1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cơ sở cấu thành nên môn Phong thủy – Phần 2

Chủ đề trong 'Gia sư - luyện thi' bởi nowayback03, 06/09/2013.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nowayback03

    nowayback03 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    1.046
    Đã được thích:
    0
    Cơ sở cấu thành nên môn Phong thủy – Phần 2
    Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch.
    Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh : “Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự”.
    Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử.
    nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển.
    Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan.
    Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 : “Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa”.
    Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : “Nơi sông núi mỹ lệ, cây
    cỏ tốt tươi, “Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị”.
    Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng, hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây
    cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới, thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là “Uất thảo”, cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã
    http://xemphongthuy.us/phong-thuy-hoc
    canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực.
    Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo : “Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực”. Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc.
    Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: “Bốc lạc dịch long thế, Hưng loạn võng bất vong” .
    Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng, mai rùa có những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo : “Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực”. Đời sau liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : “Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập”. Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : “Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị” .
    Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : “Đường Ngu bốc địa, Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc”. Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ “Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ”. Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy.
    Bốc trạch: Chữ “trạch” có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Thượng thư. Chiếu cáo: “Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh”, ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư trú. Bài thơ “Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu : “Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa”. Thơ Di cư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : “Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ước phú giao cư “. 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thượng: “Đại phu bốc trạch và ngày mai táng”. Sớ của Khổng Dĩnh Đạt : “Trạch
    là đất mai táng”. Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng của Cố Viêm Vũ đời Thanh : “Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai”. Đời sau bèn gọi Phong
    thủy là Bốc trạch.
    Bốc cư : Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỷ. “Đức công nguyên niên, bốc cư Ung”. Sau chỉ việc chọn đất định cư. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ “Hành trạch” của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam triều : “Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại”. Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đường của Đỗ Phủ đời Đường có câu : “Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền”.
    Bốc thất : Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : “Phiêu phiêu số niên
    như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây”. Minh sử. Trương Khả Đại truyện : “Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử”.
    Bốc vũ : Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều : “ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách” .
    Bốc trúc : Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện : “Bốc trúc dương tiễn sơn trung, độc thư thập niên dư”
    Bốc lân : Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : “Thả Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. ‘Nhị, tam tử tiên bốc lân hề”. Đỗ Dự chú giải: “Bói láng giềng tốt”. Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu : “Nhất tạc bồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u”. Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú, đồng thời biểu thị với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ.
    Bốc lão : Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc lão ở Đan Đồ”.
    Chiêm trạch : Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng đế
    trạch kinh : ” Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự đoán tình hình họa phúc cát hung”
    Tướng trạch : Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : “Thư mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển” . Tùy thư. Kinh tịch chí có chép ” Tướng trạch đồ” 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép ” Tướng trạch đồ” 1 quyển.
    Sinh khí 1) Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dương tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói “Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy” (Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên điều quan trọng nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dưỡng vạn vật. Loài người được nó nuôi dưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của nó thì hung. Sự sống của loài người là kết quả hội tụ sinh khí , sinh khí ngưng kết thành cốt cách của con người. Người
    Nguồn xem phong thuy

Chia sẻ trang này