1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

CỔ NHẠC VÀ BÀI VỌNG CỔ

Chủ đề trong 'Âm nhạc' bởi yenmusic, 18/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    CỔ NHẠC VÀ BÀI VỌNG CỔ

    CỔ NHẠC VÀ BÀI VỌNG CỔ

    Bài Vọng Cổ nằm trong hệ thống CỔ NHẠC MIỀN NAM. Cho nên muốn tìm hiểu về bài Vọng Cổ, ta cũng cần xem sơ qua về nguồn gốc của Cổ Nhạc Miền Nam. Phạm vi hiểu biết về Cổ Nhạc của người viết rất hạn chế. Chỉ mong đóng góp phần nào trong việc phát họa một hình ảnh đại cương về nguồn gốc cũng như lý thuyết Cổ Nhạc Miền Nam. Rất mong được sự tiếp tay của các bậc tiến bối, các bậc đàn anh cùng các bạn yêu biết Cổ Nhạc.

    NGUỒN GỐC CỔ NHẠC MIỀN NAM

    Từ bao nhiêu năm qua, đất nước Việt nam ta do ảnh hưởng lịch sử và chính trị trên từng miền, từng vùng kếp hợp với sinh hoạt đặc thù tại các địa phương, chúng ta đã có được một nền âm nhạc dân tộc vô cùng phong phú.

    Trong lúc tại miền Bắc có các bộ môn hát chèo, ca trù..., miền Trung với nhạc triều đình, ca Huế, hát tuồng... thì ở miền Nam ngoài bộ môn nhạc lễ, hát bội chúng ta còn có thêm một bộ môn mới nữa gọi là Cổ Nhạc miền Nam, một món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống hằng ngày hiện nay.

    Trong gần suốt một thế kỷ qua, các nghệ sĩ cổ nhạc đã không ngừng sáng tác, với mục đích ngày càng phát triển bộ môn cổ nhạc được phong phú hơn.

    Theo tài liệu ghi lại, thì vào khoảng năm 1915-1916 có một loại hát gọi là "ca salon". Ðó là một lối hát rất đơn giản, không có cảnh trí gì hết. Chỉ có một bộ ván. Trước bộ ván để một cái bàn chưn cheo. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem rất nghiêm trang. Thường thì ca bản Tứ Ðại lớp đầu. Chuyện thì dựa trên chuyện Lục Vân Tiên hay Kiều... Sau đó, tại Vĩnh Long ông Phó Mười Hai tên là Tống Hữu Ðịnh đề xướng lên việc "ca ra bộ", một đổi mới có tính cách tài tử.

    Dần dần có người thấy được cái hay của sự ra bộ ấy, bèn tìm cách đem lên sân khấu để diễn, rồi dựng cảnh, rồi tuồng tích, và sau cùng là thành cải lương vào năm 1920. Ðầu tiên là gánh của thầy Andre Thân ở Sa Ðéc, rồi mới tới gánh của thầy Năm Tú ở Mỹ Tho.

    Danh từ Cải Lương được xuất hiện đầu tiên tại gánh hát Tân Thinh của ông Trương Văn Thông vào năm 1920. Sau đó, các gánh khác lần lược ra đời, như Văn Hí Ban ở Chợ Lớn, Tập Ích Ban ở Thốt Nốt, Tái Ðồng Ban ở Mỹ Tho. Hai chữ Cải Lương là do gọi tắt từ câu "cải biến kỳ sự, sử ích tự thiên lương" (đổi những gì cũ còn lại ra thành những gì mới và hay). Những nghệ sĩ theo ngành Cải Lương đều tin có Tổ Nghiệp, nên hàng năm họ làm lễ Giỗ Tổ vào ngày 12 tháng 8 âm lịch.

    Nói đến Cổ Nhạc, không ai có thể bỏ qua được bài Vọng Cổ, một thứ bài hát đã làm say mê bao nhiêu triệu con tim Việt Nam do tính cách mùi mẫn độc đáo của nó.

    Nguyên thủy của chữ Vọng Cổ là do từ Dạ Cổ Hoài Lang (đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chàng), do ông Cao Văn Lầu, biệt hiệu là Sáu Lầu quê ở Tân An đến định cư ở Bạc Liêu lúc còn nhỏ. Ông sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang vào khoảng năm 1918, và chịu nhiều ảnh hưởng của bài Tứ Ðại Oán và bài Hành Vân. Khởi đầu, bài Dạ Cổ Hoài Lang chỉ có 20 câu, mỗi câu 2 nhịp, lần lần thành 4 nhịp đầu tiên hát trên sân khấu Tập Ích Ban năm 1921, và thành 8 nhịp trên sân khấu Tái Ðồng Ban năm 1922.

    Năm 1934, cố nghệ sĩ Lư Hoa Nghĩa (thân phụ của cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga) chuyển bài Dạ Cổ Hoài Lang thành bài Vọng Cổ. Năm 1936, cố nghệ sĩ Năm Nghĩa đã sửa thành 16 nhịp. Khoảng đầu năm 1951, cố nghệ sĩ Út Trà Ôn đã phát triển thành bài Vọng Cổ 32 nhịp mà đa số nghệ cải lương hiện nay vẫn còn hát.

    Source:http://www.geocities.com/vo_truc_thu/nguongoc/nguongoc.html
  2. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Nhạc sĩ Cao Văn Lầu có phải là ông tổ ngành cải lương?
    Gần đây, trong một buổi gặp gỡ các bạn trẻ sinh viên yêu thích cải lương và âm nhạc truyền thống, các bạn có đặt câu hỏi: "Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ bản Dạ cổ hoài lang, vậy ông có phải là ông tổ của ngành cải lương không?". Bài viết sau đây cung cấp thêm một số thông tin về nhạc sĩ họ Cao cũng như về bản Dạ cổ hoài lang...
    Ông Cao Văn Lầu tức Sáu Lầu sinh ngày 22/12/1892 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sáp nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Năm 1901, ông Cao theo gia đình đến lập nghiệp tại Bạc Liêu rồi ở luôn tại đây cho đến hết đời (ông qua đời ngày 13/8/1976). Thuở nhỏ, ông học chữ nho rồi học chữ quốc ngữ đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours moyen 2e année) tức lớp bốn ngày nay; sau đó quy y tại chùa Vĩnh Phước - Bạc Liêu. Sau khi rời cửa Phật, ông học nhạc lễ và là một trong những môn đệ giỏi về nhạc lễ của nhạc sư Lê Tài Khị (Nhạc Khị). Ông sử dụng rành rẽ đờn tranh, cò, kìm và trống lễ. Nhắc đến ông, người ta nhớ ngay đến bản Dạ cổ hoài lang (1919) được xem là tiền thân của bản vọng cổ ngày nay. Ông viết bản nhạc trên gồm 20 câu, nhịp 2 để trút cạn nỗi niềm tâm sự.

    Nhạc sĩ Sáu Lầu và các nhạc sư cổ nhạc tại Sài Gòn (1963)

    Nỗi niềm ấy ra sao? Nhiều lần ông thổ lộ với bạn tri âm: "Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ tôi. Năm tôi viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con. Tam niên vô tử bất thành thê. Vợ chồng ăn ở với nhau trong 3 năm, vợ không sanh con, chồng được quyền bỏ để cưới người khác hầu có con nối dõi tông đường. Thời phong kiến có những quan niệm chưa đúng. Người ta cho rằng vợ chồng không sanh con là do lỗi của người đàn bà. Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho cha mẹ vợ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu, xót thương cho vợ chồng tôi gặp phải cảnh đau lòng mà cho ở đậu qua ngày với hy vọng vợ chồng tôi sẽ có con và chiến thắng một quan niệm khắc nghiệt, lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng đạo lý thời phong kiến?. Trong thời gian dài phu thê phải cam chịu cảnh ?oĐêm đông gối chiếc cô phòng", tâm tư nặng trĩu u buồn nên nhạc sĩ Sáu Lầu đêm đêm mượn tiếng đờn nắn nót đôi câu để bớt cơn phiền muộn. Ông thừa hiểu người bạn đời cũng đau xót như ông. Bản Dạ cổ hoài lang ra đời trong bối cảnh như thế.
    Nói cho rõ hơn, trong thời gian tác phẩm chưa hoàn toàn hoàn chỉnh, nhạc sĩ Sáu Lầu cùng anh em tài tử địa phương đờn tới đờn lui bản này để lấy ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp về phương diện sáng tác. Chuông, trống "công phu" ngân vang khiến anh em nhạc sĩ đất Bạc Liêu nhớ lại hồi chín, mười tuổi ông Sáu Lầu quy y làm "Sa di" tại chùa Vĩnh Phước. Chú tiểu từng đánh trống, dộng chuông công phu hai buổi sớm chiều. Do đó, anh em đề nghị thêm hai chữ "Dạ cổ" (tiếng trống về đêm) cho ý nghĩa thêm sâu đậm. Ông Sáu hoan nghênh nên bản nhạc có tên hoàn chỉnh là "Dạ cổ hoài lang", tức "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng".
    Từ "Dạ cổ hoài lang" đến vọng cổ
    Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Đó là đứa con của nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Nhưng khi "Dạ cổ" hòa nhập vào sân khấu cải lương thì hai soạn giả tiền phong góp công đầu để biến bản nhạc này từ nhịp 2 trở thành nhịp 4 là Huỳnh Thủ Trung (tức Tư Chơi) và Mộng Vân (Trần Tấn Trung). Tiếng nhạn kêu sương là bản "Vọng cổ hoài lang" nhịp 4 đầu tiên do soạn giả Huỳnh Thủ Trung (1907 - 1964) sáng tác vào năm 1925. Trên những chặng đường phát triển, khi bản "Vọng cổ hoài lang" được nâng lên nhịp 8 (từ khoảng năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới là "Vọng cổ" (không còn cái đuôi "hoài lang"). Từ khoảng 1944 - 1954, vọng cổ tăng lên nhịp 16; thời kỳ kế tiếp: 1955 - 1964: tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay.
    ***
    Hậu thế đã nhận định như sau: Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Bản "Vọng cổ" từ nhịp 4 trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử tứ phương. Còn ông tổ cải lương dứt khoát không phải là Cao Văn Lầu. Bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1919, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916.
    Ông tổ cải lương là ai? Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định ngành cải lương thờ chung một ông tổ với hát bội.
    Đi sâu nghiên cứu,chúng tôi thấy có nhiều tư liệu khác biệt:
    1) Theo NSƯT, nhạc sĩ Vũy Chỗ xác định cụ thể: Chính Thầy Thống tức ông Trần Xuân Thơ, với sự đồng ý của nhạc sĩ Sáu Lầu, viết bài ca Từ phu tướng, đồng thời có chấn chỉnh một vài chữ nhạc ở câu thứ nhất và thứ bảy cho sắc sảo hơn (Báo Sân khấu số 333 ngày 26/5/1997).
    2) Theo nhà nghiên cứu Hoài Ngọc, trong biên khảo "Sân khấu cải lương" (chưa xuất bản), tác giả viết theo lời kể của NS Sáu Lầu: "...Chừng mấy tháng sau, tôi nghe người ta có đặt bài ca cho bản Dạ cổ hoài lang của tôi rồi, và ca cho tôi nghe, thật đúng y như chữ đờn..." (người ta ở đây là nhóm tài tử Sài Gòn - ghi chú của NV).
    3) Qua bài viết của ông Trần Phước Thuận, đồng hương với nhạc sĩ Sáu Lầu, xác nhận "Bản Dạ cổ hoài lang, cả nhạc lẫn lời đều do ông Cao Văn Lầu sáng tác" (Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 2 (40) 2003, trang 37).

    Huỳnh Công Minh - Thiên Mộc Lan Báo Thanh Niên
    Được yenmusic sửa chữa / chuyển vào 22:37 ngày 18/07/2004
    Được yenmusic sửa chữa / chuyển vào 22:39 ngày 18/07/2004
  3. tyfor1

    tyfor1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2004
    Bài viết:
    72
    Đã được thích:
    0
    Cho minh tham gia mot ti´[​IMG] minh muon gioi thieu bai Da Co Hoai Lang do nghe si Huong Lan hat.. nhung minh thich xem vo kich cung ten nay co nghe si Thanh Loc , Viet Anh... do, that la hay lam...
    http://www.vtrans.net/nhac/cailuong/DaCoHoaiLang_CaoVanLau_Huong%20Lan.rm
    [​IMG][​IMG][​IMG][​IMG]
    Được tyfor1 sửa chữa / chuyển vào 00:05 ngày 19/07/2004
  4. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    Một vài vấn đề về nhạc cổ truyền Việt Nam
    Trần Quang Hải
    Nhạc cổ truyền đối với chúng ta là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới ngày nay . Tân nhạc là loại nhạc mới . Mới ở đây là nghĩa gì ? Có phải là loại nhạc soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được soạn trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương nghĩa là có hòa âm, dùng các nốt nhạc như Do-Re-Mi-Fa-Sol-La-Si-Do mà không dùng Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Líu như trước thời Pháp thuộc ? Có những bài ca như Vọng cổ, Tứ Ðại Oán, vàrất nhiều bài bản được sáng tác cho hát cải lương miền Nam có phải là cổ nhạc hay tân nhạc, vìcác bài này được sáng tác từ khoảng đầu thế kỷ thứ 20 trở đi ? Vấn đề "Cổ" và "Tân " hoàn toàn tương đối tùy theo quan niệm, nhận xét của người nghiên cứu .
    Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử âm nhạc thế giới, thì giai đoạn âm nhạc cận đại của nhạc ngữ Tây phương bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19 . Do đó, ranh giới định rõ cổ và tân nhạc rất là lu mờ .
    Ðể tránh mọi ngộ nhận phức tạp , chúng ta tạm gọi như sau . "Cổ nhạc" là loại nhạc được lưu truyền từ ngàn xưa đến nay theo phương pháp truyền khẩu, dính liền vào đời sống hàng ngày của người dân quê hay thị thành hoàn toàn tiêm nhiễm văn hóa Ðông Phương . "Tân nhạc" dùng để chỉ loại nhạc được các nhạc khí Tây phương trình bày như nhạc phòng trà, nhạc được sáng tác theo phương pháp Tây phương .
    Trở về nhạc cổ truyền Việt Nam, phần đông người Việt thường lầm lẫn giữa "Vọng cổ", "Cải lương", và "Cổ nhạc" . Chúng tôi thường nghe người mình nói với nhau khi đi xem đại nhạc hội do các hội tổ chức cho người Việt tỵ nạn xem : "Chà! kỳ này hát toàn tân nhạc không , còn cổ nhạc sao không thấy đâu hết !", mặc dù trong chương trình buổi đó có nhiều tiết mục dân ca, hát bội, vvẬ Ða số người Việt tỵ nạn chỉ biết có "Vọng cổ" mà thôi và chỉ thích nghe một bài Vọng cổ, chứ ngoài ra không để ý đến những bài khác dùng trong hát cải lương . Những người đặt tuồng lại không thấu triệt vốn liếng cổ nhạc nên số bài bản được sử dụng trong các tuồng cải lương ngày nay ở hải ngoại rất bị giới hạn, và số nghệ sĩ cải lương chỉ ráng học 6 câu xuống cho thật mùi làăn tiền, chứ không cần học hỏi thêm bài bản như các nghệ sĩ tiền bối của giai đoạn 1940 .
    Với mục đích trình bày cùng độc giả một kho tàng phong phú của nền cổ nhạc Việt Nam, và một số vốn đáng kể về bài bản trong hát cải lương, cũng như sự hình thành về sự phát triển của bài ca Vọng cổ, chúng tôi tạm chia bài tiểu luận này làm ba phần:
    Vọng cổ là gì ?
    Cải lương là gì ?
    Cổ nhạc là gì ?
  5. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    VỌNG CỔ LÀ GÌ ?
    Ai sáng tác bài "Vọng cổ" ? Theo đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam, ông Sáu Lầu (tên thật là Cao Văn Lầu), người gốc gác tỉnh Bạc Liêu, nhân nghe trống điểm văng vẳng từ một chòi canh gần thôn xóm nhà, thấy tâm hồn xúc động mà nẩy ra ý nhạc viết thành bài "Dạ Cổ Hoài Lang" (nghĩa là nghe trống canh khuya nhớ chồng) . Ông Sáu Lầu, sau khi chung sống với vợ 8 năm mà không có một mụn con, ba má của ông mới bắt ông phải kiếm một người vợ khác để hy vọng có con nối dõi tông đường . Vào nă m 1920 ông Sáu Lầu mới dùng cây đờn cò để sáng tác bài "Hoài Lang" (nhớ tới người yêu của mình" . Sau đó ông Sáu Lầu mới đờn bài này cho ông Tần Xuân Thơ (gọi là Thống , thầy tuồng của gánh Tân Minh Kế ở Bạc Liêu) nghe . Chính ông Tần Xuân Thơ viết lời cho bài "Hoài Lang" được sửa lại là "Dạ Cổ hoài lang" , nhịp hai . Khi hát cải lương thành hình trong thập niên 20, bài "Dạ Cổ hoài lang" được các ông thầy tuồng đưa vào các vở cải lương và dần dần thay thế bản Tứ đại oán .
    Chuyện gia đình của ông Sáu Lầu được thu xếp ổn thỏa . Vợ chồng ông Sáu Lầu được yên bề và sau đó hai người sanh được mấy mụn con . Ông Tần Xuân Thơ mới đề nghị cùng ông Sáu Lầu đổi tên bài lại thành "Vọng cổ" (tức nhớ chuyện dĩ vãng).
    Khoảng năm 1925-27, bài "Dạ Cổ hoài lang" được phổ biến rộng rãi trong giới cải lương . Nhịp hai không đủ chỗ để viết lời cho nên bài "Vọng cổ" được tăng lên thành nhịp 4 . Bài "Tiếng nhạn kêu sương" của ông Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung) có thể là bài đầu tiên viết theo bản "Dạ Cổ hoài lang nhịp tư" .
    Thầy Giác là người khởi xướng bài "Dạ Cổ hoài lang nhịp 8 " vào khoảng nă m 1929-1930 . Nhưng phải đợi tới năm 1935-37 nghệ sĩ Năm Nghĩa chính thức phổ biến trong giới yêu cải lương qua bài "Văng vẳng tiếng chuông chùa" .
    Bài "Vọng cổ nhịp 16" được chính thức thành hình vào năm 1938 qua tiếng đờn của nhạc sĩ Bảy Hàm với tiếng hát của cô Tư Sạng trong bài "Tình Mẫu Tử" . Nhưng phải đợi vài năm sau (sau thế chiế n thứ 2) với tiếng hát điêu luyện của nghệ sĩ Út Trà Ôn trong bài "Tôn Tẩn Giả Ðiên", bài "Vọng cổ nhịp 16" mới được phổ biến rộng rãi hơn .
    Từ năm 1954 trở đi, bản "Vọng cổ nhịp 32" xuất hiện qua các dĩa há t do các hãng dĩa Asia, Hồng Hoa, Lam Sơn, Hoành Sơn xuất bản . Bài "Ðội Gạo Ðường Xa" của Kiên Giang do nghệ sĩ Hữu Phước hát được kể là tiêu biểu nhứt .
    Từ năm 1964, soạn giả Viễn Châu mới đưa tân nhạc vào tạo thành loại hát "tân cổ giao duyên" . Cách đưa tân nhạc vô bài Vọng cổ bắt buộc phải rút ngắn bản Vọng cổ làm bài Vọng cổ 6 câu còn lại 4 câu thôi .
    Vềsau có người đưa bài Vọng cổ lên thành Vọng cổ nhịp 64 và Vọng cổ nhịp 128 nhưng không thành công . Cho nên tới hôm nay , sau gần 50 năm bản Vọng cổ nhịp 32 vẫn còn "ăn khách" và được phổ biến mạnh mẽ .
    Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, chưa bao giờ chúng ta được thấy một bài nhạc biến chuyển và phổ biến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trong lòng của đại đa số người Việt trong cũng như ngoài nước . Tuy là một bài buồn nghe muốn "đứt ruột , nhức xương ", làm cho người xa nhà , nhớ quê hương , mà cũng có thể làm cho người lính hy sinh tánh mạng nơi chiến trường để giữ vững bờ cõi, hay nung nấu lòng phục quốc của người di tản hiện nay . Thường thì bài buồn dùng âm điệu buồn, bài vui dùng âm điệu vui như chúng ta biết trong cách sử dụng viết nhạc . Ðây là một trường hợp ngoại lệ, mà nếu có dịp, tôi sẽ phân tích tường tận hơn .
    Vọng cổ chỉ là một bài trong phần nhạc cải lương . Biết hát vọng cổ chưa có thể nói là biết hát cổ nhạc, biết hát cải lương . Hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng hay loại nhạc "xa-long" (tiếng Pháp là "Salon") hoàn toàn khác với hát vọng cổ trong cải lương . Người hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng cố gắng hát cho thật hay trong cách ngân nga, luồng giọng cho ngọt , nhịp nhàng cho chắc . Người đệm đàn cho bài vọng cổ trong loại nhạc thính phòng chỉ cần giữ nhịp cho chắc, và có thể nhấn vuốt tùy theo tài nghệ của người đánh đờn . Hát vọng cổ trong cải lương có khi chỉ hát hai câu, 4 câu , hoặc 5 câu, ít khi hát 6 câu từ đầu đến cuối . Sự khác biệt giữa hai cách hát rất quan trọng . Có người chỉ biết hát hoặc hoặc đờn vọng cổ cho loại nhạc thính phòng mà không thể hát hay đờn vọng cổ cho hát cải lương .
  6. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    CẢI LƯƠNG LÀ GÌ ?
    Ngày nay chúng ta ai ai cũng ghiền nghe và coi hát cải lương, vìcải lương , sau trên 80 năm xuất hiện, hình thành và phát triển ở miền Nam trước và trên toàn lãnh thổ sau đó, phản ảnh đời sống hàng ngày của chúng ta, nói lên những gìmàchúng ta không thể nói được .
    Nhà khảo cổ và nghiên cứu hát bội và hát cải lương Vương Hồng Sển, trong quyển "Hồi ký 50 năm mê hát: 50 năm cải lương" , tủ sách Nam Chi, do Phạm Quang Khai, cơ sở xuất bản năm 1968, Saigon, không chắc chắn ngày khai sanh của bộ môn hát mới này . Ở Saigon, có tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập hát cải lương vào năm 1966, nghĩa là hát cải lương được mở mắt chào đời vào năm 1916 . Vì không có tài liệu viết trên giấy trắng mực đen, nên không thể khẳng định ngày giờ chắc chắn của sự xuất hiện của cải lương .
    Theo sự hiểu biết của tôi, hát cải lương đầu tiên được xuất hiện dưới hình thức ca tài tử tại tư gia khoảng năm 1915 . Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu "độc thoại " và chưa có ra bộ tịch gì hết . Lúc đó đã có thấy xuất bản một quyển "Bản đờn tranh và bài ca" do Phụng Hoàng Sang soạn, và Ðinh Thái Sơn xuất bản, Saigon, in lần thứ ba, năm 1907 . Như thế có đoán là lần in thứ nhất có thể vào khoảng 1900. Qua quyển này chúng ta được biết vào thời đó, giới cầm ca hát đờn những bài sau đây : "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Bình Bán Vắn", " Bát Man Tấn Cống", "Tứ Ðại", Phụng Hoàng", "Nam Xuân", "Nam Ai", "Tứ Ðại Cảnh" . Có người cho rằng ông thầy Ký Trần Quang Quờn đã sáng tác bài "Tứ Ðại Oán" và "Văn Thiên Tường" . Ðiều chắc chắn là ông Trần Quang Quờn đã sáng chế nhiều cây đờn như cây đại ba tiêu, tiểu ba tiêu, cây song thương màngày nay không thấy được phổ biến .
    Có thể nói đây là giai đoạn tượng hình thai nghén của hát cải lương .
    Bắt đầu năm 1916, loại ca đối thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó là "Ca ra bộ" . Bài hát điển hình nhất làbài "Tứ đại oán " (Bùi Kiện thi rớt ) phát khởi từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) tại nhà thầy Phó Mười Hai . Tại Vĩnh Long, chúng ta có thể nghĩ là nơi phát xuất của hát "ca ra bô", giai đoạn phôi thai của hát cải lương . Ngoài ông Phó Mười Hai, mỹ danh Tống Hữu Ðịnh, ông Trần Quang Quờn, ông Phạm Ðăng Ðàng là một danh cầm đất Vãng là những người đóng góp đắc lực cho sự hình thành của hát cải lương sau này .
    Phải đợi tới gần dứt thế chiến thứ nhứt, dưới chế độ toàn quyền Albert Sarrault, dân được chính phủ bảo hộ nới rộng cho phép lập hội hè hát dân ca nên một số chủ bút thân hào phú hộ tụ tập nhau lại (Huyện Của, Bùi Quang Chiêu, Ðốc Phủ Bảy, Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Ðặng Thúc Liêng , vvẨ) bè n chia nhau các vai tuồng, và lên sân khấu lần đầu, hát quyên tiền giúp Pháp chống Ðức . Do sự cải tân từ nghệ thuật hát bội, mới nẩy sinh ra danh từ "Hát bộ" nghĩa là hát ra bộ qua vở tuồng "Gia Long tẩu quốc, Pháp Việt nhứt gia" diễn tại nhà Hát Tây Saigon ngày 16 tháng 11, 1918 .
    Từ đó, ở miền Nam bắt đầu mọc lên như nấm các nhóm ca ra bộ, rồi cải lương như ở Vĩnh Long có thầy Phó Mười Hai Tống Hữu Ðịnh, ở Sa Ðéc có gánh xiệc pha ca ra bộ rồi cải lương của André Thận, ở Sóc Trăng có gánh hát của thầy thuốc Trần Văn Minh, ở Mỹ Tho có gánh của Thầy Nă m Tú, ở Chợ Lớn có gánh thầy Mười Vui, ở Saigon có gánh Tân Thinh, ở Long Xuyên có gánh Tập Ích Ban (của Vương Văn Có), vvẬ
    Suy đi nghĩ lại , điểm mà ai cũng đồng ý là hát cải lương bắt nguồn từ hát bội . Lúc ban sơ, các tuồng hát đều dựa theo tuồng cổ của hát bội như "Trảm Trịnh Ân", "Ngưu Cao tảo mộ", "Thoại Khanh Châu Tuấn" . Ở hát bội, câu ca không cần bị gòbó theo nhạc đàn , tuy rằng căn bản phải gìn giữ đúng với âm điệu, do đó diễn viên được tự do sáng tạo, được phát huy sở trường, câu hát cao hay thấp , mau hay chậm, ngân nga hay kéo dài không bị giới hạn, chỉ cần phải hòa với nhạc đàn ở những nhịp chính là được . Còn trong cải lương , câu ca phải đúng với điệu đàn, phải hợp với giai điệu và tiết tấu . Ðể tránh những cử chỉ tượng trưng quá nhiều và hát hay thét lớn cùng những tuồng tích xưa, hát cải lương với những bài ca mùi mẫng, với nhừng tranh dàn cảnh huy hoàng, với những tuồng gần với xã hội Việt Nam, với lời văn đơn giản của ngôn ngữ thường ngày, với những động tác tự nhiên đã đổi mới nghệ thuật diễn xuất, nhạc điệu . Về âm nhạc thì bỏ những lối hát nam, hát khách, bỏ luôn lối xướng, bạch, hường, tán , chỉ giữ và phát triển thêm lối nói lối cho thật mùi hợp với tiếng đờ n tài tử . Số vốn ca nhạc của sân khấu cải lương ngày từ buổi đầu cũng đã rất phong phú . Về điệu "Lý ", có "Lý Ngựa Ô", "Lý Con Sáo ", "Lý Giao Duyên ", "Lý Ngựa Ô Nam", "Lý Thập Tình ", "Lý Chuồn Chuồn" . Về ngâm thì có ngâm Sa Mạc, Bồng Mạc, Ngâm Sổng, hoặc lối ngâm mới trong cải lương áp dụng theo dây Oán . Có ba bài Nam : "Nam Xuân", "Nam Ai " và "Nam Ðảo" , bốn bài oán như "Tứ Ðại Oán", "Phụng Hoàng", "Giang Nam", "Phụng Cầu ", và bốn bài oán phụ như "Văn Thiên Tường", "Bình Sa Lạc Nhạn ", "Bộc Thủy Ly Tao", và "Thanh Dạ Ðề Quyên" . Ngoài ra những cảnh vui thì có 5 bản vui và ngắn như "Bình Bán Vắn ", "Tây Thi Vắn", "Khổng Minh Tọa Lầu", "Mẫu Tầm Tử", "Long Hổ Hội" . Sáu bài Bắc lớn như "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục" , "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Tây Thi", "Cổ Bản" . Bảy bài lớn dùng trong nhạc lễ như "Xàng Xê", "Ngũ Ðối Thượng", "Ngũ Ðối Hạ", "Long Ðăng ", "Long Ngâm ", "Vạn Giá ", "Tiểu Khúc " . Ðó là chưa kể 8 bài ngắn khác dùng trong nhiều trường hợp vui buồn khác nhau như "Ái Tử Kê ", "Chiêu Quân", "Trường Tương Tư", "Ðường Thái Tôn ", "Bát Man Tấn Cống", "Duyên Kỳ ngộ" , "Ngự Giá ", "Kim Tiền Bản", và sau cùng là 10 Liên Hoàn (Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quản g, Liên Hoàn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong , Long Hổ , Tẫu Mã) .
    Giai đoạn tiên khởi của cải lương bắt đầu bằng gánh hát của thầy André Thận vào năm 1917 . Ðến năm 1918, gánh André Thận rã , thầy Nă m Tú ở Mỹ Tho mới gom góp các tài tử của André Thận lập nên gánh Thầy Năm Tú, sắm thêm y phục, tranh cảnh, và có Trương Duy Toản là thày soạn tuồng đàng hoàng .
    Lúc đầu là phụ diễn trước khi chiếu phim hát bóng . Các tài tử đều ngồi trên bộ ván gõ , và mặc quốc phục chỉnh tề, vừa ca vừa ra bộ . Thầy Năm Tú có công trong việc đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt trên toàn cõi xứ Việt Nam qua các dĩa hát 78 vòng mà những người từ bát tuần trở lên đều nhớ mỗi khi nghe dĩa hát bát đầu bằng cầu "Ðây là bạn hát cải lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, hát cho dĩa Pathé Phono nghe chơi "
    Từđó trở đi, các gánh đua nhau mọc lên như nấm . Nào gánh Tập Ích Ban, gánh Tân Thinh Ban, gánh Văn Hý Ban, gánh Võ Hý Ban, gánh Phước Cương , gánh Trần Ðắc, gánh Huỳnh Kỳ , gánh Phụng Hảo, vvẬ đã tạo cho sân khấu cải lương một nền móng vững chắc . Những tài tử cải lương gạo cội tiền bối người còn người mất (hiện nay chỉ còn có bà Phùng Há, bà Bảy Nam ở Saigon) như các bà Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Hai Nhỏ, Ba Út, Năm Sa Ðéc, Thanh Tùng, Kim Thoa, và các nam nghệ sĩ như Từ Anh, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Nghĩa, Tám Danh, Ba Du, vvẬ đã đưa nghệ thuật diễn xuất cải lương từ chỗ sơ khai đến chỗ toàn hảo .
    Từ năm 1938 đến năm 1945, nhóm Kim Thoa của Tư Chơi và gánh Kim Chung tìm cách pha nhạc Tây vào câu ca bài bản cổ Việt .
    Ðến giai đoạn hồi cư (1946-47), hát cải lương xuất hiện trở lại và chỉ đem tuồng cũ ra diễn lại mà thôi .
    Từ năm 1950 trở về sau, cải lương lại pha thêm đấu kiếm, đánh võ , đánh chưởng, vừa ca vừa hát giọng Tàu (Hồ Quãng), giọng Âu Mỹ, rồi lại sinh ra loại tân cổ giao duyên .
    Tuồng tích cải lương được phân chia ra nhiều loại : tuồng tàu, tuồng dã sử, tuồng chiến (gánh hát của Bảy Cao), tuồng La Mã, Phù tang, tuồng xã hội, tuồng chưởng, tuồng hồ quãng, vvẨ
    Giai đoạn 50-60, những nghệ sĩ hữu hạng và thượng thặng mà đa số chúng ta đều biết tiếng như là Út Trà Ôn (từ trần năm 2001), Thành Ðược (hiện sống ở San Jose, Hoa Kỳ), Thanh Tú (hiện ở Saigon, Việt Nam, Hùng Cường (từ trần ở California, Hoa Kỳ), Dũng Thanh Lâm (hiện sống ở California, Hoa Kỳ), vvẨ về phía nam, và Út Bạch Lan (hiện sống ở Saigon), Thanh Nga (từ trần), Bạch Tuyết (hiện sống ở Saigon), Ngọc Giàu (Saigon), Thanh Thanh Hoa (Saigon), Ngọc Nuôi (Hoa Kỳ), Kim Chưởng (Saigon), vvẨ về phía nữa .
    Một số hề nổi tiếng như Ba Vân (từ trần), Sáu Ðước (gánh Tân Ðồng Ban, từ trần), Tư Rọm (gánh Việt Hùng Minh Chí, từ trần), Hề Trường, Hề Tỵ (gánh Tân Hí, Mộng Vân , Phát Thanh), Lê Tám (gánh Hoa Sen), Hề Phúc Lai, Hề Tư Vững, Hề Giác, Hề Minh, Hề Hai Vinh ,vvẨlà những người đã đem sức đem hơi ra chọc được tiếng cười dòn tang của khán giả . Tất cả các danh hề kể trên đã sang bên kia thế giới .
    Từ năm 1970 trở đi, các nghệ sĩ trẻ như Minh Phụng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Chí Tâm (hiện sống ở Hoa Kỳ) , Vương Kiệt , Lệ Thủy, Hương Lan (sống ở Hoa kỳ), Phượng Liên (hiện sống ở Hoa kỳ) vvẨ nối tiếp con đường đã vạch sẵn của các bậc tiền bối .
    Tại miền Nam trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn quanh năm . Ngày nay số gánh hát vẫn tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật cải lương ở Việt Nam , trong khi ở hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút khán giả nữa, và các nghệ sĩ cải lương tỵ nạn đã phải tìm một nghề khác để mưu sinh .
  7. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    CỔ NHẠC LÀ GÌ ?
    Cổ nhạc , nói chung, bao gồm nhiều loại nhạc khác nhau: nhạc cung đình, nhạc tôn giáo, nhạc thính phòng, nhạc tuồng (hát bội, chèo, cải lương), nhạc dân gian từ bài hát ru con, các loại đối ca, đến loại hò đưa linh . Nói một cách khác, cổ nhạc là nhạc của người dân Việt từ thời lập quốc đến giai đoạn hiện đại do người Việt sáng tác theo truyền thống truyền khẩu . Trong phạm vi bài này, tôi không thể tạm gác một bên các loại nhạc đồng bào thiểu số vì không thể kê khai nhạc của 54 sắc tộc sống trên xứ Việt ngư người Thái, Mông , Mường, Mán, Thổ, Tày, Dao, Ra-đê, Ba-na, Mnong, Sê Ðăng, Ê Ðê ,Chàm ,vvẨ
    Nhạc cung đình được Lương Ðăng phỏng theo nhạc cung đình nhà Minh bên Trung quốc vào thế kỷ thứ 15 . Ðến thời nhà Nguyễn (1802-1945), nhạc cung đình gồm các loại : Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc, Ðại Triều nhạc, Thường Triều nhạc, Cứu Nhựt nguyệt giao trùng nhạc, cung trung chi nhạc, Yến nhạc, văn nhạc, võ nhạc do nhiều dàn nhạc như đại nhạc, tiểu nhạc với số nhạc công rất đông . Ðó là chưa kể một số điệu vũ như văn vũ , võ vũ , tứ linh vũ , hoa đăng vũ , bát man tấn cống vũ, vvẬ
    Nhạc tôn giáo gồm có nhạc Khổng giáo bây giờ không cò n nữa (chỉ còn nghe tại Ðài Loan và Ðại Hàn mà thôi ), nhạc Phật Giáo rất phong phú với các điệu niệm, tán , tụng đầy nhạc tính, nhạc Cao Ðài đặc biệt miền Nam trên điệu Nam (Nam Xuân, Nam Ai, Oán), và tất cả các loại nhạc dính liền với các tế lễ như chầu văn, hầu văn, rỗi bóng, lên đồng, nhạc đám ma .
    Nhạc thính phòng (tạm gọi là thính phòng theo nghĩa Tây phương), là một bộ môn rất được ưa chuộng tại Việt Nam . Có ba loại nhạc thính phòng đặc thù của ba miền : miền Bắc có "Hát Ả Ðào", miền Trung có "Ca Huế ", và miền Nam có "Ðàn Tài Tử " . Hát ả đào còn gọi là "Ca Trù ", "Hát Cô Ðầu" không còn được thịnh hành tại miền Bắc vì không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại mặc dù đã được chấn hưng từ 20 năm nay . " Ca Huế ", với các bài Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Ðại Cảnh, 10 bài ngự vẫn còn được ưa thích . "Ðàn Tài Tử " được bành trướng mạnh mẽ tại miền Nam với các đại hội liên hoan được tổ chức tại các tỉnh miền Nam (Tân An, Mỹ Tho, Bạc Liêu ) . Chính "Ðàn Tài Tử " đã đóng góp rất nhiều cho sự hình thành nhạc hát cải lương .
    Nhạc dân gian Việt Nam rất giàu . Miền Bắc có biết bao nhiêu dân ca đã làm sống lại những nét đẹp của phong cảnh, của phong tục nghìn xưa như loại hát quan họ Bắc Ninh với phong tục kết bạn, ngủ bọn (liền anh , liền chị ) , hát thi hát lấy giải; rồi hát trống quân, hát giậm, hát phường vải, hát ví, hát xoan, cò lả , hội sim . Ngoài ra còn có hát xẩm . Miền Trung có hò sông Mã , hò mái nhì, mái đẩy, mái sấp, hò hụi, hò nện, các điệu lý như lý mười thương, lý con sáo, lý giao duyên . Trong Nam những điệu hò thay đổi từng miền, từng vùng như Hò Ðồng Tháp, hò Bạc Liêu, hò Bến Tre, hò lơ , hay các điệu lý như Lý Ngựa Ô , lý chuồn chuồn, lý con khỉ Ðột, lý dĩa bánh bò , lý che hường, vvẬ Hầu hết các điệu lý, hò , đối ca đều dựa trên thể thơ lục bát rất đặc biệt Việt Nam. Dân ca Việt Nam, nhờ vào những cuộc hát thi lấy giải và óc sáng tạo nhạy bén mà ngày nay có trên mấy ngàn bài được phổ biến khắp nơi .
    Tôi hy vọng rằng, qua bài tiểu luận này, quý bạn đọc sẽ có một khái niệm đại cương về thế nào là "Vọng cổ", thế nào là "Cải lương", thế nào là "Cổ nhạc" . Biết được nguồn gốc nhạc Việt là một điều cần thiết nhứt là cho kiến thức văn hóa cho mỗi người trong chúng ta lúc phải bị lìa xa quê hương . Hiểu được nhạc mình, biết qua nhạc người, dung hòa hai nền nhạc Âu và Việt để đừng bị mất gốc mất rể và có thể dạy dỗ con cháu thuộc thế hệ sau . Tự hào nhạc Việt, cũng như tự hào tiếng nói Việt, văn hóa Việt là nung nấu chí khí quật cường bất khuất của dân tộc Việt, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình thương dân tộc để xứng đáng là con cháu dòng dõi Lạc Hồng .

Chia sẻ trang này