là một công ty nào có chương trình và chính sách môi trường rồi thì có thể giảm được thời gian cần cho việc thực hiện một hệ thống quản lý môi trường là khoảng 20% so với một công ty chua có chương trình môi trường24. Các chuyên gia nhất trí rằng sự có mặt của hệ lhống quản lý chất lượng ISO 9000 sẽ tạo điều kiện cho tiến trình thực hiện hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 . Trong trường hợp này thì đã có sẵn một số các thủ tục và chuyên gia cần thiết. Các công ty có thể đáp ứng được các yêu cầu của ISO 14001 bằng cách bổ sung thêm vào hệ thống đã có hoặc sửa đổi lại nó.

    Các công ty có thể cần khoảng 30% thời gian ít hơn để thực hiện một hệ thống quản lý môi trường25. Một công ty nhỏ bắt đầu từ con số không và dự tính cần thời gian là khoảng 15 tháng, và có thể giảm được thời gian này xuống còn l2 tháng với một điều kiện tiên quyết là đã có một chính sách về môi trường, và 8 tháng nếu đã có hệ thống chất lượng ISO 9000 26.

    Các chi phí cho việc xây dựng và duy trì một hệ thống quản lý môi trường

    Những chi phí cho việc xây dựng một hệ thống quản lý môi trường sẽ cần đến năng lực của các nhân viên trong công ty. Những chi phí này chủ yếu là những chi phí nội bộ của công ty, và như với ISO 9000, nó được xác định bằng chi phí thời gian của công nhân 27. Tuy nhiên các công ty không có kinh nghiệm thực hiện hệ thống môi trường và chất lượng cũng như các công ty nhỏ sẽ cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài để xây dựng một hệ thống quản lý môi trường và do đó còn chịu các chi phí từ bên ngoài. Phần lớn các chuyên gia được hỏi ý kiến đều cho rằng việc thực hiện ISO 14001 sẽ không cần đến các nguồn nhân lực bổ sung. Các công ty lớn hơn có thể là đã có cán bộ làm việc trong các lĩnh vực về môi trường và các xí nghiệp công nghiệp quy mô vừa và nhỏ có lẽ sẽ sắp xếp công việc cho những người có các trách nhiệm công việc khác. Trong mọi công ty, việc đào tạo tiếp tục cán bộ sẽ còn là một yếu tố quan trọng đối với một hệ thống quản lý môi trường có hiệu quả. Trong các công ty lớn hơn thì đã có một chương trình môi trường nào đó rồi, và việc đào tạo đó có thể được thực hiện trên một cơ sở không chính quy. Đối với các công ty nhỏ hơn việc đào tạo sẽ tốn kém hơn nhiều vì họ phải sử dụng đến các khả năng đào tạo từ bên ngoài.

    Việc thực hiện và duy trì một hệ thống quản lý môi trường sẽ kéo theo một quá trình t liệu hoá rất phức tạp và tốn kém thời gian. Kinh nghiệm với ISO 9000 đã cho thấy khi các tài liệu cẩm nang đã được xây dựng và các nhân viên đã quen với thuật ngữ của ISO, thì việc t liệu hoá có thể mất ít thời gian hơn trong giai đoạn đầu. Có một số phê phán là ISO 9000 đáng ra là cải thiện về chất lượng thì ISO 9000 lại tập trung nhiều hơn vào việc t liệu hoá. Khi cơ cấu và các nguyên tắc của ISO 14001 tương tự như ISO 9000 thì việc đó cũng có mối nguy cơ tương tự.

    Theo ý kiến chuyên gia, việc thực hiện lSO 14001 nhìn chung sẽ không đòi hỏi trang thiết bị công nghệ khác nhau, vì tiêu chuẩn áp dụng cho hệ thống quản lý chứ không phải là chỉ tiêu cho hoạt động. Tuy nhiên yêu cầu về "cải thiện liên tục", có thể cần đến sau đó. Nếu một công ty chuẩn bị cải thiện liên tục thì công ty sẽ phải giảm và thay thế đầu vào và đi theo các thành tựu công nghệ mới.


    Chi phí tư vấn


    Một công ty cần đăng ký tiêu chuẩn ISO cần phải thực hiện đánh giá nghiêm khắc các thủ tục và xác định là nó có đáp ứng được tiêu chuẩn ISO 14001 không. Để tránh việc nơi đăng ký tuyên bố là không tuân thủ, các công ty có thể thuê các cố vấn để giúp đỡ họ thực hiện hệ thống quản lý môi trường. Đối với các công ty nhỏ hơn nếu hệ thống đã được xây dựng nhờ sự hỗ trợ của một công ty làm t vấn có kinh nghiệm, nơi đăng ký có thể cho rằng việc thực hiện đó là hợp lý hơn.

    Kinh nghiệm với ISO 9000 cho thấy các chi phí t vấn là rất lớn. Một số hãng t vấn chỉ ra rằng các chi phí đó cho ISO 14000 có thể là cao hơn so với cho ISO 9000 vì nó cần đến các cố vấn có trình độ chuyên môn cao hơn.

    Một thí dụ tính toán đa ra trong phụ lục 3 minh hoạ những chi tiêu của một công ty Mỹ cỡ nhỏ chua có chương trình về môi trường và hệ thống quản lý chất lượng. Ở các nước đang phát triển, các chi phí có thể là không cao như những chi phí đa ra trong thí dụ trên vì các chi phí cho t vấn là thấp hơn.

    Các chi phí đăng ký
    Kinh nghiệm với ISO 9000 cho thấy là gần 20% chi phí tuân thủ theo tiêu chuẩn sẽ là chi phí cho việc đăng ký với bên thứ ba28. Trong trường hợp việc đăng ký kết hợp cả ISO 9000 và ISO 14000 thì lệ phí có thể là cao hơn so với đăng ký chỉ một mình ISO 9000. Lý do là các lệ phí mà nơi đăng ký phải chi cho các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao29. Các công ty thực hiện đồng thời cả hai hệ thống tiêu chuẩn ISO có thể tránh được các chi phí đăng ký nhiều lần.

    Một thí dụ về các chi phí đăng ký ISO 9000 cho một công ty nhỏ dựa trên các lệ phí mới đây của NSF - một cơ quan đăng ký của Mỹ, được đa ra trong Phụ lục 3. Theo thí dụ này, công ty nhỏ này mời nơi đăng ký đa hai kiểm toán viên làm việc trong 5 ngày và chi gần 20.000 đôla cho việc kiểm toán đăng ký30. Khi công ty đã được đăng ký, công ty phải tiến hành các kiểm toán giám sát định kỳ để có thể duy trì giấy chứng nhận. Đối với ISO 9000 kiểm toán giám sát có thể được tiến hành 6 tháng một lần. Trong trường hợp đó, công ty phải chi gần 10.000 đôla cho 6 tháng một.

    Phần lớn các chuyên gia cho rằng các xí nghiệp công nghiệp quy mô vừa và nhỏ gặp những khó khăn về nguồn tài chính, nhân lực để thực hiện ISO 14001 . Tuy nhiên một số người tham gia vào tiến trình xây dựng tiêu chuẩn cho rằng ISO 14001 vì rất chung nên có thể áp dụng linh hoạt cho mọi công ty thực hiện hệ thống quản lý môi trường.
    Chào mừng các bạn đến với diễn đàn KHCN&MT
  6. NTA

    NTA Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo ...)
    Những lợi ích dự kiến khi tham gia vào ISO 14000
    Việc đăng ký có thể có giá trị Thương mại cho một công ty. Các đối tác Thương mại có thể nhận thấy một cách dễ dàng ý nghĩa của việc phê duyệt bởi một bên thứ ba độc lập. Ngay lúc đầu, các công ty khi đã được đăng ký sẽ đóng vai trò đi đầu và do đó sẽ thu được lợi thế trong cạnh tranh. Chứng chỉ sẽ là một biện pháp tăng cường vị trí Thương trường của họ. Sau đó khi các công ty cạnh tranh khác cũng được cấp chứng chỉ thì thế lợi này sẽ mất đi.
    Việc sử dụng ISO 14001 sẽ là một chứng chỉ cho các công ty và không phải là cho các sản phẩm.
    Tác động đến thái độ của người tiêu dùng và các cơ hội Thương mại của các sản phẩm của công ty do đó là ít hơn so với trường hợp cấp nhãn hiệu sinh thái - là chứng chỉ trực tiếp của sản phẩm.
    Tuy nhiên, có thể có một lợi ích trong quan hệ với khách hàng bằng sự truyền thông chính sách môi trường của công ty với bên ngoài. Việc đăng ký sẽ nhấn mạnh việc cam kết bảo vệ môi trường của công ty. Một điều kiện tiên quyết cho lợi ích này đó là thị trường tiêu dùng nhạy cảm về sinh thái.
    Phần lớn các chuyên gia cho rằng việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 sẽ cải thiện hiệu quả nội bộ của công ty nhờ giảm được đầu vào về năng lượng và nguyên liệu. Tuy nhiên, các chuyên gia không nhất trí là liệu việc tiết kiệm đó về năng lượng và nguyên liệu có bù được vào các chi phí hay không, hay là ngược lại. Một số chuyên gia cho rằng các chi phí vợt xa lợi ích đem lại.
    Doanh nghiệp tại các nước công nghiệp hoá đang chịu sức ép nặng nề từ phía các tổ chức khác nhau các tổ chức chính phủ, quảng đại công chúng, các tổ chức môi trường và người tiêu dùng - là phải tránh các tác động môi trường. Hy vọng rằng việc cấp chứng chỉ ISO 14001 sẽ giảm được sức ép này. Một số đại diện công nghiệp tham gia vào tiến trình xây dựng tiêu chuẩn, đặc biệt là phái đoàn Mỹ, thậm chí hy vọng rằng tiêu chuẩn có thể tạo chỗ đứng cho việc quản lý môi trường không chỉ theo những quy định luật pháp. Họ cho rằng việc đăng ký đảm bảo sự cam kết của công ty thực hiện các quy định môi trường.
    Trong khi CD 14001 đòi hỏi các công ty phải thể hiện là họ có các biện pháp tiến hành và duy trì sự tuân thủ thực hiện của mình, họ lại không bị yêu cầu phải chứng minh là thực tế họ đang tuân thủ theo luật pháp. Không chắc là thực hiện hệ thống quản lý môi trường là cải thiện được hoạt động môi trường của công ty. Đến khi việc t liệu hoá đã được hoàn thành tốt đẹp thì có lẽ không tác động đến việc cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, những người tham gia hỏi ý kiến cho rằng phần lớn các công ty thực hiện hệ thống quản lý môi trường và được cấp chứng chỉ, nói chung cho thấy hoạt động môi trường đã được cải thiện31. Vì vậy một lợi ích mà tiêu chuẩn quốc tế mang lại có thể là sự quan tâm đến môi trường.
    Đối với Thương mại quốc tế, tiêu chuẩn đảm bảo cơ sở cho những triển vọng môi trường chung giữa các công ty. Nó có thể dẫn đến việc hoà nhập các nguyên tắc quốc gia và cho phép ngành công nghiệp và các cơ quan kiểm toán trên toàn thế giới có một ngôn ngữ và phạm vi chung trong việc đánh giá các hệ thống quản lý môi trường. Riêng tập hợp các tiêu chuẩn môi trường có thể giúp tránh được việc đăng ký, thanh tra, cấp chứng chỉ nhiều lần và những yêu cầu mâu thuẫn của các tiêu chuẩn quốc gia khác nhau và do đó giảm được các chi phí tuân thủ theo các tiêu chuẩn. Các công ty đa quốc gia cũng sẽ được cung cấp một hệ thống tiêu chuẩn riêng để thực hiện ở nơi nào họ có mặt. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào phải được chứng tỏ rằng liệu rằng chỉ với một định nghĩa mang tính quốc tế này, được xây dựng nên bởi các nhà lãnh đạo công nghiệp và tiêu chuẩn hoá hiện hành, có thể loại trừ các mối quan tâm môi trường chính thống và/hoặc tạo nên các hàng rào ngăn cản tới các hãng nổi bật, đặc biệt là từ các nước đang phát triển.


    Tác động đến phát triển Thương mại đất nước

    Áp lực lớn hơn đối với các công ty tại các nước đang phát triển là thực hiện các yêu cầu môi trường nảy sinh từ khách hàng nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế chứ không phải là từ các tổ chức trong nước32. Vì vậy chứng chỉ ISO 14001 chắc chắn trở thành biện pháp đáp ứng nhu cầu khách hàng nước ngoài và tham gia vào Thương mại quốc tế chứ không phải chỉ là một yếu tố của lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước. Đối với những nhà xuất khẩu, chứng chỉ có thể là một công cụ để đạt được thế lợi cạnh tranh so với các nhà xuất khẩu trong nước khác.
    Một điều không chắc chắn là liệu các tiêu chuẩn ISO 14001 và các tiêu chuẩn liên quan có tạo nên những hàng rào Thương mại hay không. Một số chuyên gia cho rằng khi mà các tiêu chuẩn là tự nguyện và không lập ra các tiêu chí hoạt động, các tiêu chuẩn cho phép một sự linh hoạt nào đó và vì vậy nó có thể không tạo ra các hàng rào Thương mại. Ngợc lại, có tranh luận rằng khi chứng chỉ được phổ biến rộng tới các công ty tại các nước công nghiệp hoá, thì nó có thể tạo ra những cản trở Thương mại nào đó cho các công ty tại các nước đang phát triển là những nước cần có thời gian để hiệu chỉnh cho phù hợp.
    Mặc dù Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế tuyên bố rằng tiêu chuẩn không được sử dụng để tạo ra các hàng rào Thương mại, tiềm năng để làm việc đó vẫn tồn tại bản dự thảo cũng như trong các văn bản liên quan. Có một số vấn đề có tiềm năng tạo ra các hàng rào Thương mại.
    Chào mừng các bạn đến với diễn đàn KHCN&MT

Chia sẻ trang này