1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Coldest Winter - Mùa đông lạnh nhất - David Halberstam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi TieuNgocLang, 03/04/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Davis thuộc một tổ đại liên chốt ở một cao điểm khống chế trên một ngọn đồi phía nam con đường lượn quanh theo hướng đông – tây. Con đường rất hẹp, chỉ đủ cho một chiếc xe bò đi một chiều, và lúc đó đầy những xe cộ của trung đoàn kỵ binh 8 nối đuôi nhau, một sự phản ánh trung thực của quân đội Hoa Kỳ vốn chỉ biết di chuyển hoàn toàn dựa vào cơ giới, và nó là một yếu điểm bất bình thường với kẻ thù mới. Quân Trung Hoa, di chuyển bằng chân, luôn dễ dàng tiếp cận vùng đất cao, trong khi quân Mỹ luôn dính liền một cách định mệnh với xe cộ và đường xá, thứ này hầu hết lại luôn ở dưới thung lũng. <P style=[/IMG]Sau nửa đêm một chút, quân Trung Quốc toàn lực tấn công. Đa phần trong bốn tháng Davis ở chiến trường, thì quân địch luôn có ưu thế tuyệt đối về quân số, và vấn đề lớn với đội của anh – cũng như phần lớn các lính đại liên khác – là cách chăm sóc khẩu súng của họ trước việc sử dụng quá mức. Davis hiểu điều này quá rõ. Bởi anh đi từ chân tiếp đạn khi mới đến xứ sở này, rồi trở thành pháo thủ thứ hai, pháo thủ thứ nhất cho loại vũ khí hai người điều khiển này, anh cũng đã qua tay ba hay bốn khẩu đại liên rồi. Họ luôn cần hỏa lực áp chế nhiều, bởi số lượng vượt trội của quân địch. Các vũ khí bộ binh cơ bản – súng trường M-1, súng carbin và cả súng liên thanh – không được thiết kế cho mức sử dụng mà họ đang áp. Trung tá Bob Kane, tiểu đoàn trưởng, đã có lần bảo Davis rằng vấn đề chính của cuộc chiến này là anh phải hạ được một trăm tên địch để có thể về nhà. Mỗi người phải hạ một trăm, vấn đề là vậy. Nhưng tại sao là một trăm thì Kane không bao giờ giải thích đúng đắn.
    Davis chưa bao giờ trông thấy điều gì giống thế này. Khi quân Mỹ bắn pháo sáng lên, Davis, người lớn lên trong một nông trại ngoại ô New York, thấy hằng hà sa số quân địch trông như đám lúa mỳ rập rình ở cánh đồng sau nhà. Đó là một cảnh tượng kinh khủng, hàng ngàn, hàng vạn người, lúc ấy, như muốn xông cả vào anh. Nếu hạ một tên, sẽ có một tên khác; nếu hạ một trăm ắt cũng sẽ có một trăm tên khác ngay phía sau. Câu đùa của Kane mang dư vị cay đắng. Rồi Davis thấy một tên ngồi trên ngựa, có vẻ như điều khiển hướng cho những tên khác. Chúng mang theo kèn, mỗi khi thổi lên, quân địch đôi khi lại chuyển hướng công kích.
    Davis hiểu nhúm người quanh anh có số đạn hạn chế và cũng chỉ còn một thời gian hạn chế. Quân Mỹ bắn, rồi bắn, ở cự ly gần. Như Davis ước tính họ còn một hoặc nhiều nhất là hai giờ trước khi cạn kiệt đạn, hoặc súng quá nóng. Chừng hai giờ sáng, viên thượng sỹ trung đội đến gặp anh. Davis phá hủy khẩu đại liên của mình bằng quả lựu đạn lửa sau cùng, cả hai ráng đến một vị trí mà những khẩu cối của họ, đang bắn đạn nổ chống lại quân Trung Quốc, có thể bảo vệ chút ít. Và rồi cũng qua được đêm. Khi bình minh lên, họ tái tập hợp, vài người ngạc nhiên nhận ra nhau còn sống. Nhưng họ đã bị bao vây.
  2. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Lúc cập rập thiết lập tuyến phòng vệ cạnh sở chỉ huy tiểu đoàn, dù bị thương nặng, nhưng trung úy Giroux, về mặt thực tế, là lãnh đạo của những người bị vây. Anh là một cựu binh thế chiến II, một sỹ quan bộ binh đầy kinh nghiệm, và dường như anh có giác quan để nhận biết khả năng hạn chế của họ - và cách hành động tốt nhất trong khi vẫn còn thời gian và chút cơ hội. Cùng cộng tác với anh là trung úy Peterson và người bạn chiến đấu Walt Mayo, anh vốn không phải là sỹ quan, nhưng đã trở thành như vậy trên chặng đường chiến đấu gian khổ lên phía bắc từ những ngày đầu tiên của cuộc chiến, một NCO rất nhiều kinh nghiệm. Ngay từ lần tấn công đầu, họ biết đó là quân Trung Quốc, và rằng trung đoàn của họ chính là đơn vị “điểm” cho cuộc chiến mới bắt đầu. Quân binh cùng nhau sát cánh trong tuyến phòng thủ, vượt qua đêm đầu tiên, nhưng trông rất trống trải. Lực lượng hỗ trợ đang đến, như lời cấp trên vẫn nói, nhưng vẫn chưa thấy dấu hiệu gì. HÔm đó, có một chiếc trực thăng cố đáp để bốc một số thương binh, nhưng hỏa lực của quân Tàu quá rát, nên nó phải bay đi sau khi thả được chút đỉnh đồ y tế, hầu hết là băng gạc nhỏ.
    <P style=[/IMG]Quân lính tuyệt vọng trong vòng phòng thủ giờ đối mặt với thế lưỡng nan: làm thế nào để thoát ra và làm thế nào với những thương binh hiện có. Họ cũng nguy ngập với tình hình cạn đạn dược. Thêm vào đó, vũ khí cũng không đủ, nhưng một ước đoán lạnh lùng làm họ biết rằng có khả năng đó là vấn đề nhỏ nhít nhất. Bởi số người bị giết sẽ làm cho vũ khí có đủ cho tất cả. Vòng phòng thủ bé xíu của họ cách chừng bảy mươi thước – bảy mươi thước địa hình bằng phẳng và rất trống trải – tính từ sở chỉ huy tiểu đoàn (CP), nơi hầu hết thương binh được đưa về đó. Trưa ngày 3 tháng Mười một, Peterson, Mayo, Richardson và Giroux đi về CP để họp cho ngày phán xét sau cùng. Vì Richardson không phải là sỹ quan nên anh không dự, nhưng anh biết đó là về việc gì. Tất cả các sỹ quan, phần lớn cũng bị thương, đang nói về một chủ đề cấm kị - cách giải quyết bài toán thương binh trong thời khắc kinh khủng cuối cùng, mà họ biết nó đang đến gần. Những sỹ quan bị thương đã phải quyết định về việc họ sẽ ở lại đó, chờ vào lòng khoan dung, nếu có, của quân thù. Bromser và Mayo đến chỗ trung úy Kies và báo rằng họ sẽ cố phá vây ra. Họ hỏi ông có thể tham gia không, và Kies trả lời không, họ phải quên ông đi, bởi ông không thể di chuyển được và không muốn mọi người bị chậm vì mình.

    Cái quyết định xé lòng đó của những người lính trẻ, đã làm Richardson ray rứt từ lúc đó và mãi cho tới nửa thế kỷ sau. Anh tình nguyện lãnh vài người, ở lại, và bảo vệ boong-ke cùng thương binh đến phút chót, nhưng đề nghị đó bị các sỹ quan bị thương bác bỏ. Những ai còn di chuyển được, những ai có thể có khả năng lãnh đạo, không thể hi sinh lãng phí để bảo vệ thương binh. Tất cả họ đều hiểu thời gian còn rất ít và đợt tấn công sắp tới sẽ rất ác liệt. Họ có thể nghe thấy quân Trung quốc đang đào hào từ phía lòng sông thẳng vào vòng phòng thủ, để có thể tấn công vào ngay giữa quân Mỹ trước khi chúng thành đích ngắm. Richardson đi quanh để gom lựu đạn và đưa cho viên hạ sỹ, rồi bảo anh ta rằng nhiệm vụ là ngăn quân Trung Quốc đào hào. Viên hạ sỹ bò ra – đó là một màn trình diễn dũng cảm chết tiệt, Richardson nghĩ, một hành động trông chừng chỉ có trên phim ảnh hơn là trong cuộc sống – anh ta làm chậm tiến độ đào hào lại.
  3. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Nhưng chiếc thòng lọng vẫn đang thít chặt lại, và câu chuyện về lực lượng giải vây chết dần. Họ có được một cuộc không kích bằng những chiếc B-26 của quân Úc trong ngày hôm đó, nhưng thời gian đang chống lại họ. Và cũng có một nỗ lực tiếp vận; một chiếc phi tuần nhỏ thả xuống một đôi túi rơi cách vòng phòng thủ chừng 150 thước. Richardson bò ra lấy được, nhưng bên trong không nhiều nhặn gì, và cũng không phải thứ mà họ đang cần: đạn và morphin.
    <P style=[/IMG]Lực lượng giải vây sẽ không đến. Hap Gay, sư trưởng, người đã tranh luận cho việc rút lui của cả trung đoàn vài hôm trước, gửi quân lên phía bắc để giải vây, nhưng họ bị quân Trung quốc nghiền nát, vì phía đối phương đã chọn được những vị trí phục kích gần như hoàn hảo để chặn đánh các nỗ lực giải vây vốn thường thấy – đó là một bài cơ bản của quân Trung Quốc, đả viện. Các lực lượng giải tỏa không có nhiều pháo và không quân chi viện, đây là hai thứ có thể cho họ ưu thế để tấn công các vị trí quân Trung Quốc. Một trong các đơn vị cố đột kích lên là trung đoàn 5 kỵ binh của trung tá Johnny Johnson, và mỗi tiểu đoàn của ông hứng chịu tới 250 ca thương vong. Ngày 3 tháng Mười một, biết là vô vọng, Gay, theo lệnh từ Milburn ở quân đoàn, phải cho sư đoàn rút lui, đã ra một quyết định mà sau này ông nói là khó khăn nhất trong sự nghiệp của mình. Ông dừng các nỗ lực giải vây và để quân mình ở đó, đơn độc.

    Cuối ngày hôm đó, một chiếc máy bay trinh sát khác thả xuống một thông điệp báo cho những người bị vây nên cố đột phá ra. Đó thật sự là một thông điệp không dễ chịu gì, nhưng Richardson cùng đa phần anh em vốn đã hiểu họ phải tự thân vận động. Và khi đêm xuống, quân Trung Quốc tấn công lại với lực lượng mạnh. Quân Mỹ bị vây bắn đạn bazooka vào xe cộ của họ bị kẹt dọc theo con đường hướng nam và tây nam, chúng bốc cháy. Việc này như kiểu tự tạo ra một thứ hỏa châu sáng lâu của riêng họ, và điều này giúp nhiều cho cuộc phòng thủ. Mỗi khi một chiếc xe bốc cháy, nó cháy rất lâu. Tuy vậy, số người còn trụ được trong chốt giảm nhanh trong đêm. Bắt đầu với không quá một trăm người, và giờ chỉ còn vài mống cùng rất ít đạn. Qua ngày 4 tháng Mười một, Richardson ước tính rằng có tới một phần tư số lính Mỹ chiến đấu bằng vũ khí Trung Quốc lấy từ các xác chết. Đêm khổ chiến thứ hai là một sự kinh hoàng khác. Đêm ấy chiếc xe tăng cuối cùng rời đi – vài người bảo có lệnh điều ra, nhưng nhiều người khác tin rằng nó bỏ chạy – và cùng với chiếc tăng, mọi liên lạc vô tuyến với bên ngoài kết thúc. Và theo một nghĩa nào đó kinh khủng: đó biểu trưng cho việc họ bị bỏ rơi. Một điều khắc sâu Richardson vào trí nhớ của ông đến tận mãi hiện nay, đó là cảnh xác lính Mỹ chất đống quanh khẩu đại liên, nơi quân Trung Quốc tập trung hỏa lực.

    Sáng sớm ngày thứ tư, Richardson, Peterson, Mayo và một người lính khác được chọn đi trinh sát xem có lối thoát nào không. Cấp bậc không quá quan trọng. Mayo và Peterson là sỹ quan, nhưng họ thuộc pháo binh, trinh sát pháo, còn Richardson – như Giroux đã lưu ý – dù chỉ là một NCO, nhưng anh có lẽ có kinh nghiệm tác chiến bộ binh nhất và tin vào bản năng anh. Peterson nhớ mãi cái khoản khắc kinh khủng trước khi họ đi. Lúc anh bò qua máy truyền tin, có một người đang nằm đó, bị thương nặng, anh lính đó hỏi: “trung úy Peterson, ông thầy đi đâu đó?”. Peterson trả lời rằng anh đang tìm lối thoát, để có tiếp viện. Người lính bắt đầu nài nỉ: “Trung úy, đừng bỏ tôi lại đây! Xin đừng bỏ tôi ! Ông thầy đừng bỏ tôi đây cho chúng nó”. Liếc nhanh qua Peterson đã biết chỉ đôi giờ nữa là anh ta sẽ chết. “Tôi xin lỗi. Tôi rất tiếc, nhưng chúng tôi phải đi để tìm trợ giúp” anh nói rồi bò ra nhập với tổ tìm kiếm.
  4. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Richardson tin chắc rằng có một lối thoát ở phía đông bởi các đợt tấn công của quân Trung Quốc đến từ ba hướng khác; và, chầm chậm di chuyển, họ tìm ra một lòng sông phủ đầy thương binh địch, và họ hiểu anh em mình, đặc biệt là thương binh, đã rất gần với việc bị bắt làm tù binh, Richard bảo anh em: đừng có chỉa vũ khí vào họ chứ đừng nói tới việc bắn hạ một ai. Đừng nghĩ về việc ấy. Họ dừng lại ở một ngôi nhà mà cánh hậu cần Mỹ đã dùng là kho chứa trong một thời gian ngắn. Giờ nó chứa đầy thương binh Trung Quốc. Thương binh địch trong nhà liên tục rên rỉ những âm thanh kỳ quái nghe như “shwee, shwee”. Sau này Richard được giải thích là tiếng shui, nghĩa là nước trong ngôn ngữ của họ. Cuối cùng họ cũng đến lòng sông, và chỉ thấy có nhiều lính Tàu hơn, có lẽ bốn hoặc năm trăm nạn nhân của pháo kích, hầu hết đã chết nhưng vẫn có một ít còn sống, ngắc ngoải, cầm ca và vang nài xin nước. Lúc đó, quân Mỹ đã khẳng định được rằng họ có thể thoát ra theo hướng đông, rồi họ trườn lui về trở lại với anh em trong vòng phòng thủ.
    <P style=[/IMG]Với Bill Richardson, cái quyết định được đưa ra sau khi họ quay về là thứ đau khổ nhất mà anh từng trải qua. Không có thứ gì trong vài ngày sau đó, hay trong cả cuộc đời còn lại của anh có thể so sánh được. Có chừng 150 thương binh ở đó, và không có cách nào họ chịu nổi một chuyến đi nguy hiểm trong đêm dưới làn đạn địch trong vùng đồi núi. Tất cả thương binh đều hiểu điều đó. Không ai muốn nằm lại trong tay quân Tàu. Ngay sau khi anh quay về, vài người còn nhúc nhắc đi lại được, đến gặp Richardson, khóc lóc, nói anh đừng bỏ rơi họ, làm ơn, chúa ơi, đừng bỏ rơi họ, đừng để cho bọn Tàu, mà hãy để Chúa dẫn dắt họ, đừng bỏ rơi họ ở đó đến chết. Anh tự hỏi, liệu có thể thực thi nhiệm vụ, theo thượng cấp, mệnh lệnh phải tuân thủ đến phút cuối, rằng đưa càng nhiều người thoát ra càng tốt, với việc tự vấn mình ở góc độ một con người? Có thể nào tự tha thứ cho bản thân vì những gì mình đã làm trong đời? Đó là câu hỏi mà anh dằn vặt mình suốt trong cả nửa thế kỷ sau đó.
  5. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Giroux vẫn ổn trong vài ngày đầu tiên, anh điều hành, và chăm sóc những thương binh nặng, nhưng sau này anh chết trong trại tù binh. Kies thì cùng với các thương binh khác đợi quân Tàu đến, chắc chắn rằng sẽ vậy. Và rốt cuộc quân Tàu cũng đến, một trong số chúng yêu cầu anh đứng dậy, anh cố và ngã gục xuống. Đôi chân anh bất khả dụng. Anh đã cắt bỏ đôi ủng trận bởi vết thương sưng phồng lên rất tệ. Anh nhớ rằng quân Tàu tách tù binh ra, những người như tiến sỹ Anderson và cha tuyên úy Kapaun, những ai tự di chuyển được, thành một nhóm và những người khác, như anh, không thể đi và cần được cáng – anh đoán khoản 30 người – đưa lên cáng. Năm người trong số họ chết vì vết thương trong đêm đầu tiên. Trong vài tuần kế tiếp họ đi theo nhóm từ nhà này sang nhà khác. Gần như không có gì để ăn và họ còn phải ăn trộm nước – bởi một người còn đủ sức bò đi, rồi mang về một ít nước tanh tưởi chứa trong nón trận. Họ không được chăm sóc y tế, ngay cả băng gạc hay i-ốt cũng không. Điều đó kéo dài trong mười sáu ngày, Kies nhớ, cho dù tính cả những thứ chăm sóc cơ bản nhất. Họ di chuyển chậm chạm vào ban đêm. Anh nhớ rằng quân Trung Quốc đưa họ lên hướng bắc trong hai tuần, và anh tin đã nghe thấy tiếng chảy của một con sông sau thời gian đó, chắc là sông Áp Lục. Rồi đến một đêm, anh ngạc nhiên thấy họ quay về hướng nam thẳng đến tuyến quân Mỹ. Sau này anh cho rằng chắc là quân TQ mệt mỏi với việc phải mang theo tù binh. Đến cuối tháng Mười một, họ (quân TQ) bỏ lại tù binh vào một căn nhà cách các vị trí của quân Mỹ vài dặm về hướng bắc, một người trong nhóm của Kies, còn di chuyển được, cố xoay sở đi về hướng nam và liên lạc với quân Mỹ, sau cùng họ gửi xe đến để đón tù binh về. Như đã kể, Kies chỉ làm tù binh trong khoản dưới một tháng. Anh biết anh là một người may mắn. Với nhóm tự đi lại được (như kể trên) phải sống phần thời gian còn lại của mình ở Triều Tiên, hơn hai năm, trong điều kiện giam cầm tồi tệ và đa số họ đã chết. Kies cho rằng nhóm của anh nguyên có ba mươi người thì chỉ còn lại tám trước khi họ được cứu thoát. Chân anh bị gãy bốn chỗ và có tới 52 mảnh cối găm quanh eo. Một người lính trong đội giải cứu đã nói “Trông anh như một đống rác”. Nhưng rồi anh được gửi đi khắp các loại bệnh viện quân đội và hồi phục lại phần lớn sức lực, thậm chí anh còn đủ sức để có hai năm công tác với tư cách cố vấn (quân sự) ở Việt Nam.
    <P style=[/IMG]Trở lại với vòng phòng thủ bé tẹo của quân Mỹ, trước 5 giờ chiều họ cố phá vây và di chuyển được một chút. Có chừng cả thảy sáu mươi người, họ đến lòng sông trước khi cắt đường về phương nam, nhưng di chuyển thật khó khăn. Lúc này họ đang ở hậu tuyến quân Trung Quốc, và với kích cỡ của nhóm, họ rất dễ bị phát hiện. Khi đến được con lộ lớn, MSR, đường tiếp vận chính (Main Supply Route), họ phải băng qua nhanh chóng. Richardson dàn đội hình hàng ngang để tất cả vượt lộ cùng lúc. Tại một điểm nghỉ chân, một trung sỹ thuộc phòng tình báo trườn đến và thì thầm với Richardson, rằng nếu hai ta lẻn đi riêng thì chắc chắn sẽ thoát được đến tuyến quân mình, bởi cả hai là dân chuyên nghiệp và không bị chậm lại bởi tất cả những người khác, những tay mơ trong chuyện di chuyển lặng lẽ này. Anh ta nói đúng, và có lẽ một sỹ quan khác sẽ đồng ý, nhưng Richarson thì không, anh biết đã quá muộn và rằng anh không thể bỏ rơi đồng đội, tại lúc này, ngay cả phải trả giá bằng tính mạng của mình.

    Sáng ngày 5 tháng Mười một, họ vấp phải một trạm gác quân Tàu và hai bên nổ súng. Thế là quân địch đã biết họ ở đâu, sau cùng họ tan tác. Richradson là người duy nhất trong nhóm nhỏ của anh có một vũ khí, một khẩu burp gun (??? Không biết là gì – bác nào dịch hộ). Anh bảo những người khác tháo ra, và khi anh nghĩ anh đã lẻn trốn được thì quân địch tìm thấy và bắt anh làm tù binh. Thay cho việc được về nhà vào ngày Giáng sinh như Tokyo đã hứa, anh đã mất hai năm rưỡi lê la khắp các trại tù tồi tệ - và Phil Peterson cũng có một số phận tương tự.
  6. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Ráng cho xong hết chương này. Bác nào biết từ burp gun trong bài trước thì hê lên giúp tui

    Trung đoàn 8 kỵ binh – khi điểm lại, có đến chừng 800 ca thương vong trong số khoản 2,400 quân trong đơn vị; riêng cái tiểu đoàn 3 bất hạnh, đầu trận chiến có 800 lính khỏe mạnh thì chỉ chừng 200 thoát ra được. Đến lúc đó, thì đây là thất bại tệ hại nhất trong cuộc chiến Triều Tiên, đau gấp bội là bởi nó diễn ra sau bốn tháng chiến đấu mà dường như chiến thắng đã trong tầm tay, và nhằm vào một đơn vị hạng nhất của quân đội Hoa Kỳ. Quân CS Trung Quốc đột ngột xuất hiện khắp nơi với sức mạnh, và đập tan một trung đoàn thiện chiến hàng đầu trong một sư đoàn danh tiếng. Trung đoàn 8 kỵ binh mất phân nửa phương tiện cơ giới ở Unsan, cùng với các vũ khí đi kèm, gồm mười hai khẩu lựu pháo 105mm, 9 xe tăng, 125 xe tải và một tá súng không giật. Phát ngôn viên trung đoàn, trong lần trả lời báo chí sau cuộc tấn công hai ngày đã bàng hoàng nói: “Chúng tôi không biết đó có phải là biểu trưng của chính quyền CS Trung Hoa không” nhưng đó là “ một cuộc thảm sát kiểu dân da đỏ, như hệt như trận tướng Custer ở Little Big Horn(*). <P style=[/IMG](*) Trận Little Big Horn là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử chiến tranh da đỏ, trong đó tướng Custer cùng trung đoàn 7 kỵ binh với 700 quân bị tàn sát.

    Pappy Miller thì bị thương, bị bắt rồi được cha tuyên úy vác đi, trong một nhóm nhỏ tù binh bị giải đi xa lên phía bắc hằng đêm. Trong chuyến đi vất vả đến trại tù, họ đến một căn cứ tạm của quân Trung quốc, ở đó, họ thấy hàng ngàn lính Tàu, có lẽ đến hai mươi hoặc ba mươi ngàn lính. Nó như một thành phố bí mật giữa lòng Bắc Triều Tiên và không chứa gì ngoài lính Tàu. Với cảnh tượng hoàng tráng này, anh biết cuộc chiến đã thay đổi hoàn toàn, nhưng không có ai hữu trách để anh có thể nói cho biết. Anh đang trên chặng đường dài hơn hai năm trong trại tù binh chiến tranh, nơi anh thường xuyên bị đánh đập, bị từ chối được chăm sóc y tế và với khẩu phần thức ăn ít ỏi.

    Lực lượng LHQ, dù họ có muốn rút chạy hay không, cũng nhanh chóng lùi về các vị trí bên kia sông Thanh Xuyên (Chongchon). Ở đó họ chờ đón đòn tấn công kế tiếp của quân Trung Hoa. Nhưng quân Trung quốc biến mất, cũng bí ẩn như lúc xuất hiện. Không ai biết quân địch đi đâu. Chúng lặng lẽ rời chiến trường và một lần nữa vô tung vô ảnh. Nhưng rõ là chúng không rời đất nước này, dù vài người ở Tokyo muốn tin là vậy. Chỉ đơn giản là quân địch lui về các vị trí trú ẩn ở đâu đó xa trên hướng bắc. Ở đó chúng kiên nhẫn đợi quân Mỹ đi vào một cái bẫy lớn hơn, và xa hơn căn cứ chính. Sự kiện Unsan chỉ là sự khởi đầu. Cuộc tấn công thực sự đến từ điểm xa hơn ở hướng bắc trong tiết trời lạnh lẽo hơn, ba tuần sau đó.
  7. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Bủrp GUn có lẽ là khẩu PPSh chiến lợi phẩm.
  8. LaBatChap

    LaBatChap Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/10/2010
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    2
    Theo như link này thì burp gun chính là mấy khẩu ppsh thôi
    http://www.rt66.com/~korteng/SmallArms/ppsh41.html
  9. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Tiếng súng nghe như tiếng Ợ nên có tên đó.
  10. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn lão Đần và bạn labatchap đã trợ giúp.

    Trận Unsan là một lời cảnh báo, nhưng nó không được chú ý. Ở Washington, tổng thống và các cố vấn của ngài, vốn đã băn khoăn hàng tuần liền về ý định của người Trung Hoa, càng trở nên lo lắng hơn. Tổng tham mưu trưởng liên quân, trước sự lo ngại của Tổng thống Harry Truman, đã đánh điện cho tướng MacArthur và yêu cầu trả lời về “ sự can thiệp công khai vào Triều Tiên của lực lượng Cộng sản Trung Quốc”. Những sự kiện diễn tiến trong vài ngày sau đó phản ánh sự khác biệt lớn lao giữa những gì MacArthur muốn làm – đó là tiến đến sông Áp Lục, thống nhất toàn bộ Triều Tiên – và điều mà Washington muốn – tránh một cuộc chiến tổng lực với Trung Hoa.

    Vấn đề trọng tâm trong câu hỏi của Washington là người Trung Hoa muốn gì, và một lần nữa MacArthur quyết định điều khiển việc ra quyết sách bằng cách tác động vào hệ thống tình báo. Và một lần nữa, thiếu tướng Charles Willoughby là người đóng vai trò chính yếu. Ông ta thận trọng giảm nhẹ cả số lượng và lẫn ý định của quân Trung quốc. Ngày 3 tháng Mười một, ông báo số lượng quân Trung quốc ở Triều Tiên là từ tối thiểu 16,500 đến tối đa 34,500. (Trong khi đã có chừng 2 vạn quân hoặc hai sư đoàn đầy đủ, tấn công quân Mỹ ở Unsan, và gần như cùng lúc một lượng quân tương đương đánh vào một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến ở bờ đông bán đảo và gây ra thương vong khá nặng). Sự thật là có đến 30 vạn quân, hay 30 sư đoàn, đã hiện hữu trên đất nước này. MacArthur, vốn từng bị trận tấn công gây chấn động, giờ lại làm giảm nhẹ việc đó, và câu trả lời qua điện văn JCS áp theo thông tin của Willoughby. Quân Trung quốc, ông ta điện, ở đó để giúp quân Bắc Triều “giữ chút địa vị danh nghĩa ở Bắc Triều Tiên” và để chúng “cứu được chút đỉnh từ sự sụp đổ”.
    <FONT class=imageattach alt=[/IMG]Nếu như lúc đầu ông ta chao đảo vì trận tấn công, thì giờ dường như cảm giác đó đã biến sạch, và lần nữa MacArthur lại trở nên liều lĩnh hơn. Tướng Walton Walker, tư lệnh tập đoàn quân 8, trong thành phần có đơn vị bị tấn công ở Unsan, đã gửi điện về Tokyo sau khi bị đánh rằng: “BỊ PHỤC KÍCH VÀ TẤN CÔNG BẤT NGỜ BỞI CÁC LỰC LƯỢNG ĐƯỢC HUẤN LUYỆN VÀ TỔ CHỨC TỐT, MỘT SỐ LÀ QUÂN CỘNG SẢN TRUNG QUỐC”. Hoàn toàn bộc trực. Nhưng cái thông điệp thẳng thắn của Walker không làm sở chỉ huy của MacArthur hài lòng. Vị thống soái muốn Walker giảm nhẹ mối nguy từ người Trung Quốc và tiếp tục duỗi lên hướng bắc – như bình thường. MacArthur còn mắng Walker nặng hơn, khi ông này thêm lo ngại về việc bắc tiến và ông cũng như Tham mưu trưởng ở Washington, muốn thiết lập một tuyến phòng thủ ở eo bán đảo. MacArthur chất vấn Walker tại sao tập đoàn quân 8 mất dấu quân địch sau trận Unsan và lại rút lui về sau sông Thanh Xuyên trước áp lực của – cái mà ông ta gọi là một vài lính “tình nguyện” Trung Hoa? Rõ ràng là Walker phải tiếp tục tiến lên hướng bắc, áp lực lên ông còn tăng nhanh hơn quân Trung Hoa đang ẩn nấp và đợi.

Chia sẻ trang này