1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cổ văn

Chủ đề trong 'Nhật (Japan Club)' bởi NhuThiDuyen, 30/05/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. NhuThiDuyen

    NhuThiDuyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/03/2010
    Bài viết:
    100
    Đã được thích:
    0
    Dạo này căng thẳng quá, muốn tìm một thứ gì đó có thể khiến mình thấy là mình đang sống.
    Chợt nhớ ngày xưa vẫn thích thứ này nhưng chẳng có điều kiện học hành tử tế...

    Một trong những cái thú vị nhất của tiếng Nhật là cổ văn.
    Nó thay đổi theo từng thời kỳ, từng thời đại những phản ánh đúng tâm hồn "thuần Nhật" chứ không như thứ tiếng Nhật lai tạp bây giờ.

    Lập topic muốn hỏi trên forum mình có ai thích cổ văn, biết cổ văn thì cùng bàn bạc chơi.
  2. takeshikazuo

    takeshikazuo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/11/2005
    Bài viết:
    1.745
    Đã được thích:
    0
    Yêu cầu khó quá!
    Đọc các bài dịch của bạn đáng nể thật ^^

    Về cổ văn, thực sự nhìn xong Takeshi đã thấy choáng rồi.
    Có lẽ không đủ kiên nhất để đọc cho xong dù chỉ một trang.

    Chắc tại chưa được học
    Chắc tại lười...

    Cho nên, càng thấy nể nhà bác quá!
    Bái phục!
  3. NhuThiDuyen

    NhuThiDuyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/03/2010
    Bài viết:
    100
    Đã được thích:
    0
    Cái này mình không được học hành bài bản mà chỉ đọc nhiều tự nhiên hiểu thôi. Nó cũng không khó lắm.
    Một cách để dễ dàng tiếp thu tiếng Nhật là, khi học thì đừng sử dụng cái đầu, mà hãy dùng tấm lòng của bạn mà cảm nhận nó.
    Cổ văn cũng thế, mình không học bài bản, nhưng cảm biết nó là cái gì, lâu dần thành quen, thành một thứ gì đó của mình không thể thiếu được.

    Đây có một file diễn ngâm với đàn Tỳ bà do, bài thơ do Yoshimizu Kin-ou sáng tác, tuy viết trong thời Meiji nhưng sử dụng khá nhiều từ ngữ hơi hướm cổ, nghe cũng thú vị.

    http://www.mediafire.com/?946i3yg74jvwvrj

    Bài thơ Kawanakajima, kể về trận đánh lịch sử giữa Takeda Shingen và Uesugi Kenshin tại Kawanakajima. Giọng ngâm hào hùng bi tráng, nhất là ở đoạn cuối rất thảm thương khi Shingen bại trận phải rút về quê.
  4. NhuThiDuyen

    NhuThiDuyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/03/2010
    Bài viết:
    100
    Đã được thích:
    0
    Trích một đoạn trong "Heikei monogatari", viết theo lối quân ký, đọc khá thú vị.
    Đây là đoạn đầu của tác phẩm, mấy câu đầu khá nổi tiếng, được phổ thành thơ và nhạc nhiều, nghệ sĩ ngâm khi chơi đàn Tỳ Bà (Biwa).


    Mã:
    祇園精舎の鐘の聲、諸行無常の響あり。娑羅雙樹の花の色、盛者必衰のことわりをあらはす。
    おごれる人も久しからず、唯春の夜の夢のごとし。たけき者も遂にほろびぬ、偏に風の前の塵に同じ。
    遠く異朝をとぶらへば、秦の趙高、漢の王莽、梁の周伊、唐の禄山、是等は皆舊主先皇の政にもしたがはず
    、樂みをきはめ、諫をおもひいれず、天下のみだれむ事をさとらずして、民間の愁る所をしらざりしかば、
    久からずして亡じし者ども也。近く本朝をうかがふに、承平の將門、天慶の純友、康和の義親、平治の信頼、
    此等はおごれる心もたけき事も皆とりどりにこそありしかども、まぢかくは六波羅の入道、
    前太政大臣平朝臣清盛公と申し人のありさま、傳へうけたまはるこそ心も詞も及ばれね。
    其先祖を尋ぬれば、桓武天皇第五の皇子、一品式部卿葛原親王九代の後胤讃岐守正盛が孫、
    刑部卿忠盛朝臣の嫡男なり。彼親王の御子、高親王無官無位にして、うせ給ひぬ。
    其御子高望の王の時始めて平の姓を給て、上總介になり給しより、忽に王氏を出て人臣につらなる。
    其子鎭守府將軍義茂後には國香とあらたむ。國香より正盛に至る迄、六代は諸國の受領たりし かども、
    殿上の仙籍をばいまだゆるされず。
    Phân tích đoạn trích trên

    Mã:
    祇園精舎の鐘の聲、諸行無常の響あり。
    Phiên âm:

    "Gion shōja no kane no koe, shōgyō mujō no hibiki ari" trong đó

    Gion (祇園), âm Hán Việt đọc là "Kỳ Viên", đây là tên riêng.
    Shōja (精舎). Hán Việt đọc là "tịnh xá". Bạn nào chưa hiểu nghĩa của từ "tịnh xá" thì có thể tra trong từ điển tiếng Việt.

    Như vậy Gion Shōja ở đây là "tịnh xá Kỳ Viên", nơi đức Phật Thích Ca hay đến giảng pháp. Không biết trong tiếng Ấn, tên của nó thế nào nhưng người Hán phiên âm thành 祇園 và người Việt đọc hai chữ này là "Kỳ Viên" và người Nhật đọc là "Gion".

    Như vậy, Gion shōja no kane no koe nghĩa là tiếng chuông của tịnh xá Kỳ Viên.

    諸行無常, shōgyō mujō, âm Hán Việt đọc là "chư hành vô thường". Nếu không biết ý nghĩa của cụm từ này thì có thể tra Google.

    Hibiki là tiếng vang, tiếng rền, âm vang.

    Vậy cả câu đầu


    "Gion shōja no kane no koe, shōgyō mujō no hibiki ari"

    mang nghĩa là: trong tiếng chuông tịnh xá Kỳ Viên, nghe vẳng âm vang của sự vô thường trong cõi đời.
    Một câu mở đầu mang tính chất quyết định cho không những cả tác phẩm mà còn ảnh hưởng đến cả lối nghĩ, lối sống cũng như văn học nghệ thuật của nước Nhật nhiều đời sau.

    [​IMG]

    Tác phẩm này được viết trong thời Kamakura, thường được các nhà sư mù đem đi khắp đầu đường ngõ hẻm, vừa gãy đàn Tỳ Bà vừa ngâm ca cho dân chúng nghe. Ít nhiều gì thì điều này cũng ảnh hưởng tới "vô thường quan" tiềm tàng ý thức của người Nhật.

    Tiếp theo là câu thứ hai

    Mã:
    娑羅雙樹の花の色、盛者必衰のことわりをあらはす
    Trong đó,娑羅雙樹 đọc là Sara Sōju, âm Hán Việt đọc là "sa la song thụ". Sa La là tên một loài cây ở Ấn độ. Sa La song thụ là cây Sa La đôi, nơi đức Phật Thích Ca nhập diệt.
    Như vậy,

    Mã:
    娑羅雙樹の花の色
    có nghĩa là màu sắc của hoa trên cây Sa La đôi.

    Mã:
    盛者必衰
    đọc là Jōsha hissui, HV đọc là "thịnh giả tất suy". Kẻ mạnh đến lúc nào đó phải suy, có lúc thịnh phải có lúc suy.
    Kotowari nghĩa là định luật, quy luật.

    あらはす đọc là Arawasu, chú ý は theo cách đọc lịch sử là "wa" chứ không phải "ha". Động từ này mang nghĩa là "diễn đạt", "biểu hiện".

    盛者必衰のことわりをあらはす , vế này có nghĩa là "thể hiện quy luật thịnh giả tất suy".

    Như vậy, toàn bộ ý nghĩa của câu thứ hai có thể hiểu là

    Màu sắc hoa cây Sa La đôi cũng cho thấy, biểu hiện quy luật của cuộc đời rằng có lên voi rồi sẽ có lúc xuống chó.

    Mã:
    たけき者も遂にほろびぬ、偏に風の前の塵に同じ。
    
    "Takeki hito mo tsui ni horobinu, hitoe ni kaze no mae no chiri ni onaji"

    Takeki hito: kẻ dũng mãnh, người quả cảm (chiến binh), đây là từ cổ. Các danh từ "take" và "takeshi" trong tiếng Nhật đều có nguồn gốc từ chữ "võ" (trong võ biền, võ thuật) mà ra.
    Takeki mono ở đây là chỉ họ Minamoto trong cuộc phân tranh với họ Taira. Họ Minamoto có người đứng đầu là Yoritomo, ông tổ của chế độ Mạc Phủ, mở đầu thời kỳ các võ sĩ cai trị Nhật Bản. Có thể nói rằng Yoritomo chính là người khai mào cho dòng chảy lịch sử đề cao tinh thần thượng võ trong tính quốc dân của dân Nhật.
    Ngoài ra, họ Minamoto còn có Yositsune và ông hầu Benkei cũng được xem là thần võ nghệ, đại diện cho giai cấp chiến binh.

    Tsui ni: phó từ diễn tả ý "cuối cùng thì..."
    Horobinu: hình thái cổ của động từ "horobiru": tuyệt diệt.

    Như vậy

    Mã:
    たけき者も遂にほろびぬ
    : kẻ võ biền dũng mãnh cuối cùng cũng tuyệt diệt.

    Mã:
    偏に風の前の塵に同じ
    : cũng giống như câu trên, vế này cũng có thể hiểu dễ dàng bằng ngữ pháp tiếng Nhật hiện đại: chỉ giống như hạt bụi trước gió.

    Mã:
    おごれる人も久しからず、唯春の夜の夢のごとし。
    
    たけき者も遂にほろびぬ、偏に風の前の塵に同じ。
    
    Hai câu này kết thúc phần mở đầu của Heike Monogatari và cũng là hai câu chốt toàn bộ nội dung của tác phẩm. Qua đây có thể thấy rõ tinh thần "vô thường quan" trong truyện Heike. Bằng việc mô tả cuộc chiến giữa hai họ Minamoto và Taira, tác giả (khuyết danh) đã nói lên lẽ vô thường của cuộc đời: có đó bỗng chốc hóa không. Kẻ quyền thế hôm nay thì mai đã thân bại danh liệt, kẻ hùng mạnh hôm trước hôm sau đã tan tành thân xác.


    Download đoạn ngâm thơ phần mở đầu của truyện Heike, do Uehara Mari diễn ngâm với đàn Tỳ Bà

    http://www.mediafire.com/?meykt22jmqi

    Mã:
    遠く異朝をとぶらへば 
    Tooku ichō wo toboraeba
    ichō: âm Hán Việt đọc là "dị triều", tức là triều đình ngoại quốc. Nghĩa rộng của từ này chỉ các nước bên ngoài Nhật Bản, nghĩa hẹp chỉ nước Tàu. Vì ngày xưa Nhật Bản chỉ giao du với Trung Hoa nên khái niệm "ngoại quốc" đồng nghĩa với nước Tàu. Từ đối nghĩa với "ichō" là "honchō" (本朝, bản triều, chỉ triều đình Nhật, tức nước Nhật).

    Động từ "Toburau" (訪ふ, cách biểu ký lịch sử là とぶらふ nhưng không đọc là "toburafu" như cách đọc đương đại mà đọc là "toburau") mang nghĩa là thăm viếng, dò tìm, hỏi thăm.
    Như vậy, vế

    Mã:
    遠く異朝をとぶらへば 
    có nghĩa là: nếu dò tìm (gương xưa, ví dụ) ở nước Tàu xa xôi (thì thấy)...

    Mã:
    秦の趙高、漢の王莽、梁の周伊、唐の禄山
    Shin no Chōkō, Kan no Ōmō, Ryō no Shūi, Tō no Rokuzan.

    Đây đều là các danh từ riêng: Triệu Cao (Chōkō) nước Tần (Shin), Vương Mãn (Ōmō) thời Hán (Kan), Chu Y (Shūi) nước Lương (Ryō) và Lộc Sơn (Rokuzan) thời Đường (Tō): đây đều là các gương gian thần nghịch tặc bên Tàu ngày xưa. Các bạn có thể tra Google để hiểu rõ hơn.

    Mã:
    是等は皆、旧主先皇の政にもしたがはず
    Kore ra wa mina, kyūshu senkō no matsurigoto nimo sitagawazu

    是等 (korera): bọn này, những thứ này, chỉ đám người liệt kê ở trên
    Mina: toàn bộ, hết tất cả
    kyūshu senkō: cựu chủ tiên Hoàng: chủ cũ và vua đời trước
    政 (matsurigoto): chính trị
    従う (sitagau): động từ, nghĩa là tuân theo. Thể phủ định là sitagawanai (sitagawazu), tuy nhiên, về mặt biểu ký lịch sử thì ghi là 従はず chứ không ghi 従わず như trong tiếng Nhật hiện đại.

    Như vậy cả vế này có nghĩa là: những kẻ này thảy đều không tuân theo nền chính trị của các tiên vương, chúa (chủ) của họ.

    Mã:
    楽みをきはめ、諫をも
    おもひいれず、天下のみだれむ事をさとらずして
    Tanoshimi wo kiwame, isame womo omoiirezu, tenga no midaremu koto wo satorazu site

    Tanoshimi: hiểu như hiểu từ này trong tiếng Nhật đương đại: niềm vui, khoái lạc
    Kiwame ̣̣̣̣́(không đọc là Kihame như tiếng Nhật hiện đại): cùng cực, đi đến chỗ cùng cực

    Mã:
    楽みをきはめ
    : suốt ngày ăn chơi, cực đỉnh của chơi bời
    Isame: sự can gián, lời can gián
    Omoiirezu (thể phủ định, không đọc là Omohi irezu như tiếng Nhật hiện đại): không để tâm đến
    Mã:
    楽みをきはめ、諫をもおもひいれず
    : ra sức chơi bời, không nghe theo lời can gián

    Tenga: thiên hạ
    Midaremu: hình thái cổ của động từ midareru: rối ren, loạn lạc
    Satoru: hay biết
    Satorazu: không hay biết
    Satorazu site : liên ngữ site đi sau từ phủ định "zu" mang ý "nakute" (なくて) hay "shinaide" (しないで) như trong tiếng Nhật hiện đại.

    Mã:
    天下のみだれむ事をさとらずして
    : chẳng hay biết gì đến sự loạn lạc của thiên hạ

    Mã:
    民間の愁る所を
    しらざしかば、久しからずして、亡じにし者ども也。
    Minkan no ureuru tokoro wo shiraza shikaba, hisashikarazu site, bōji nishi monodomo nari

    Mã:
    民間
    : dân gian, trăm họ, bá tánh
    愁る: điều lo buồn, sự lo lắng
    Shirazaru: thể phủ định của shiru (biết). Shirazaru nghĩa là không biết.
    Trợ từ "ba" đi chung với "shika" diễn đạt ý: chính vì (~たので)
    Shirazashikaba: chính vì không biết (điều nói trước đó) nên mới...

    Hisashikarazu site: (đã nói bên trên)

    Mã:
    亡じにし者ども也
    : trở thành những kẻ diệt vong, vong mạng.

    Trợ từ "nari" đứng cuối câu thường diễn tả ý khẳng định: dearu.

    Như vậy cả cụm

    Mã:
    遠く異朝をとぶらへば、秦の趙高、漢の王莽、梁の周伊、唐の禄山、
    是等は皆、旧主先皇の政にもしたがはず、楽みをきはめ、諫をも
    おもひいれず、天下のみだれむ事をさとらずして、民間の愁る所を
    しらざしかば、久しからずして、亡じにし者ども也。
    mang nghĩa là:
    nếu tìm ví dụ ở nước Tàu xa xôi thì thấy có gương Triệu Cao nhà Tần, Vương Mãn nhà Hán, Chu Y nước Lương và (An) Lộc Sơn nhà Đường. Thảy bọn này đều không tuân theo nền chính trị của cựu chủ tiên hoàng, ăn chơi đọa lạc, không nghe theo lời can gián, chẳng biết thiên hạ đang rối ren, chẳng điếm xỉa gì đến nỗi lo của bá tánh nên đều trở thành những kẻ vong mạng, chẳng tồn tại lâu được.
  5. hitomebore

    hitomebore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2007
    Bài viết:
    1.386
    Đã được thích:
    0
    こういうことわざがあるんだ
    「すきこそ物の上手になれ」
    やぱり、好きなことならば どんな難しくても 頭に入りやすいんだよね。

    古文って さっぱりなんだ 俺は。
  6. NhuThiDuyen

    NhuThiDuyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/03/2010
    Bài viết:
    100
    Đã được thích:
    0
    Tiếng Nhật khó. Hẳn không ít người vẫn luôn giữ ấn tượng này trong đầu. Tiếng Nhật cổ càng khó, đây là hệ quả của vế trước. Tuy nhiên, tôi hy vọng loạt bài này sẽ giúp bạn nghĩ ngược lại về tiếng Nhật, về cổ văn tiếng Nhật. Nhưng trước hết, cổ văn là gì, tại sao phải học cổ văn, cần những nền tảng gì để học cổ văn? Những vấn đề này sẽ lần lượt được giới thiệu đến độc giả.


    Cổ văn là gì?


    - Cổ văn, theo nghĩa hạn hẹp, là danh từ chung chỉ "văn" (ngữ pháp, ngôn từ) tiếng Nhật từ thời Edo trở về trước và có nhiều điểm dị biệt với tiếng Nhật hiện đại. Đương nhiên rồi, tiếng Việt ngày nay cũng khác xa nhiều tiếng Việt thời Hai Bà Trưng. Cổ văn (Nhật) là tên gọi chỉ chung quốc văn (Nhật) từ thời Edo trở về trước.
    - Cổ văn biến đổi qua từng thời đại. Cổ văn thời Heian khác với thời Edo nhưng tựu trung vẫn có nhiều điểm tương đồng. Loạt bài viết này chủ yếu tập trung vào loại cổ văn kể từ giữa thời Heian trở về sau. Thời kỳ này đã sản sinh ra nhiều kiệt tác văn học, tùy bút trứ danh như "Makura Zōshi" của Sei Shōnagon, "Genji Monogatari" của Murasaki Shikibu, "Tosa Nikki", "Sarashina Nikki",...
    Đến thời Kamakura thì có thêm nhiều kiệt tác như "Heike Monogatari", "Tsurezure gusa" và đến thời Edo thì xuất hiện thêm nhiều tác phẩm, nhiều thể loại có giá trị khác nữa.

    *Lưu ý: xin hiểu từ "cổ văn" dùng trong loạt bài này là cổ văn tiếng Nhật. Các thứ tiếng khác không bàn đến.


    Vì sao phải học cổ văn?


    - Vì nếu bạn học giáo dục phổ thông tại Nhật, hay con cái theo học tại đây thì cổ văn nằm trong chương trình giáo dục bắt buộc (cấp 3).
    - Tiếng nói là tấm gương phản chiếu chính xác nhất suy nghĩ, tính cách, tâm hồn của một dân tộc, một thời đại. Bằng cách học hỏi tiếng nói của người xưa, bạn có thể hiểu được cuộc sống đương thời như thế nào, họ cảm thấy, suy nghĩ thế nào về sự vật sự việc gì đấy. Đây là một điều không thể trải nghiệm được bằng các tái hiện lịch sử thông thường. Hiểu được cổ văn tức là hiểu được văn hóa, lối sống của người xưa thông qua các ghi chép, sách vở để lại.
    - Ngôn ngữ có tính kế thừa. Tiếng Việt ngày nay là thành quả phát triển từ nền tảng tiếng Việt cổ. Tiếng Nhật cũng vậy. Thông qua việc học cổ văn, chắc chắn bạn sẽ hiểu rõ, hiểu kỹ và hiểu sâu hơn về tiếng Nhật hiện đại.


    Cần những nền tảng gì để học cổ văn?

    - Một nền tảng kiến thức về tiếng Nhật hiện đại vững chắc. Cái này là đương nhiên, khỏi cần giải thích ha.
    - Có một nền tảng tiếng mẹ đẻ (Việt) vững chắc. Khỏi phải nói, nếu bạn không hiểu kỹ tiếng mẹ đẻ của mình thì chỉ có thể tiếp thu được cái vỏ bề ngoài của ngoại ngữ thôi, không bao giờ tiếp thu được cái chân tủy, cái cực ý của nó.
    - Tôi không dùng cái đầu để hiểu ngôn ngữ, tôi chỉ dùng tâm hồn để cảm nhận nó.
    - Tôi không dùng cái đầu để ghi nhớ ngôn ngữ mà chỉ khắc sâu nó vào trong tâm hồn.
    - Biết liên tưởng các sự việc. Biết nhìn ra chỗ "trùng trùng duyên khởi". Chỗ này không hiểu thì tra Google há.
    - Đừng câu nệ vào câu chữ. Có khi tôi nói thế nhưng ý không phải thế. Phải biết dùng tâm hồn của bạn mà nhận ra cái ý tôi muốn nói.


    Nếu vẫn chưa rõ cổ văn là gì thì có thể xem qua một bài ví dụ tại đây (click vào):

    * Lưu ý: những điều khuyên trên đây chỉ là tương đối, tùy từng căn cơ mà bạn có thể tiếp nhận theo những cách khác nhau.

    Cổ văn khác tiếng Nhật đương đại thế nào?


    Xét về góc độ văn phạm, cách dùng từ, ý nghĩa của từ thì cổ văn và tiếng Nhật hiện đại dĩ nhiên là khác nhau. Nhưng không phải đây là hai thế giới hoàn toàn khác biệt nhau.
    Ông của bạn dĩ nhiên là khác cha của bạn, và dĩ nhiên là cha bạn khác chính bạn. Nhưng những người này đều có cùng những đặc tính cùng duyên cùng nghiệp với nhau ở một vài khía cạnh nào đó. Ngôn ngữ cũng vậy. Như đã nói trước, nó có tính kế thừa. Tiếng Nhật hiện đại được phát triển từ tiếng Nhật cổ, lẽ dĩ nhiên là nó mang trong mình những đặc điểm của tiếng cổ và biến hóa, thay đổi theo thời gian. Các thứ tiếng khác cũng vậy.

    Như đã nói trên, tiếng Nhật cổ và tiếng Nhật đương đại khác nhau chủ yếu ở văn phạm và từ ngữ. Chỉ cần nắm được hai yếu tố này là bạn có thể hiểu cổ văn như hiểu tiếng hiện đại. Vậy thì có khác nhau nhiều lắm đâu?

    Một điểm khác nữa là trong tiếng hiện đại, người ta đòi hỏi bạn phải thạo bốn kỹ năng là nghe, nói, đọc và viết. Nhưng đối với cổ văn, bạn chỉ cần thạo đọc (hiểu ý nghĩa) là được. Vì bạn nói ai nghe? Có ai nói bạn nghe? Có ai đọc những gì bạn viết?

    Vậy là cổ văn dễ học hơn tiếng Nhật hiện đại rồi nhé!

    Tạm xong kỳ I
  7. NhuThiDuyen

    NhuThiDuyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/03/2010
    Bài viết:
    100
    Đã được thích:
    0
    Cách đọc cổ văn

    Một lần đọc tạp chí Hán Nôm thấy nói thời Hai Bà Trưng, từ "trăng" được đọc là "blăng". Tiếng Nhật cổ và tiếng Nhật hiện đại cũng vậy, có nhiều điểm dị biệt trong cách phát âm và do đó đưa đến dị biết trong cách dùng chữ Kana. Trong sinh hoạt hàng ngày, để thuận tiện và dễ nói, nhiều khi người ta nói lược bớt từ, đọc nuốt chữ. Đây là hiện tượng thường thấy trong mọi ngôn ngữ. Đối với tiếng Nhật hiện đại, có thể thấy rõ hiện tượng này qua các ví dụ sau:

    Mã:
    している nói tắt thành してる
    してしまう nói tắt thành しちゃう
    Tiếng Nhật cổ cũng vậy, phát âm cũng được lược bỏ trong nhiều trường hợp, rồi dần dần những thứ được lược bỏ đó dần định hình, trở thành lối phát âm chuẩn cho tới ngày nay.

    Tương tự, cách dùng chữ Kana cũng có nhiều thay đổi. 歴史的仮名遣い (Rekishi teki kanadukai): cách dùng chữ Kana có tính lịch sử. Cụm từ này dùng để chỉ việc dùng Kana trong cổ văn, có nhiều điểm dị biệt so với việc dùng Kana trong tiếng Nhật hiện đại. Nó có một số quy tắc, tuy không nhiều lắm nhưng buộc bạn phải ghi nhớ.

    1. Đầu tiên là bản chữ cái. Trong bảng chữ cái tiếng Nhật hiện đại có hai chữ cái sau bị lược bỏ khỏi bảng chữ ban đầu:ゐ và ゑ. Chữ ゐ đọc là i, tương đương với イ hay い, chữ ゐ đọc là e và tương đương với エ hay え. Thời cổ, bộ ba chữ ゐ・ゑ・を thường được dùng với vai trò của ba chữ イ・エ・オ trong tiếng Nhật hiện đại. Chẳng hạn:

    Mã:
    ゐる→イル
    ゑみ→エミ
    をとこ→おとこ
    Lưu ý là về cách đọc thì ゐ đọc như chữ い, ゑ đọc như chữ え.
    Trong tiếng Nhật hiện đại, chữ を không bao giờ đứng đầu một từ hay câu, nhưng trong cổ văn thì nó được dùng như chữ お nên việc đứng đầu cụm từ, đứng đầu câu là điều bình thường.

    2. Về cách dùng Kana thời cổ, các chữ cái ぢ, づ và む được dùng thay cho じ, ず và ん.
    Chẳng hạn:

    Mã:
    はじ(haji: sự xấu hổ) thì trong cổ văn được viết là はぢ
    めずらし (mezurashi: sự hiếm hoi) trong cổ văn được viết là  めづらし
    かんなづき (kannaduki: tháng 10) trong cổ văn được viết là かむなづき
    Bạn đã biết じ và ぢ, ず và づ có cách đọc giống nhau và thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp vài trường hợp dùng ぢ và づ trong tiếng Nhật hiện đại. Thế nhưng tại sao ん lại trở thành む trong cổ văn? Thử đọc lên xem? Hai chữ này phát âm cũng gần giống nhau mà!

    3. くゎ đọc như là か và ぐゎ đọc như là が, chẳng hạn

    Mã:
    くわんねん→カンネン
    4. Các ngữ vĩ như わ,い,う,え,お được thay thế bằng は, ひ,ふ,へ,ほ trong ngữ văn. Nói cách khác, trong một cụm từ mà có các chữ wa, i, u, e và o đứng từ vị trí thứ hai trở đi thì chúng sẽ được viết là は,ひ,ふ,へ,ほ. Ví dụ:

    Mã:
    つはもの→つわもの (vẫn đọc là Tsuwamono: lính tráng)
    ひたひ→ひたい (vẫn đọc là hitai: cái trán)
    いふ→いう (vẫn đọc là iu: nói)
    *Lưu ý: các chữ は,ひ,ふ,へ,ほ nếu đứng đầu cụm từ thì vẫn đọc là ha, hi, hu, he, ho như bình thường. Chỉ khi làm nhiệm vụ ngữ vĩ thì mới đọc là wa, i, u, e và o.
    Tiếng Nhật hiện đại có trường hợp của trợ từ は đọc như わ cũng bắt nguồn từ việc này.

    5. Tiếp theo là phần quy tắc dễ nhầm lẫn nhất trong cổ ngữ

    + 「アウ」→「オウ」: nếu u đứng sau hàng a trong cổ văn thì nó được đọc là o-u (trường âm). Ví dụ:

    Mã:
    かうべ → こうべ
    ようす→ヨウス
    + 「イウ」→「ユウ」: nếu u đứng sau hàng i trong cổ văn thì chèn ゅ vào giữa. Ví dụ:

    Mã:
    きふ → きゅふ→ きゅう
    うつくしう→ウツクシュウ
    
    + 「エウ」→「ヨウ」: nếu u đứng sau hàng e trong cổ văn thì nó được đọc như o-u. Ví dụ:

    Mã:
    てうし→チョウシ
    てふてふ=てうてう→ちょうちょう
    Đầu tiên bạn đổi hàng e trong cổ văn thành i, lấy ví dụ trên thì てう→ちう、sau đó chèn ょ vào giữa. Theo quy tắc này thì ちう được kèm ょ vào giữa, thành ちょう. Ví dụ khác:

    けふ trong cổ văn đọc là きょう (hôm nay). Đầu tiên đổi hàng e thành hàng i, tức là けふ thành きふ. Theo quy tắc bên trên, ta biến đổi tiếp きふ thành きょふ. Tiếp tục, theo quy tắc は,ひ,ふ,へ,ほ nếu là vĩ ngữ sẽ đọc như わ,い,う,え,お, ta chuyển tiếp きょふ thành きょう.

    Như vậy trong phần này bạn chỉ cần nhớ

    Mã:
    「ぢ→じ」
    「づ→ず」
    「む→ん」
    「ゐ→い」
    「ゑ→え」
    「を→お」
    「くわ→か」
    「ぐわ→が」
    Trường hợp không đứng đầu cụm từ thì ハ行→ワ行

    Mã:
    「ア段の音+う(ふ)」→「オ段+う」
    「イ段の音+う(ふ)」→「イ段+ゅう」 
    「エ段の音+う(ふ)」→「イ段+ょう」     はぢ→はじ
    めづらし→めずらし
    かむなづき→かんなづき
    ゐなか→いなか
    こゑ→こえ
    をかし→おかし
    くゎかく→かかく
    ぐゎん→がん
    つはもの→つわもの いふ→いう にほひ→におい、など
    かうべ→こうべ
    きふ→きゅう
    てふてふ→ちょうちょう
    Trên đây là những quy tắc khi đọc và viết cổ văn. Bạn sẽ thấy những từ như 「あはれ」、「悲しひ」 đẹp đẽ biết bao. Trong khi đó, đọc là チョウシ mà viết là てうし thì cũng hơi lạ, nhưng rồi bạn sẽ quen thôi. Trong cổ văn, con bươm **** (ちょうちょう) được viết là てうてう.
  8. lumberjark

    lumberjark Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/03/2006
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    0
    giờ thì e đã hiểu,
    nhìn vào thì đúng là tiếng nhật thật nhưng sao đọc mà chả hiểu gì sất [:D]
  9. NhuThiDuyen

    NhuThiDuyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/03/2010
    Bài viết:
    100
    Đã được thích:
    0
    Trước khi đi sâu vào phần cổ văn, có một số thứ trong tiếng Nhật bạn cần nắm được. Thực ra những thứ này không hẳn là có liên quan mật thiết đến văn pháp cổ mà chỉ là những điều cơ bản về tiếng Nhật mà học sinh Nhật được giáo dục trong trường. Tuy nhiên, khi truyền dạy tiếng Nhật cho người ngoại quốc thì những phần này được lược bỏ, và vì vậy gây chút ít khó khăn cho họ khi muốn tiếp cận cổ văn.

    Sự hoạt dụng của động từ

    Hẳn nhiều người học tiếng Nhật đã từng nghe qua từ "hoạt dụng" trong các sách ngữ pháp.
    Hoạt dụng (Katsuyō) là từ dùng chỉ sự biến đổi của phẩm từ (bao gồm động từ, hình dung từ và hình dung động từ) mà nổi bật nhất là động từ.
    Như các bạn biết, động từ trong tiếng Nhật được cấu thành từ hai thành phần là ngữ căn và ngữ vĩ. Khi hoạt dụng, ngữ căn là phần giữ nguyên và ngữ vĩ là phần biến đổi. Chẳng hạn:

    Mã:
    Trong động từ 話す (hanasu: nói chuyện) thì "hana" là ngữ căn, "su" là ngữ vĩ. Khi đi chung với ます thì 話す biến đổi thành 話します. Đây chính là sự hoạt dụng.
    Tương tự, khi cần diễn đạt những ý khác nhau như phủ định, mệnh lệnh, giả định,... thì ngữ vĩ của động từ cũng biến đổi khác nhau, tùy thuộc vào đi liền sau nó diễn tả ý gì. Chẳng hạn:

    Mã:
    「話す」+「ない」 → 話さない phủ định
    「話す」+「ば」 → 話せば giả định
    「話す」+「。(mệnh lệnh)」 → 話せ。(mệnh lệnh)
    「話す」+「う」 → 話そう  ý chí
    Như vậy bạn có thể thấy rõ phần ngữ vĩ của động từ "hanasu" biến đổi qua nhiều hình thái khác nhau như "su", "se", "sa", "sō". Đây chính là các hình thức hoạt dụng của động từ. Trong tiếng Nhật có cả thảy 6 (sáu) hình thức hoạt dụng của phẩm từ, chúng lần lượt được giới thiệu như dưới đây.

    1. Mizenkei (未然形, Hán Việt đọc là "vị nhiên hình"): hình thức này còn có tên khác (cũ) là Shōzengen (将然言),là hình thức hoạt dụng đầu tiên của động từ trong tiếng Nhật. Ngữ vĩ của động từ hoạt dụng ở hình thức này khi đi liền sau nó là các trợ động từ 「ない」「せる・させる」「れる・ られる」「う・よう」 (đối với văn nói, hay tiếng Nhật thường dùng hằng ngay) hay 「ず」「む」「す・さす」「しむ」 「る・らる」 (đối với văn viết, hay cổ văn). Chẳng hạn:

    Mã:
    「動かない」、「起きない」、「寝ない」,「動こう」、「起きよう」、「寝よう」 đều là hình thức hoạt dụng Mizenkei của động từ "ugoku", "okiru" và "neru"
    *Chú ý: đối với động từ, nếu 「~ない」 đi sau phần ngữ vĩ thì động từ đó ở hình thức Mizenkei, nhưng đối với hình dung từ (tính từ đuôi i) và hình dung động từ (tính từ đuôi na), nếu 「~ない」 đi sau ngữ vĩ thì hình dung từ đó ở hình Ren-yōkei (連用形).

    Bản thân từ 未然 mang ý nghĩa là tương lai, chỉ sự chưa đến Mizenkei cũng có thể được xem như hình thức tương lai. Chẳng hạn 歌おう, định hát, động từ này hàm ý hành động hát vẫn chưa diễn ra ngay lúc nói mà có thể sẽ xảy ra trong tương lai gần.

    2. Ren-yōkei (連用形, Hán Việt đọc là "liên dụng hình"): là hình thức hoạt dụng thứ hai của động từ trong tiếng Nhật. Đây là hình thức dừng câu văn tạm thời (dấu 「、」) hoặc khi theo sau ngữ vĩ là các trợ động từ 「~ます」「~た」「~て」 đối với văn nói (hiện đại) hoặc 「き・けり・たり」 đối với văn viết (cổ văn).

    3. Shūshikei (終止形, âm Hán Việt là "chung chỉ hình"): là hình thức hoạt dụng thứ ba của động từ trong tiếng Nhật. Đúng như tên gọi của nó, đây là hình thức chấm dứt câu văn (theo sau là dấu 「。」) hoặc khi theo sau ngữ căn là 「と」. Chẳng hạn:

    Mã:
    彼は来ると思います。Trong này động từ "kuru" ở hình thái Shūshikei
    Hình thái Shūshikei của động từ còn được gọi là dạng từ điển của động từ (hay gọi nôm na là "động từ nguyên mẫu") vì được dùng để liệt kê mục tra cứu trong từ điển.

    4. Rentaikei (連体形, Hán Việt đọc là "liên thể hình"): là hình thức hoạt dụng thứ tư của động từ trong tiếng Nhật. Đây là hình thái của động từ khi đi liền với thể ngôn (体言, taigen, cụ thể là danh từ và đại danh từ) và được dùng như tu sức ngữ (bổ ngữ??). Bản thân từ "Rentai" mang ý nghĩa là giải thích, tức là nó làm rõ ý nghĩa của thể ngôn (danh từ) đi liền sau nó. Chẳng hạn:

    Mã:
    Trong câu 「高速道路で走る車」 thì động từ 走る giải thích cho danh từ 車 phía sau. Nó làm rõ ý nghĩa: xe như thế nào? Xe chạy trên đường cao tốc. Động từ "hashiru" trong trường hợp này ở dạng Rentaikei.
    
    Động từ ở Rentaikei khi đi liền sau nó là các hệ trợ từ 「ぞ・なむ・や・か」 để kết thúc câu văn đối với văn ngữ (cổ văn) hoặc đi sau nó là trợ từ 「か・ぞ」, 「とき・こと(体言)」「のに」 「ので」 đối với khẩu ngữ (văn đương đại).

    5. Kateikei (仮定形, Hán Việt đọc là "giả định hình"): là hình thức hoạt dụng thứ năm của động từ trong tiếng Nhật đối với khẩu ngữ. Trong văn ngữ, hình thức này được gọi là Izenkei (已然形). Hình thức này kết hợp với trợ từ ば để đặt ra tình huống giả định, tiếng Việt dịch nôm na là "nếu".

    Mã:
    Trong 「行けば」, 「書けば」 thì 「行け」 và 「書け」 là hình thức Kateikei của động từ.
    6. Meireikei (命令形, Hán Việt đọc là "mệnh lệnh hình"):là hình thức hoạt dụng thứ năm của động từ trong tiếng Nhật. Hình thức này cũng kết thúc câu bằng dấu 「。」 như đối với Shūshikei. Tuy nhiên có sự khác biệt mà chúng ta đều biết.

    「読む」 và 「読め」 thì cái nào là Shūshikei, cái nào là Meireikei thì hẳn bạn đã có câu trả lời.


    Trên đây là phần giới thiệu qua 6 cách hoạt dụng của động từ trong tiếng Nhật. Nếu chỉ học tiếng Nhật hiện đại thì bạn không cần phải nhớ tên từng cách hoạt dụng này, nhưng để thuận tiện hơn cho việc học cổ văn thì bạn nên ghi nhớ chúng.

    Trong bài tiếp theo sẽ giới thiệu về các chủng loại động từ trong tiếng Nhật.
  10. NhuThiDuyen

    NhuThiDuyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/03/2010
    Bài viết:
    100
    Đã được thích:
    0
    Khái yếu về chủng loại hoạt dụng của động từ

    Trong phần trước ta đã biết động từ trong tiếng Nhật hiện đại và cổ văn đều có chung 6 (sáu) cách hoạt dụng là Mizenkei, Ren-yōkei, Shūshike, Rentaikei, Izenkei và Meireikei. Tất cả các động từ đều có sáu cách biến đổi này, tuy nhiên quỹ đạo biến đổi của chúng khác nhau phụ thuộc vào chủng loại động từ. Về chủng loại hoạt dụng của động từ thì có thể nói đây là một trong những phần phức tạp nhất của tiếng Nhật hiện đại nói chung và cổ văn nói riêng.



    Trong khẩu ngữ (tiếng hiện đại), động từ có năm chủng loại hoạt dụng là:

    1. Động từ hoạt dụng 5 đoạn (五段活用, godan katsuyō)
    2. Động từ hoạt dụng một đoạn trên (上一段活用, kami ichidan katsuyō)
    3. Động từ hoạt dụng một đoạn dưới (下一段活用, shimo ichidan katsuyō)
    4. Động từ bất quy tắt cột "ka" (カ行変格活用, kagyō henkaku katsuyō)
    5. Động từ bất quy tắt cột "sa" (サ行変格活用, sagyō henkaku katsuyō).

    Trong văn ngữ (tiếng Nhật cổ), động từ có chín chủng loại hoạt dụng là:

    1. Động từ hoạt dụng 4 đoạn (四段活用, yondan katsuyō)
    2. Động từ hoạt dụng một đoạn trên (上一段活用, kami ichidan katsuyō)
    3. Động từ hoạt dụng hai đoạn trên (上二段活用, kami nidan katsuyō)
    4. Động từ hoạt dụng một đoạn dưới (下一段活用, shimo ichidan katsuyō)
    5. Động từ hoạt dụng hai đoạn dưới (下二段活用, shimo nidan katsuyō)
    6. Động từ bất quy tắt cột "ka" (カ行変格活用, kagyō henkaku katsuyō)
    7. Động từ bất quy tắt cột "sa" (サ行変格活用, sagyō henkaku katsuyō)
    8. Động từ bất quy tắt cột "ra" (ラ行変格活用, ragyō henkaku katsuyō)
    9. Động từ bất quy tắt cột "na" (ナ行変格活用, nagyō henkaku katsuyō)


    Như vậy có thể thấy cách hoạt dụng của động từ trong cổ văn phức tạp hơn động từ trong tiếng Nhật hiện đại. Từng loại động từ này sẽ được lần lượt giới thiệu ở phần sau, nhưng trước hết, để hiểu thế nào là "đoạn" (hàng) và "cột" thì nên xem qua bảng 50 âm trong tiếng Nhật.

    [​IMG]

    Ngày nay, để thuận tiện hơn trong việc giao lưu văn hóa, truyền dạy cho người ngoại quốc, một phần lớn văn bản tiếng Nhật được viết theo chiều ngang, từ trái sang phải nhưng lối viết truyền thống là từ trên xuống, từ phải sang trái như bảng trên đây. Khái niệm "đoạn" và "cột" nói đến trong bài dựa trên nguyên tắc viết từ phải sang trái như bảng trên.

    Trong các sách ngữ pháp tiếng Nhật hiện đại (cho người ngoại quốc), người ta thường phân nhóm các loại động từ thành nhóm 1, nhóm 2 với một số quy tắc nhưng ở đây tôi giữ nguyên cách phân chia như trong các sách ngữ pháp cổ.

    Năm loại động từ hoạt dụng trong khẩu ngữ

    1. Động từ hoạt dụng 5 đoạn (五段活用, godan katsuyō): nói nôm na, đây là loại động từ có ngữ căn biến đổi theo đoạn "a" trong bảng 50 âm (あ・か・さ・た・な・は・ま・ や・ら・わ). Để biết động từ có thuộc loại này không, chỉ cần thêm ない vào sau động từ, nếu ngữ căn biến đổi theo đoạn "a" (わ・か・さ・た・な・は・ま・ら) thì động từ đó thuộc 5 đoạn. Chẳng hạn:

    2. Động từ hoạt dụng một đoạn trên (上一段活用, kami ichidan katsuyō): nói nôm na, đây là loại động từ có ngữ căn biến đổi theo đoạn "i" trong bảng 50 âm. Để biết động từ có thuộc loại này không, chỉ cần thêm ない vào sau động từ, nếu ngữ căn biến đổi theo đoạn "i" (い・き・し・ち・に・ひ・み・り) thì động từ đó thuộc 5 đoạn. Chẳng hạn:

    3. Động từ hoạt dụng một đoạn dưới (下一段活用, shimo ichidan katsuyō): nói nôm na, đây là loại động từ có ngữ căn biến đổi theo đoạn "e" trong bảng 50 âm. Để biết động từ có thuộc loại này không, chỉ cần thêm ない vào sau động từ, nếu ngữ căn biến đổi theo đoạn "e" (え・け・せ・て・ね・へ・め・れ) thì động từ đó thuộc 5 đoạn. Chẳng hạn:

    *Lưu ý: vì sao gọi là động từ một đoạn trên và một đoạn dưới? Lý do rất đơn giản, hai loại động từ này chỉ biến đổi theo một đoạn (i hoặc e) và trong bảng 50 âm, i đứng trước e nên động từ biến đổi theo đoạn i gọi là động từ một đoạn trên, cái còn lại là động từ một đoạn dưới.

    4. Động từ bất quy tắt cột "ka" (カ行変格活用, kagyō henkaku katsuyō): động từ bất quy tắc này chỉ gồm 来る. Các quy tắc biến đổi của nó cần phải thuộc nằm lòng. Ở đây sẽ không nhắc đến cách biến đổi của nó vì giả định bạn đọc đã quá rành rồi.

    5. Động từ bất quy tắt cột "sa" (サ行変格活用, sagyō henkaku katsuyō): động từ bất quy tắc này chỉ gồm する(~する). Các quy tắc biến đổi của nó cần phải thuộc nằm lòng. Ở đây sẽ không nhắc đến cách biến đổi của nó vì giả định bạn đọc đã quá rành rồi.

    Trong bài tiếp theo sẽ giới thiệu qua 9 loại động từ hoạt dụng trong văn ngữ.

Chia sẻ trang này