1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Coldest Winter - Mùa đông lạnh nhất - David Halberstam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi TieuNgocLang, 03/04/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Cái trạng thái phởn phơ rất nguy hiểm đó lan khắp các cấp cao nhất của tập đoàn quân 8, và không ai phản chiếu điều này nhiều hơn MacArthur. Ông, viên sỹ quan giàu kinh nghiệm nhất trong quân đội Hoa Kỳ, tràn đầy niềm tin vào chặng đường phía trước, cũng như những ai dưới quyền, kể cả đa số các quân nhân cao cấp trong các quân đoàn, sư đoàn. Giữ vị trí càng cao trong các sở chỉ huy, đặc biệt là ở Tokyo thì càng có cảm giác mạnh mẽ hơn về việc chiến tranh đang sắp kết thúc, công việc duy nhất còn lại đơn thuần chỉ là vài cuộc càn quét tảo thanh. Có nhiều dấu hiệu cho thấy điều cả tin ấy. Ngày 22 tháng Mười, ba hôm trước ngày bắt được người tù binh Trung Quốc đầu tiên, trung tướng Walton Walker, tư lệnh tập đoàn quân 8, xin lệnh của MacArthur để chuyển hướng tất cả những chuyến tầu chở đạn dược từ Triều Tiên sang Nhật Bản. MacArthur đồng ý và còn ra lệnh cho 6 chiếc tàu chở đạn đại bác 105 ly, 155 ly chuyển hướng đến Hawaii. Một tập đoàn quân dùng rất nhiều đạn và luôn bị thiếu trong bốn tháng trước giờ cảm thấy quá dư.
    Cũng trong tập đoàn quân 8, thiếu tướng Laurence (Dutch) Keiser, sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh số 2 danh tiếng, cho triệu tập tất cả các sỹ quan tham dự một buổi họp đặc biệt trong ngày 25 tháng Mười. Trung úy Ralph Hockley, một sỹ quan quan trắc trẻ thuộc tiểu đoàn dã pháo 37, nhớ rất rõ những lời nói trong ngày ấy. Sư đoàn 2, vì đã trải qua hầu hết những trận đánh dữ dội nhất, nên sẽ được rời khỏi Triều Tiên, Keiser nói. Ông đang trong một tâm trạng tuyệt vời ?oChúng ta sẽ về nhà, và chúng ta sẽ sớm về nhà ?" trước Giáng sinh?, ông nói với các sỹ quan của mình. ?oChúng ta đã có lệnh?. Một trong số các sỹ quan hỏi họ sẽ chuyển đi đâu. Keiser trả lời rằng ông chưa thể nói cho họ biết, nhưng đó sẽ là một nơi họ sẽ thích. Thế là sự đoán mò bắt đầu: Tokyo, Hawaii, cũng có thể là Hoa Kỳ và cả vài điểm ở Châu Âu.
    Quân trung đoàn 8 thuộc sư 1 kỵ binh đến được Unsan chẳng mấy khó khăn. Trung sỹ Herbert (Pappy) Miller nhận được tin rằng họ phải rời Bình Nhưỡng đến Unsan là để làm vững tinh thần quân Nam Hàn. Miller là trung sỹ trợ tá trung đội thuộc Đại đội Love, tiểu đoàn 3, trung đoàn 8 kỵ binh. Anh thích thêm vài ngày ở Bình Nhưỡng, nhưng có lệnh và đó là công việc họ phải làm, bịt lỗ. Anh không bao giờ hiểu nổi tại sao có những kẻ ngốc nghĩ được rằng quân Nam Hàn có thể đi tiên phong tiến lên phía bắc.  Miller không hề lo sợ về việc quân Trung Quốc sẽ đến. Cái làm anh lo là cái lạnh, bởi họ vẫn còn đang mặc quân phục mùa hè. Trở lại lúc ở Bình Nhưỡng, họ được bảo rằng quân phục mùa đông đang đến, đã chất lên xe và sẽ đến trong nay mai. Họ nghe câu đó trong vài ngày, nhưng rồi chẳng có quân phục mùa đông nào đến cả. Trung đoàn của Miller đã tham chiến khá lâu, nên quân phục xanh của tháng Bảy, tháng Tám đã mòn vẹt cả và được thay bằng đồ của xanh của tháng Mười. Anh và người bạn thân Richard Hettinger, đến từ Joplin, Missouri, một cựu binh Thế chiến II khác, cùng hứa sẽ để mắt đến nhau. Lúc bấy giờ có rất nhiều cuộc nói chuyện về việc trở về nhà lúc Giáng sinh, nhưng Miller có góc nhìn có phần thành kiến hơn, anh ta bảo khi nào đến được tới nhà thì hẵng nói là về nhà.
  2. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Pappy Miller là dân một thị trấn nhỏ Pulaski, New York. Anh tòng sự ở sư đoàn 42 trong thế chiến II, sau trở về Pulaski tìm sống bằng một công việc kha khá, nhưng rồi lại quay lại quân ngũ vào năm 1947. Anh thuộc trung đoàn 7, sư đoàn bộ binh số 3, rồi đơn vị này được ghép vào thành sư đoàn kị binh số 1, lúc điều đến Triều Tiên vào tháng 7 năm 1950 anh chỉ còn 6 tháng trong số ba năm tòng quân.  Trong Thế Chiến II, anh nghĩ mọi điều luôn luôn đúng, còn ở Triều Tiên, thì mẹ kiếp gần như mọi thứ đều sai lầm. Anh cùng đại đội của mình đến quốc gia này trong một buổi sáng giữa tháng 7, và vội vã đến chiến tuyến gần khu làng chiến lược Taejon, rồi được ném vào tiền tuyến ngay trong ngày đầu. Kể từ đó, anh trải qua mọi điều, bởi vậy nên lính của anh gọi anh là Pappy dù anh mới chỉ 24 tuổi.
    Có rất nhiều người làm ra vẻ hiên ngang trên đường đến tuyến Taejon ở ngày đầu tiên, các tay lính trẻ chỉ biết chiến tranh qua những bộ phim chiến tranh khoát lác rằng họ sẽ đá vào mông bọn Triều Tiên. Miller chỉ im lặng khi họ khoe khoang: cảm nhận sẽ tốt hơn sau trận đánh hơn là biết trước khi nó bắt đầu. Nhưng không còn lúc nào để bảo họ rằng ?" có nhiều thứ phải tự học. Trận đầu thật tệ hại; họ chuẩn bị không tốt còn quân Bắc Triều Tiên thì rất kinh nghiệm, hiệu quả. Ngày hôm sau, trung đội chỉ còn 39 người từ con số 160 ?oChúng tôi gần như bị hủy diệt ngay trong đêm đầu tiên đó? Miller nói. Sau lần ấy chẳng còn mấy câu chuyện nói về việc đá đít bọn Triều Tiên.
    Không phải những cậu trai ấy chiến đấu tệ. Chẳng qua là họ chưa sẵn sàng, chưa đúng lúc và quân Bắc Triều Tiên quá đông. Bất kể bạn chiến đấu tốt thế nào, thì luôn luôn có người tốt hơn. Luôn luôn. Họ có thể lẩn ra phía sau bạn, cắt tuyến rút và rồi tấn công vào sườn. Họ rất xuất sắc như thế, Miller nghĩ. Đợt thứ nhất và thứ hai tiến lên với súng trường, rồi ngay phía sau là những người lính khác, tay không, sẵn sàng nhặt vũ khí của những ai ngã xuống và tiếp tục xông lên. Chống lại một quân đội đông đảo như thế, ai, anh nghĩ, cũng cần vũ khí tự động. Nhưng trang bị quân Mỹ thì quá tệ. Với bộ binh cơ bản là đồ cũ. Ở trại huấn luyện  Fort Devens, họ được dạy bằng súng trường cũ tệ, bảo quản kém, chẳng có giá trị, điều này dường như bộc lộ cho thấy cái cách quốc gia nghĩ về quân đội thời bình của nó.
    Khi họ đến Triều Tiên, không bao giờ đạn được cung cấp đủ. Miller nhớ lại một trận chiến cay đắng lúc đầu cuộc chiến, khi ấy mọi người phải tự mang theo một hộp đạn rời. Họ phải tự lắp vào băng. Anh tự hỏi không biết cái kiểu quân đội gì mà lại đưa đạn rời cho một khối lượng lớn bộ binh, sẽ đi đến kết cục thế nào. Đó là giai đoạn hết sức nghiệp dư, anh nghĩ. Quân Bắc Triều có những chiếc xe tăng tốt, loại A-34 của Nga, mà những khẩu bazooka khá cũ kiểu thế chiến II của quân Mỹ không thể xuyên thủng được. Trong Thế chiến, bạn luôn biết được mục tiêu của bạn ở đâu và ai đang chiến đấu bên phải bên trái mình. Còn ở Triều Tiên, thì luôn phải chiến đầu trong trạng thái mờ và không bao giờ chắc được bên sườn mình có ổn không, bởi quân Nam Hàn ở đó có như không.
    Ngày họ đến Unsan, Miller làm một chuyến tuần tra chừng năm dặm lên phía bắc so với căn cứ, họ bắt gặp một nông dân già, ông báo cho biết rằng có hàng nghìn lính Trung Quốc trong khu vực, đa số đến bằng ngựa. Sự mộc mạc và chắc chắn của ông lão làm Miller gần như tin rằng ông đã nói thật. Nên anh đưa ông lão cùng về sở chỉ huy. Nhưng không ai trong sở chỉ huy tiểu đoàn quan tâm. Quân Trung Quốc hả? Hàng ngàn, hàng ngàn quân Trung Quốc hả? Chẳng ai thấy một người Trung Quốc nào cả? Cưỡi ngựa hả? Thật ngớ ngẩn. Nên chẳng có gì cả. Miller nghĩ, ổn thôi, họ là những chuyên gia tình báo. Họ phải biết.
  3. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Trong trung đoàn 8, một hạ sỹ trẻ tên Lester Urban thuộc đại đội Item, tiểu đoàn 3, là một trong những người đầu tiên cảm nhận được mối nguy. Anh là liên lạc viên phái xuống ban chỉ huy Đại đội, điều này có nghĩa là anh ở quanh quẩn sở chỉ huy tiểu đoàn nhiều và nghe ngóng những gì các sỹ quan nói. Urban mới 17 tuổi, chừng 100 pounds, quá nhỏ con để được vào đội bóng đá trường Trung học của mình tại một thị trấn nhỏ tên Delbarton, West Virginia. Biệt danh của anh trong lính Kỵ là Đậu phộng (peanut), nhưng anh dai sức và nhanh nhẹn, và cũng vì vậy nên được chọn làm liên lạc. Bởi tình trạng đáng tiếc của các thiết bị liên lạc vô tuyến và hữu tuyến của quân Mỹ ở Triều Tiên ?" chúng chẳng mấy khi hoạt động hữu hiệu ?" nên công việc của anh ta là truyền thông điệp bằng miệng hay viết trên giấy từ tiểu đoàn xuống đại đội. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm. Urban tự hào với sự thật rằng anh biết làm điều đó như thế nào và sống sót được. Nếu anh phải đi bốn, năm chuyến đến cùng một địa điểm trong ngày, thì anh luôn thay đổi lộ trình và không bao giờ cẩu thả.
    Urban có cảm giác lo lắng, bởi không có đơn vị Mỹ nào ở hai bên sườn họ, do vậy họ rất sơ hở. Nhưng họ đang tiến nhanh và không có kháng cự mấy trong những tuần qua nên anh cũng không quá lo lắng, ít ra là đến khi họ đến Unsan. Tại Unsan, trung đoàn nằm thò ra, theo cách nói của anh, không giống cái gì nhiều hơn là một ngón tay bị đau, và nếu bạn nghĩ về điều đó, thì bạn hiểu rằng ba tiểu đoàn của họ chọn ở vị trí kém trong một không gian bất tiện. Khoảng trống giữa họ, trông chút xíu trên bản đồ, lại rộng đáng ngạc nhiên nếu bạn phải chạy từ đơn vị này sang đơn vị khác, như anh ta đã làm.
    Urban ở cạnh sở chỉ huy tiểu đoàn trong ngày 31 tháng Mười, lúc trung tá Harold (Johnny) Johnson, tuần trước còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3, trung đoàn 8 ?" 3/8- vừa được thăng lên chức trung đoàn trưởng trung đoàn kỵ binh 5 (cũng thuộc sư kỵ binh 1), đến kiểm tra đơn vị cũ của mình. Một trong những điều sau cùng mà Johnson đã làm trước khi họ rời Bình Nhưỡng là tổ chức một buổi lễ tưởng niệm cho những ai thuộc tiểu đoàn 3 đã hi sinh từ lúc cuộc chiến bắt đầu ?" chừng bốn trăm người cả thảy. Ông tham gia buổi lễ cùng những lính có mặt ngay từ lúc bắt đầu, ?omột nhóm nhỏ đáng thương những người còn lại? như ông nói.
    Johnny Johnson còn hơn cả sự ca tụng, ông được hầu hết lính trong đơn vị cũ yêu mến. Ông đã ở cùng với họ từ ngày họ đến đất nước này, và họ cảm thấy ông luôn ra những quyết định đúng đắn trong chiến đấu. Ông có cảm giác khác thường về lòng trung thành của binh lính dưới quyền, một kiểu mà lính trơn chú ý và đánh giá cao khi xếp loại sỹ quan ?" và họ luôn xếp loại các sỹ quan, bởi cuộc sống của họ phụ thuộc vào điều đó. Họ biết Johnson đã từ chối cơ hội làm trung đoàn trưởng ngay từ lúc đầu cuộc chiến để ở lại với tiểu đoàn khi nó mới chân ướt chân ráo bước vào chiến đấu, bởi ông cảm thấy ràng buộc với binh sỹ mà ông đưa đến.
    Ông là một người từng trải qua địa ngục trần gian. Bị bắt bởi quân Nhật ở Bataan lúc bắt đầu Thế Chiến II, ông xoay sở để sống sót qua Cuộc hành quân Tử thần Bataan và hơn ba năm sau đó với tư cách tù binh. Nói chung, là tù binh chiến tranh không giúp ích gì cho binh nghiệp một sỹ quan ?" điều này đặc biệt đúng ở Triều Tiên, ở đây việc đối xử của những người +S với tù binh Mỹ tàn bạo một cách bất bình thường và, bởi vì bị tẩy não nên nhiều người bị tổn hại ?" nhưng rốt cuộc Johnson cũng kết thúc sự nghiệp ở vị trí tham mưu trưởng Lục quân. ?oÔng ấy là số một? Lester Urban nói trong vài năm sau ?o vài người sinh ra để làm lãnh đạo. Tôi nghĩ ông luôn suy tính về những gì tốt đẹp cho chúng tôi. Chứ không phải cho ông?.
    [​IMG]
    Ảnh Harold Keith Jonhson, lúc này đang là đại tướng - Tham mưu trưởng lục quân Hoa Kỳ (1964-1968). Về hưu 1968, chết năm 1983
     
  4. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Kinh nghiệm ở Bataan đã làm Johnson thiếu tin tưởng vào sự khôn ngoan thông thường, và ông biết hậu quả của chủ nghĩa lạc quan thái quá hơn hầu hết các sỹ quan khác. Lúc đó, trung đoàn kỵ binh 5 của ông giữ vị trí là lực lượng dự bị đóng ngay sau đơn vị cũ của mình chừng vài dặm về hướng nam, nhưng ông lo lắng, bởi nghe thấy nhiều lời nói về một lực lượng địch lớn di chuyển trong khu vực, và có thể cắt đường, cô lập trung đoàn 8 với phần còn lại của sư đoàn. Nên ông tự đi lên phía bắc để kiểm tra tình huống. Trên đường đi, sự tĩnh mịch đã làm tướng Paik lo ngại - mà thật, không có gì chuyển động nào cả - cũng làm Johnson bồn chồn. Như sau này ông nói, những kiểu như là có gai đâm vào sau cổ. Rốt cuộc ông cũng đến tiểu đoàn cũ của mình, ông không thích những gì đang thấy. Người thay thế ông, Robert Ormond, khá mới mẻ với công việc này, nên trong mắt Johnson, đã phân bố tiểu đoàn không tốt. Hầu hết quân đóng trên một khu vực bằng phẳng và không đào hầm hào đúng đắn.
    Nhìn cảnh hai viên sỹ quan gặp nhau, Urban cảm thấy Johnson đau khổ. Như Urban nhận biết, Johnson không phải là kiểu người chèn ép sỹ quan khác, nhưng những gì ông nói với Ormond trông có vẻ cứng rắn một cách đáng ngạc nhiên: ?oAnh phải đưa lính ra khỏi thung lũng và chuyển lên vùng cao ngay! Ở đây họ quá dễ bị tấn công! Anh sẽ không phòng thủ nổi một khi bị đánh đâu!? (vài năm sau Urban kể lại ?oTôi nghĩ ông ta sẽ đập Ormond ngay tại chỗ?). Johnson cho rằng Ormond nghe theo những gì ông nói, nhưng rồi ông kinh hoảng khi sau này phát hiện ra rằng lời khuyên của ông bị bỏ ngoài tai. Không chỉ tiểu đoàn 3 chọn vị trí đóng quân tồi. Sau khi bi kịch đã kết thúc, thì nhiều sỹ quan cao cấp thú nhận rằng cách bố phòng của trung đoàn 8 rất tồi. Binh lính được sắp xếp như thể họ không có kẻ thù nào để lo.
    Trung úy Hewlett (Reb) Rainer tham gia trung đoàn ngay sau trận chiến Unsan, và một điều anh quyết định phải làm là ráp nối lại trong đầu những gì đã xảy ra. Anh sốc trước cách chọn vị trí đóng quân của trung đoàn: ?oĐiều đầu tiên là các tiểu đoàn không thể hỗ trợ cho nhau. Họ không liên kết được với nhau. Vấn đề thứ hai là bạn có thể đưa cả một thậm chí hai sư đoàn lính Trung Quốc xuyên qua họ trong đêm mà chẳng ai có thể hay biết. Và đó chính là cách quân địch làm ?" họ đến, đi dọc theo hai cánh, rồi vây lại, ép chặt quân ta.? Rainer nói ?oTôi biết là trung đoàn chẳng nhận được thông tin nào từ thượng cấp về việc có quân Trung Quốc, nhưng, họ đang ở rất xa về phía bắc; đang trong đất địch; không hiểu nổi tại sao lại thiết lập vị trí như thể đang ở Hoa Kỳ trong một kiểu đánh trận trò chơi. Nói là bất cẩn ?" thì cũng vẫn còn là nhẹ nhàng?.
    Trung sỹ Bill Richardson, tiểu đội trưởng tiểu đội súng không giật thuộc trung đội hỏa lực, đại đội Love, tiểu đoàn 3, nhớ lại khá tốt ngày 31 tháng Mười ấy. Tiểu đội anh ở phía cực nam nơi đóng quân của tiểu đoàn 3, cạnh một nơi gọi là Cung Đầu Lạc Đà, là một phần của đơn vị bảo vệ cây cầu nhỏ bắc qua sông Nammyon. Ngày hôm trước, cuối cùng họ cũng nhận được lô hàng mà cánh hậu cần tuyên bố là quần áo mùa đông: vài chiếc áo khoát dã chiến, vớ sạch và không còn gì hơn. Anh bảo một lính dưới quyền phát áo khoát tốt nhất có thể và bỏ qua các trung sỹ bởi không có đủ cho tất cả. Vài năm sau, anh nổi điên khi đọc được rằng quân trong đại đội anh ngủ quên trong các túi ngủ. Cái cách mà họ bị tấn công đúng là tệ thật, nhưng họ khẳng định là chẳng có cái tiết mục túi ngủ ********, bởi họ không hề có chiếc nào. Họ phải tự tạo túi ngủ bằng cách quấn những chiếc chăn lại và cùng nhau rúc vào.
  5. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Ngày ấy, lúc Richardson thi hành nhiệm vụ chỗ chiếc cầu thì trung tá Johnson dừng chân lại đó, khi ông đang trên đường trở về từ sở chỉ huy tiểu đoàn (3/8). Johnson muốn nói chuyện, nhưng ông cũng có phần cẩn thận. Ông nói ?oNày, chúng tôi có tin về vài điểm chốt nhỏ trong vùng. Chúng tôi nghĩ đó là tàn dư của quân Bắc Triều Tiên, họ có thể đi dọc theo bờ sông, hướng thẳng tới chỗ cậu rồi ngoặc lên phía bắc?. Richardson không lo lắng chút nào về tin đó. Anh nói với Johnson (?onhững lời nổi tiếng sau cùng của tôi?) ?oThưa trung tá, nếu chúng đến theo hướng bờ sông, chúng sẽ lãnh đủ?. Rồi Johnson cảnh báo anh nên cẩn thận, họ bắt tay nhau. Johnson chúc anh may mắn và Richardson tự nghĩ ?" bởi Johnson đi xe qua một vùng quê gần như trơ trọi ?" nên thưa trung tá, chính ngài mới là người cần phải có may mắn.
    Họ đã biết nhau từ lúc huấn luyện ở Fort Devens bang Massachusett. Richardson phục vụ ở Châu Âu vào giai đoạn sau chót của Thế Chiến II, đã quá muộn để biết mùi chiến trận mà chỉ thấy được sự tàn phá của nó. Nhưng ở Triều Tiên, anh thực thụ trải qua những trận đánh vượt quá những điều lệ, những trận đánh khó khăn và nguy hiểm mà bất kỳ đơn vị Mỹ nào cũng phải kinh qua. Anh lớn lên ở Philendaphia, bố mẹ anh làm trong lĩnh vực nghệ thuật. Còn lâu anh mới là một học sinh siêng năng. Học hết lớp chín (???), anh đăng lính và nhận ra rằng mình thích binh nghiệp. Anh được huấn luyện bởi những người chuyên nghiệp, họ đã trải qua những điều tệ hại nhất trong thế chiến II, vượt qua được lằn ranh bé xíu để giữ được mạng sống. Đến đầu mùa xuân 1950, Richardson đã ở trong quân ngũ được ba kỳ quân dịch rồi và đó là giai đoạn giảm quân hậu-thế-chiến, nên quân đội đang muốn đẩy anh xuất ngũ. Nhưng rồi quân Bắc Triều nam tiến, nên quân đội quyết định là họ giữ anh lại.
    Thay vì được xuất ngũ ở Fort Devens vào cuối tháng Sáu, anh lại trở thành một thành viên của tiểu đoàn 3/8. Richardson nhớ lại, ngay sau trận xâm lăng của Bắc Triều Tiên, trong ngày 26 hoặc 27 tháng Sáu, Johnny Johnson tập trung cả tiểu đoàn đến nhà chiếu phim, lúc đó đơn vị rất ít người chỉ đứng đầy hai hoặc ba hàng. Họ được xem một bộ phim tuyên truyền cho lính bộ binh, với kết thúc là nhiều người lính được thưởng Ngôi Sao Bạc hoặc Ngôi Sao Đồng. Johnson nói với họ ?oAnh em, chỉ trong vài tuần nữa thôi, nhiều người ở đây sẽ không còn  đeo được những cái thứ đó nữa đâu?. Lúc ấy Richardson nghĩ ông ta thật điên. Trong vài ngày sau lính bổ sung đến với đủ sắc quân, MP (quân cảnh), hậu cần, anh nuôi, và cả bộ binh, đủ để lèn chặt rạp phim. Rồi họ được đưa lên tàu thủy.
    Sau này, sau khi bị quân Trung Quốc đánh, Richardson tin rằng Johnson đã cố cảnh báo anh lưu ý đến quân Trung Quốc trong vùng và hướng tiến công mở rộng của chúng tới trung đoàn 8. Có lẽ đó là lối cảnh báo tốt nhất có thể đưa ra vào thời điểm mà việc thốt ra một từ đầy chất ma thuật ?oquân Trung Quốc? với một tay NCO có thể làm khởi động tiến trình hoảng loạn. Nếu Johnson vẫn còn là tiểu đoàn trưởng của họ, Richardson đoan chắc, là ông sẽ củng cố vị trí đóng quân, chuyển đến vùng đất cao hơn, và đảm bảo hỏa lực của họ có thể hỗ trợ qua lại, tập trung hơn. Ormond có thể sẽ là một sỹ quan tốt vào một ngày nào đó, Richardson nghĩ, nhưng không có thời gian lẫn không gian cho lần ra mắt chiến đấu đầu tiên.
  6. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Thiếu tá Filmore McAbee, sỹ quan S-3, sỹ quan tác chiến, của tiểu đoàn 3, cũng như Johnson, thấy lo lắng về việc trung đoàn bị phân tán, nhưng ông sẽ không có cơ hội để thảo luận về việc đó với Johnson trong một thời gian dài, bởi ông mất tới hai năm rưỡi trong trại tù binh. McAbee là một sỹ quan có kinh nghiệm từ Thế Chiến II, và là một đại đội trưởng trong sư 1 kỵ binh lúc bắt đầu đến đất nước này. Ông được xem là một sỹ quan chỉ huy tuyệt vời, nhưng ở thời điểm quân Trung Quốc tấn công ông bị vô hiệu hóa. Cả Ormond và người phó của mình, thiếu tá Veale Moriarty, đều rất mới với nhiệm vụ chỉ huy, kinh nghiệm của họ, như McAbee có thể nói, chủ yếu là ở cương vị sỹ quan tham mưu cấp trung đoàn. Họ biết rõ nhau và cùng xa cách với McAbee, một sỹ quan tác chiến có kinh nghiệm hơn, làm anh cảm thấy đứng ngoài cuộc. ?oTôi là người lo lắng, nhưng cũng là người ngoài cuộc?, sau này ông nói. Ông cố cảnh báo Ormond về vị trí đóng quân tồi của tiểu đoàn, nhưng không ích gì. Ông không thích tâm trạng khi đó của đơn vị, và ông cũng đổ lỗi cho các sỹ quan cao cấp: nhiều người trở nên quá bất cẩn, quá tự mãn. Có quá nhiều cuộc nói chuyện về việc sẽ làm gì sau Triều Tiên. Mọi người đều nói về hai điểm dừng sau chót: sông Áp Lục và về nhà. Sau này, khi ông phát hiện ra có nhiều tù binh Trung Quốc bị bắt nhưng dù thế chẳng có đơn vị nào, cũng như đơn vị ông, được cảnh báo, ông cho rằng quyết định của thượng cấp là dấu diếm, nếu không nói là cấm, thông tin này là một trong những hành động đáng kinh ngạc nhất mà ông từng nghe ?" là một kiểu chối bỏ trách nhiệm quân sự. Sau khi ông nghiên cứu thêm được nhiều về chiến thuật quân sự Trung Quốc, ông giật mình vì trung đoàn ông, trải dài ra, đã lộ thành một mục tiêu đầy cám dỗ.
    Không ai trong số họ, kể cả Ormond, biết rằng trước khi quân Trung Quốc đánh, đã có tranh luận ở các cấp chỉ huy cao hơn. Trung đoàn trưởng trung đoàn 8 Kỵ binh, trung tá Hal Edson, muốn đưa quân mình quay lại. Đơn vị của ông phơi ra quá nhiều, ông tin vậy ?" và lúc đó đã có quá nhiều cảnh báo để lưu tâm. Ngày 1 tháng Mười một, khi thức giấc, ông thấy bầu trời dày đặc khói từ những đám cháy rừng. Edson và những người khác ngờ rằng là do quân địch đốt để che dấu việc chuyển quân khỏi không thám của Mỹ. Thiếu tướng Hap Gay, sư trưởng sư đoàn 1 Kỵ binh, người nhìn nhận những báo cáo về quân Trung Quốc trong vùng nghiêm túc hơn thượng cấp của ông, cũng bắt đầu lo ngại hơn theo từng giờ. Trong ngày đầu tiên của tháng Mười Một này, ông thiết lập trạm chỉ huy ở Yongsan-dong, phía nam Unsan. Nhiều lúc tướng Gay bị phiền nhiễu bởi việc sư đoàn ông bị xé lẻ ra, với những tiểu đoàn khác nhau được gửi đi đến các sư đoàn khác, tùy theo ý thích của những nhân vật trên quân đoàn, và không màng đến tính toàn vẹn của sư đoàn. Ông đặc biệt không thích việc trung đoàn 8 nằm thò ra hoàn toàn trống trải, phơi mình từ mọi phía cho kẻ thù.
    Sỹ quan tùy viên của ông, trung úy William West, cho rằng Gay đã âm ỉ bực tức toàn bộ cái cách quân đội đang điều hành cuộc chiến Triều Tiên. Gay là tham mưu trưởng của tướng Geogre Paton trong Thế Chiến II, ông tin rằng mình được dạy để làm thế nào cho đúng và không làm sai, nhưng còn ở Triều Tiên thì họ đã làm nhiều điều sai ngay từ đầu. Ông bị sốc bởi tình trạng tệ hại của quân đội lúc bắt đầu cuộc chiến, và cũng phiền lòng vì sai lầm ban đầu của MacArthur trong việc lượng giá khả năng của quân địch; ông này tin rằng có thể ?oxử? Bắc Triều được, như theo cách nói của ông là: ?ochấp một tay cột sau lưng?. Gay hình như cho rằng các thượng cấp ở Tokyo chẳng biết mấy về quân thù, về địa hình và đáng ngạc nhiên là không muốn biết về cả hai điều đó. ?oNhững tay ******** ấy chẳng bao giờ bước chân đến thực địa ?" họ đang sống trong một thế giới giấc mơ chết tiệt? ông nói với West như thế ngay sau khi rời sở chỉ huy của MacArthur. Tuy vậy, không điều gì làm ông nổi giận hơn việc những sỹ quan tài giỏi nhất dường như luôn bị lén lút chuyển về làm công tác tham mưu ở sở chỉ huy của MacArthur. Ông kinh hoàng nhận ra sở chỉ huy đó lớn hơn như thế nào khi so với những sở khác trong cuộc chiến trước đó. Ông càu nhàu rằng sở chỉ huy tập đoàn quân 3 vào năm 1945 chỉ có vài trăm sỹ quan để điều hành hàng nghìn quân binh trên chiến trường, còn giờ ở Tokyo với cuộc chiến này, thì hàng nghìn người tập trung ở sở chỉ huy để hỗ trợ cho vài trăm quân thực chiến. Có một sỹ quan mà công việc chính của ông này, hình như chỉ là bay định kỳ từ Tokyo đến chỗ của Gay để hỏi xem ông cần gì. Một hôm nào đó, Gay đưa ông ta một danh sách các sỹ quan từ Thế Chiến II để chuyển cho Tokyo rằng ông cần họ để chỉ huy các đơn vị. Khi viên sỹ quan ấy trở lại trong chuyến sau, Gay hỏi những tiểu đoàn trưởng kỳ vọng của ông đâu. ?oTướng MacArthur bảo rằng họ rất có ích nên không chuyển xuống được? viên sỹ quan trả lời.
    ?oChúa Jesus lòng lành, có việc chó gì có ích hơn việc những sỹ quan đã kinh qua chiến trận được chỉ huy các đơn vị Mỹ tham chiến?? Gay cằn nhằn.
  7. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Ông cũng phiền lòng với những cuộc nói chuyện về việc được về nhà lúc Giáng Sinh. ?oGiáng sinh nào ?" năm nay hay năm sau?? ông nói ?oCuộc nói chuyện thật ngớ ngẩn. Tất cả chỉ làm quân sỹ có hứng thú với việc được về nhà và họ sẽ bất cẩn?. Lúc này, lo sợ về khả năng rằng một trong các trung đoàn của mình có thể bị hợp vây, ông ráng đẩy nhanh việc rút các đơn vị ấy lui về và củng cố sư đoàn. Nhưng cấp trên của ông, tư lệnh quân đoàn 1 tướng Frank Milburn, không sẵn lòng cho việc đó. Quân đội không thích dùng từ ?orút lui? nếu không bị bắt buộc; cụm từ đúng là ?odi tản chiến thuật? ?" và Milburn không muốn thực hiện di tản chiến thuật, không muốn sau sáu tuần tiến vững vàng, và trên hết, vì nó không hợp lý với áp lực từ sở chỉ huy MacArthur muốn phải đến sông Áp Lục càng sớm càng tốt. Cả Gay và West biết, và càng thêm lo sợ hơn về việc có thể mất cả một trung đoàn vào tay quân địch mà Tokyo vốn vẫn khăng khăng là không tồn tại. Trong cuộc chiến này có một lằn ranh đúng-sai. Một bên là thực tế chiến trường và những mối hiểm nguy các đơn vị phải đối mặt, còn bên kia là thế giới ảo tưởng hiện hữu ở Tokyo mà ở đó tất cả những mệnh lệnh phởn phơ tỏa ra. Lằn ranh đó cũng thường rơi giữa cấp quân đoàn và cấp sư đoàn - quân đoàn thì chịu nhiệt từ tổng chỉ huy ở Tokyo, còn sư đoàn thì lo lắng bởi tình trạng sơ hở của các đơn vị ở cấp dưới. Có nhiều hơn một cơ hội đủ thời gian của rút trung đoàn 8 về, nhưng Milburn từ chối ra lệnh đó.
    Chiều ngày 1 tháng 11, tướng Hay Gap ở trạm chỉ huy cùng với thiếu tướng Charles Palmer tư lệnh pháo binh của ông, lúc đó vô tuyến điện báo từ một quan sát viên trên một chiếc phi cơ tuần thám L-5 làm họ lưu tâm: ?oĐây là dấu hiệu lạ lùng nhất mà tôi từng thấy. Có hai hàng bộ binh địch rất đông đang di chuyển về hướng đông nam theo lối gần làng Myongdang-dong và Yonghung-dong. Pháo của chúng ta rơi đúng hàng quân  nhưng chúng vẫn tiếp tục đi?. Đó là hai ngôi làng bé tý cách Unsan năm hoặc sáu dặm theo đường chim bay. Palmer ngay lập tức lệnh cho các đơn vị pháo binh trực thuộc bắt đầu bắn, còn Gap lo lắng gọi lên quân đoàn, một lần nữa xin phép được đưa trung đoàn 8 kỵ binh chuyển về phía nam Unsan vài dặm. Nhưng yêu cầu này một lần nữa bị từ chối.
    Thế là cơ hội sau cùng để cứu trung đoàn 8 kỵ binh và nhất là tiểu đoàn 3 của nó đã bị bỏ mất. Nói cách khác, thì trận chiến này đã kết thúc trước khi nó bắt đầu. Hai sư đoàn chính qui tinh nhuệ của +S Trung Hoa với những binh sỹ thiện chiến nhất, tấn công vào các đơn vị của một sư đoàn ?oanh cả? của Hoa Kỳ, nhưng sư đoàn này thiếu chuẩn bị và chọn vị trí kém cho một cuộc xung đột, đồng thời được chỉ huy bởi rất nhiều người tin rằng cuộc chiến Triều Tiên về cơ bản đã kết thúc.
    Các đơn vị thuộc trung đoàn 5 kỵ binh dưới quyền Johnny Johnson hành quân lên phía bắc hướng đến Unsan trong một nhiệm vụ giải cứu, nhưng nhanh chóng bị quân Trung Quốc cắt đường. Họ không chỉ không thể giúp trung đoàn 8 kỵ binh, mà còn phải tự tìm cách thoát khỏi một trận chiến dữ dội mà không bị tiêu diệt. Theo Roy Appleman, một nhà sử học đặc biệt cẩn trọng của chiến tranh Triều Tiên, thì lúc sẩm tối ngày 1 tháng Mười Một, trung đoàn 8 kỵ binh bị quân Trung quốc vây ba mặt. Ở mặt đông của trung đoàn, nếu như trung đoàn 15 của Nam Hàn ở lại tại chỗ và chiến đấu thì có thể sẽ được che chắn một phần.
  8. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Thời gian rồi tớ bận nên bỏ quên mất cuốn này, giờ rảnh bớt rồi, nên dịch tiếp hầu các bác. Sorry for late :-bd

    Trung úy Ben Boyd là một trung đội trưởng mới trong đại đội Baker, tiểu đoàn 1, trung đoàn 8 kỵ binh. Tiểu đoàn 1 – với đơn vị pháo binh, xe tăng phối thuộc, thực chất là một tiểu đoàn đặc nhiệm – bị phơi ra nguy hiểm nhất trong số ba tiểu đoàn của trung đoàn 8, họ đóng quân ở cách chừng 400 thước về phía bắc thị trấn Unsan. Tiểu đoàn trưởng của Boyd, Jack Millikin, Jr., là một sỹ quan chiến thuật - học ở West Point, Boyd nghĩ anh ta tốt và vững vàng. Như Boyd biết, tiểu đoàn của họ lên đó một mình – họ là đơn vị đầu tiên trong ba tiểu đoàn rời Bình Nhưỡng và anh không biết những bộ phận khác của trung đoàn có theo không. Ở buổi chiều đầu tiên, ngay sau khi đến, họ đã bố trí trận địa cối hướng vào các mục tiêu chung quanh, và có cả hướng dẫn phản pháo quân địch, nhưng hoạt động này khá nhẹ và mọi người cho rằng là nhằm vào những tay súng Bắc Triều Tiên thất thần. Tuy vậy, đêm đó, Boyd được đại đội trưởng gọi lên, anh này vừa được tiểu đoàn thông báo tình hình. Những gì Boyd nghe là: “Có hai mươi ngàn thợ giặt trong vùng”. Boyd hiểu ý nghĩa nó là gì – hai mươi ngàn quân Trung Quốc ở gần họ.

    Rồi họ nghe thấy tiếng nhạc, như tiếng kèn túi Á châu kỳ lạ. Vài sỹ quan trong một thoáng nghĩ rằng đó là một lữ đoàn quân Anh đến giúp họ. Nhưng đó không phải là kèn túi, mà là một âm thanh rất lạ, kỳ quái, có lẽ là tù và cùng sáo, loại âm thanh mà họ nhớ cho đến cuối cuộc đời. Đó là âm thanh để họ đi đến kết luận rằng quân Trung Quốc bắt đầu tham chiến, gửi tín hiệu bằng âm thanh cho các đơn vị cho biết đang làm gì; đồng thời thận trọng đưa nỗi sợ vào lòng đối phương. Boyd tin quân của anh đã chiếm lĩnh các vị trí tốt, dù họ không là một trung đội hoàn hảo như trong tưởng tượng của anh. Một nửa số lính trong trung đội là KATUSA – Lính Hàn Quốc bổ túc vào quân đội Mỹ (Korean Augmentation To US Army), các sỹ quan cho rằng những quân nhân Hàn quốc này, trình độ huấn luyện kém phối thuộc vào các đơn vị, sẽ không đáng tin cậy khi gặp trận đánh khó khăn. Họ hiện diện nhằm tăng cường cho các đơn vị Mỹ, làm chúng trông ổn hơn trên giấy tờ; nhưng không phải trên trận đánh. Đó là một trải nghiệm mà không ai thích, không một đại đội trưởng, một đơn vị Mỹ nào - từng chiến đấu bên cạnh người Hàn Quốc mà không thể giao tiếp được với họ - thích, mà tất nhiên bản thân lính KATUSA cũng vậy.
  9. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Đâu đó lúc 10h30 tối, quân Trung Quốc tấn công. Boyd nghĩ mọi thứ có thể sụp đổ. Các đơn vị Hoa Kỳ ở những vị trí quá mỏng đến nỗi quân Trung Quốc dường như phóng vèo qua tuyến phòng thủ yếu ớt của họ, vài người sau này đã nói vậy. Ngay cả một nơi được tổ chức tốt như sở chỉ huy tiểu đoàn cũng nhanh chóng bị tan rã. Vài người sống sót từ các trung đội khác nhau cố thiết lập một vành đai phòng thủ ứng biến ở những phút sau cùng, nhưng họ cũng nhanh chóng bị áp đảo. Thương binh nằm la liệt khắp nơi. Milikin đang xử lý cái cuộc hỗn loạn đang lớn nhanh này một cách tốt nhất có thể, Boyd nghĩ, anh ta đang cố lập một đoàn vận chuyển với chừng mười chiếc xe tải và đưa càng nhiều thương binh lên càng tốt. Lúc đó, Boyd chạy đến chỗ đại úy Emil Kapaun, một cha tuyên úy, ông đang chăm sóc cho một số thương binh. Boyd muốn phân cha đến một trong những chiếc xe tải, nhưng ông từ chối. Ông ở lại với những thương binh không thể tự di chuyển được. Họ sẽ bị bao vây, ông ta chắc chắn biết, nhưng ông sẽ làm tất cả những gì có thể để các thương binh có được vài sự bảo vệ giản dị.

    Tiểu đoàn có hai chiếc xe tăng, và khi đoàn xe vận tải khởi hành, Millikin lên chiếc xe tăng đi trước cùng chiếc xe còn lại chạy về hậu phương, trên nóc chiếc đó Boyd. Cách phía nam Unsan chừng một dặm, con đường chia ra, một nhánh đi theo hướng đông nam, còn nhánh kia là tây nam xuyên qua góc đóng quân của tiểu đoàn 3, băng trên chiếc cầu mà Bill Richardson và tiểu đội hỏa lực của anh đang bảo vệ. Millikin đưa đại mọi người theo con đường phía đông nam.<FONT size=3 face=[/IMG]Quân Trung Quốc đã bố trí một lực lượng đáng kể phục kích bên hai bên đường. Thật khó để xác định khoản cách cũng như thời điểm quân địch tiến đánh với lực lượng đó, nhưng Boyd cho rằng lúc ấy đoàn công voa của anh đã đi được chừng năm sáu trăm thước trước khi quân Trung Quốc khai hỏa. Hỏa lực của họ bị áp đảo, và đoàn vận tải, với nhiều thương binh, không có nhiều cơ hội đánh trả. Trong sự hỗn loạn đó – tất cả xe đều tắt đèn – anh lính lái tăng chở Boyd kinh hoảng và bắt đầu quay tháp pháo như điên. Chừng một tá lính hoặc hơn đang ngồi trên đó bị bật tung ra, còn Boyd nhận ra mình đang nằm sóng xoài trong một con mương. Sau này anh xác quyết rằng mình sống sót là nhờ ân huệ của Chúa.

    Anh nghe thấy tiếng quân Trung Quốc tiến đến. Anh chỉ có một cơ hội duy nhất là giả chết. Ngay sau đó, họ bắt đầu dộng vào người anh bằng báng súng và đá đá. May cho anh là không ai dùng lê. Cuối cùng, họ lục soát các túi của anh, lấy đồng hồ, nhẫn rồi bỏ đi. Anh nằm đợi một thời gian tưởng chừng như vô tận, ít ra cũng hằng giờ, sau đó bắt đầu bò đi, hoàn toàn mất phương hướng bởi chấn động và những vết thương khác. Khi được một quảng, anh nghe thấy tiếng đại bác gầm, rồi cho rằng đó là quân Mỹ, anh đi về hướng đó. Anh lê lết qua một con suối, có lẽ là suối Nammyon, và nhận ra chân trái mình đau dữ dội. Anh cho là mình bị bỏng nặng có lẽ do đạn phốt pho trắng của Trung Quốc.

    Boyd di chuyển thận trọng trong những ngày kế tiếp, vào ban đêm, dấu mình cẩn thận lúc ban ngày. Anh ra khỏi đó ít nhất là sau một tuần, có lẽ là chục ngày, cố đi đến được tuyến quân Mỹ, bất chấp cái đói kinh khủng và những cơn đau dai dẳng. Anh được một người nông dân Triều Tiên cứu giúp, cho ăn, rồi ra hiệu chỉ đường cho anh về phía quân Mỹ. Anh chắc là mình không thể làm được điều này mà không có sự giúp đỡ của người nông dân ấy. Đến ngày 15 tháng 11, sau chuyến đi vất vả gần hai tuần, Boyd gặp được một đơn vị Hoa Kỳ. Ngay lập anh được chuyển đến một loạt bệnh viện, các vết bỏng của anh khá nghiêm trọng. Chiến tranh Triều Tiên với anh, thế là kết thúc. Dẫu sao anh cũng là một người may mắn. Anh không biết có bao nhiêu người trong trung đội của mình chết, chỉ biết là đại đội trưởng đã hi sinh. Anh cũng không bao giờ thấy lại ai lần nữa.
  10. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Ở tuyến phòng thủ phía nam của trung đoàn 8, ngay trước lúc quân Trung Quốc tấn công, Bill Richardson thuộc đại đội Love vẫn đang gác chiếc cầu bê tông, một chiếc cầu nhỏ một nhịp chừng 90 thước bắc qua cái được gọi là con sông, nhưng thật ra không hơn gì một con lạch nhỏ khô cạn. Tiểu đội của anh đóng trên một khu đất bằng phía bắc cầu, và về mặt kỹ thuật là vị trí cực nam của trung đoàn. Sở chỉ huy tiểu đoàn cách đó chừng 500 thước về hướng bắc, và phần còn lại của đại đội Love thì cách 350 thước về phía tây. Khi nghe thấy những tiếng động từ một ngọn đồi ngay dưới hướng nam, Richardson hỏi người bạn Jim Walsh, một người lính nhiều kinh nghiệm như anh trong đội “Cậu có nghe thấy những gì tớ nghe không?”. Richardson biết có điều gì đó đang xảy ra ngoài kia, nhưng anh không thể đưa ra bốn hoặc năm người để trinh sát. Vậy nên anh gọi phôn về đại đội để được giúp. Phải mất ba lần gọi mới được đại đội trả lời máy. Anh rất điên tiết – sao mà mọi người có thể vô tâm đến vậy? Sau đó đại đội gọi cho tiểu đoàn, rốt cuộc tiểu đoàn cũng gửi một anh lính thuộc tiểu đội tình báo - trinh sát xuống. Anh ta thong thả đi xuống theo con đường mà không có chút cảm giác nào về việc khẩn cấp. Richardson giải thích nhiệm vụ, và người lính đó lặn mất, rồi chỉ xuất hiện trở lại sau một lúc cùng với một tổ bốn người, họ đi lên ngọn đồi đã phát ra những tiếng ồn, mà Richardson nghĩ, do cả một sư đoàn.
    <P style=[/IMG]Khi tổ trinh sát quay về, người lính cầm đầu nói : “Chẳng có ma nào trên đó”. Nhưng một người trong tổ có mang theo về một dụng cụ đào hầm và một đôi găng tay độn bông, thứ này hoàn toàn khác với những đôi găng tay mà Richardson từng thấy trước đây. Quan trọng hơn, chúng khô trong điều kiện sương, tuyết, điều này có nghĩa là chúng vừa được bỏ lại. Cuối cùng người lính đó cũng thừa nhận rằng “À, thì có vài cái hang chó, nhưng rõ là chúng có từ lâu rồi”. Richardson giận điên người. Quan trọng là đôi găng tay khô là một bằng chứng để giúp mọi người hiểu ngay vấn đề, cả khi không thuộc phòng S-2 hay bộ phận tình báo tiểu đoàn. Anh cố nài người lính kia mang đôi găng và cái dụng cụ đó lên trình sếp và nói cho ông ấy biết những gì có thể diễn ra. Rõ ràng bị chọc giận, anh chàng đó bảo: “ Này, nếu anh không thích những gì chúng tôi đã làm, thì anh cứ tự lê mông lên đó coi đi”.

    Tất cả điều này làm Richardson bực bội một lúc. Đâu đó chừng sau mười giờ đêm, anh nhận một cuộc gọi bảo gửi một nhóm về tiểu đoàn để đi trinh sát. Đây là việc quá sức với anh. Bởi anh chỉ có chừng mười lăm người, mà trong đó có tới 5 lính Nam Hàn, không ai trong số họ biết tiếng Anh. Richardson quyết định giữ số lính đó lại, và cử Walsh, tay cừ nhất của anh đi lên đó với ba lính Mỹ khác. Sau này, Richardson được biết, nhóm lính đó khi tới tiểu đoàn thì được lệnh đào mấy cái hầm trú ẩn và nghỉ ngơi. Trong khu vực của Richardson vẫn yên tĩnh, nhưng lúc đó cả tiểu đoàn I và II đều đã bị băm nát.

Chia sẻ trang này