1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Coldest Winter - Mùa đông lạnh nhất - David Halberstam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi TieuNgocLang, 03/04/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Ngày 6 tháng Mười một, từ Tokyo, MacArthur ra một thông cáo rằng chiến cuộc Triều Tiên trên thực tế đã đi vào giai đoạn kết thúc bằng việc khép chặt vòng vây ở phía bắc Bình Nhưỡng. Không một ai khác có sự tự tin như vậy. Với đa số sỹ quan thuộc tập đoàn quân 8 - từ thực tế sự kiện Unsan – thì nhận ra rằng đó chỉ mới là một chút nóng từ lò lửa Trung Hoa.
    <P style=[/IMG]Còn có nhiều lý do hơn nữa để Washington lo lắng. Như trung tướng Matthew B. Ridgway ghi nhận lại, khi trận tấn công đầu tiên của Trung Quốc diễn ra, MacArthur xem nó như là một tai họa và gửi điện về cho Washington phản đối việc giới hạn ném bom vào các cầu trên sông Áp Lục. Khả năng quân Trung Quốc vượt sông bằng cầu, như ông ta nói “sẽ đe dọa hủy diệt các lực lượng dưới quyền của tôi”. Điện văn trả lời từ Washington chỉ ra dấu hiệu can thiệp công khai của Trung Quốc, như theo cách hành văn của Ridgway “là một sự thật rõ ràng”, và mang ý nghĩa đánh giá lại một cách tiêu cực các hoạt động của LHQ ở hướng bắc. Thế là MacArthur gửi lại một bức điện khác, hoàn toàn trái ngược với cái trước trong nỗ lực làm Washington không lo lắng, rằng không lực có thể bảo vệ các lực lượng trên bộ và rằng quân địch sẽ bị quét sạch. Cuộc tiến quân lên phía bắc vẫn tiếp tục. Đó là thời khắc định mệnh của cuộc chiến Triều Tiên: giằng xé giữa giấc mơ “hoàng tráng” của mình về việc hoàn toàn chinh phục đất nước này với việc các đơn vị dưới quyền gặp nguy bởi một kẻ thù mới mạnh mẽ, MacArthur đã chọn giấc mơ!!!

    Tại Washington, những vị tai to mặt lớn vẫn lặng im. Quyền điều khiển cuộc chiến, như Dean Acheson – ngoại trưởng Hoa Kỳ sau này viết, đầu tiên thuộc về người Trung Quốc và sau đó là MacArthur – mà Washington không có chút ảnh hưởng nào với đối tượng đầu tiên và cũng chỉ có chút tác động ngoại vi tới đối tượng thứ hai. “Và tướng MacArthur, trước mắt chúng tôi, cao cao tại thượng sau cuộc đổ bộ tuyệt vời” Acheson viết. Thời điểm đó thật nghiêm trọng: các lực lượng mạnh mẽ của một kẻ thù mới tinh vừa có màn ra mắt ấn tượng trên chiến trường, chiến đấu tốt và rồi dường như “biến mất khỏi trái đất”. Ông thêm vào “Cảnh báo sơ đẳng nhất là họ dường như có thể, và rõ ràng là hoàn toàn có thể: đột ngột xuất hiện lần nữa và gây tác hại như họ đã từng làm”.

    Ở Sudong, bên kia bán đảo, lính Thủy quân lục chiến thuộc thành phần của quân đoàn 10 bị đánh dữ dội trong một trận chiến xảy ra cùng lúc từ ngày 2 đến ngày 4 tháng 11, mất 44 người cùng với 162 thương binh. Họ xác quyết rằng trận tấn công đó đã được tính toán kỹ lưỡng, như thể quân Trung Quốc chăng sẵn một cái bẫy, và chúng không thể chờ họ duỗi xa hơn phía bắc, vào sâu hơn trong bẫy. Bằng chứng ở Sudong cùng những sự kiện ở Unsan là nghiêm trọng và không tách biệt. Đó là cơ hội cuối cùng cho việc dừng tiến sâu lên hướng bắc, quay lui và tránh một cuộc chiến lớn với Trung Hoa. Nhưng Washington không làm gì cả. Acheson ghi lại trong hồi ký “Chúng tôi ở đó, như những chú thỏ đờ đẫn trong khi MacArthur mang đến cơn ác mộng”.

    Hết phần I
  2. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    PHẦN II<P style=[/IMG]NHỮNG THÁNG NGÀY ẢM ĐẠM: INMIN-GUN NAM TIẾN

    (*) Inmin-gun: Quân đội nhân dân Triều Tiên (Bộ đội Bắc Triều)

    Không đầy năm tháng trước, khoản ngày 15 tháng Sáu năm 1950, chừng sáu sư đoàn Bắc Triều Tiên lặng lẽ chuyển quân đến các vị trí gần biên giới với Nam Triều Tiên, hội sư cùng vài đơn vị đã đóng ở đó. Họ huấn luyện nghiêm khắc, nhưng tất cả trạm truyền tin vô tuyến đều im tiếng. Phía công binh, lặng lẽ và bí mật, họ thiết lập thêm một số cầu đơn giản trên con đường huyết mạch xuống phía nam, và gia cố để đủ chịu đựng sức nặng của những chiếc xe tăng T-34 do Nga sản xuất. Cùng lúc, công nhân CS cũng làm việc hết mình để sửa chữa đường xe lửa, vốn do chính người miền bắc đã phá hủy khi đất nước chia cắt sau thế chiến II, đó là tuyến đường chạy theo trục bắc-nam. Đêm 24, mưa đổ, và tiếp tục rơi trong sáng hôm sau, có chừng 9 vạn quân, hơn bảy sư đoàn bộ binh và một lữ đoàn thiết giáp quân đội Nhân dân Triều Tiên, hoặc được biết với tên Inmin-Gun, băng qua vĩ tuyến 38 và trực chỉ phương nam. Một trận tấn công đa hướng được lên kế hoạch hoàn hảo. Quân miền Bắc dùng xa lộ và hệ thống đường sắt để tiến hành chuyển quân, rất nhiều minh chứng cho thấy họ đã di chuyển tuyệt đối nhanh, tuyệt đối thành công để hợp vây các đơn vị Nam Hàn đang hoang mang trước khi kịp nhận ra việc gì đang diễn ra. Sau ngày đầu tiên, một cố vấn Liên Sô đã khen: họ tiến còn nhanh hơn quân Nga.
  3. xinloiemyeu

    xinloiemyeu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2011
    Bài viết:
    1.249
    Đã được thích:
    1
    hya quá.tiếp đi bác.e đặt gạch hóng bác
  4. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Ngay từ khi được đặt vào Bình Nhưỡng bởi Liên Sô vào năm 1945, Kim Nhật Thành, lãnh đạo Bắc Triều Tiên, luôn ám ảnh với việc tấn công xuống phía nam và thống nhất tổ quốc. Ông chuyên tâm vào chủ đề đó, liên tục đạo đạt đến người có thể cho phép ông, nhà độc tài Soviet – Joseph Stalin. Ông muốn, ông trao đổi với Stalin trong cuộc gặp vào cuối năm 1949 “đến phương Nam trên đầu mũi lê”.

    Kim Nhật Thành càng áp lực lên Stalin khi Mao Trạch Đông gần thống nhất được toàn bộ Trung Hoa dưới ngọn cờ cách mạng. Thành công của Mao Trạch Đông dường như làm Kim Nhật Thành thêm thất vọng. Mao nổi lên như một tay chơi có cỡ mới trên trường quốc tế còn Kim thì vẫn chết cứng ở Bình Nhưỡng, không thể đưa quân Nam tiến mà không có sự cho phép của Liên Sô. Ông là một nhà độc tài không hoàn chỉnh, chỉ làm chủ nửa nước. Nên ông ép và ép Stalin hơn. Những gì ông đưa ra rất đơn giản và dễ dàng: một cuộc tấn công của phía CS xuống phương nam và một chiến thắng nhanh chóng. Kim tin rằng nếu ông tiến quân theo chiến thuật blitzkrieg với lực lượng thiết giáp, nhân dân miền nam sẽ nổi dậy, chào đón ông và cuộc chiến sẽ kết thúc trong vài ngày.

    Trong quá khứ Stalin rất cẩn trọng khi hồi đáp những lời khẩn nài của Kim Nhật Thành. Quân Mỹ vẫn còn đang ở phía Nam, ngay cả khi nếu họ chỉ ở mức độ cố vấn, thì Stalin vẫn thận trọng trước việc trực tiếp thách thức họ. Trong khi đó, Kim Nhật Thành – ông này tin luôn vào hệ thống tuyên truyền của chính mình, khinh bỉ chính quyền Lý Thừa Vãn được Mỹ ủng hộ ở phương Nam – tỏ ra không nao núng. Ông ta là một dạng người cực kỳ nguy hiểm, loại người hoàn toàn tin vào sự đúng đắn của bản thân. Nếu Liên Sô không cản đường ông nam tiến, thì ông có thể chiếm vùng đó không mấy tốn thời gian, ông tin vậy, cũng như Lý Thừa Vãn tin rằng nếu chỉ cần người Mỹ, với sự kiềm chế đáng ghét, không chắn lối thì ông cũng dễ dàng chiếm được miền Bắc.

    Stalin không hài lòng với mức độ hiện tại của vấn đề căng thẳng quân sự giữa hai miền Triều Tiên, không gì quá lớn, nhưng đủ để mỗi bên cân bằng. Có lần ông đã khích lệ Kim Nhật Thành tiếp tục tấn công chế độ Lý Thừa Vãng. “Mọi việc thế nào hả đồng chí Kim?” ông hỏi trong một cuộc gặp mùa xuân năm 1949. Kim Nhật Thành giải thích rằng, phía miền Nam gây nhiều vấn đề khó khăn. Có nhiều trận đụng độ dọc giới tuyến. “Đồng chí đang nói gì vậy?” Stalin hỏi “Chẳng nhẽ đồng chí thiếu vũ khí? Đồng chí phải vả vào mặt bọn miền Nam”. Ông cân nhắc một lúc, rồi nói thêm “tấn công chúng, tấn công chúng”.

    Nhưng việc “bật đèn xanh” cho cuộc xâm lăng còn có một vấn đề hoàn toàn khác. Nhà lãnh đạo Liên Xô không vội vàng trong việc mở ra một cuộc xung đột. Nhưng rồi một số sự kiện bên ngoài đã làm thay đổi quan điểm của Stalin, ít ra trong đó có bài phát biểu của Ngoại trưởng Dean Acheson vào ngày 12 tháng Giêng ở câu lạc bộ Báo chí Quốc gia tại Washington, trong đó dường như có đưa ra tín hiệu rằng Triều Tiên không nằm trong vành đai phòng thủ Mỹ ở châu Á và điều này được Moscow hiểu như một ngụ ý rằng Hoa Kỳ sẽ đứng ngoài bất kỳ cuộc xung đột nào ở Triều Tiên. Bài phát biểu đó là một sai lầm góp phần đáng kể trong một chính sách ngoại giao mệt mỏi nhất thế kỷ, bởi nó tác động tiêu cực lên các quyết định của phía CS. Với việc Trung Hoa rơi vào tay những người CS, Acheson cố giải thích chính sách của Hoa Kỳ ở Á Châu và ông kết thúc bằng việc đưa ra một tín hiệu rất nguy hiểm cho thế giới CS. “Tôi e là chính Acheson đã thổi bùng nó lên”, Averell Harriman, bạn hữu của ông ta nói, sau đó vài năm.
  5. drasfree

    drasfree Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/06/2004
    Bài viết:
    427
    Đã được thích:
    3
    Đang hay thì đứt dây đàn ! Ngày mai lại hóng đọc truyện đêm khuya...

    P/S: Tiếu sửa giúp Liên Sô = Liên Xô, Lý Thừa Vãng = Lý Thừa Vãn nhé.
  6. minhquan1987

    minhquan1987 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    19/08/2009
    Bài viết:
    520
    Đã được thích:
    8
    chỉ mong đừng bị chứng táo bón , đặt cục gạch ngồi hóng vậy
  7. xinloiemyeu

    xinloiemyeu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2011
    Bài viết:
    1.249
    Đã được thích:
    1
    nhanh nào bác chủ tóp :D
  8. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Lạy các cụ, chớ sốt ruột, tớ còn phải đi mần kiếm cơm nuôi mẹ đĩ. Ngày ráng chỉ dịch được 1 -2 trang thôi, các cụ thông cảm.

    Trong cuối năm 1949 và đầu năm 1950, Kim Nhật Thành thực hiện nhiều chuyến đi bí mật tới Moscow để xin được đồng ý, song song với việc tăng cường lực lượng quân đội của mình. Người Nga, trong những tháng đó lạnh lùng xem xét việc dính líu nếu Kim Nhật Thành nam tiến, và rồi họ nhận định người Mỹ sẽ không nhảy vào. Do vậy, theo yêu cầu của Stalin, Mao Trạch Đông hội đàm với Kim Nhật Thành, với câu hỏi rằng người Mỹ sẽ làm gì, tất cả đồng tình rằng Hoa kỳ sẽ không tham chiến chỉ để cứu “một mảnh đất bé tẹo”. Kim lúc đó chỉ có yêu cầu giúp đỡ chút đỉnh từ người Trung Quốc. Nhưng trong trường hợp người Nhật, vẫn là một con ngáo ộp trong vùng, tham chiến, Mao Trạch Đông hứa sẽ hỗ trợ người và trang bị.

    Những sự kiện ở Trung Quốc cũng tác động lên Stalin trong quyết sách Triều Tiên. Bởi người Mỹ đã không can thiệp quân sự để cứu đồng minh to lớn của họ, nhà lãnh đạo Trung Hoa Quốc gia - Tưởng Giới Thạch mà họ hình như đã có cam kết sắt đá với nhau – khi Trung Hoa đại lục lâm nguy. Nếu trong cuộc chiến của Mao Trạch Đông – phát triển nhanh lẹ nhờ nông dân ủng hộ - và đã rất thành công, thì lẽ nào nông dân Nam Triều Tiên lại không ủng hộ Kim Nhật Thành dưới cùng ngọn cờ? Không phải đã có tiền lệ à? Thế là kế hoạch của Kim Nhật Thành dần dần được gia tăng mức ủng hộ ở Moscow. Và khi Mao Trạch Đông gặp Stalin lần đầu tiên vào cuối năm 1949 tại Moscow, họ đã bàn thảo về kế hoạch chiến tranh của Kim Nhật Thành. Stalin khuyến nghị nên chuyển khoản 14 ngàn lính người Triều Tiên đang phục vụ trong màu áo quân đội nhân dân Trung Hoa về lại cho Bắc Triều Tiên, Mao Trạch Đông đồng ý. Theo nhà sử học Sergei Goncharov, John Lewis và Litai Xue trong đề tài nghiên cứu “Cộng sự không kiên định: Stalin, Mao và cuộc chiến Triều Tiên”, đã cho thấy có yêu cầu là: “Stalin hỗ trợ cho sự nghiệp Triều Tiên nhưng giữ khoản cách để không có dính líu trực tiếp”. Stalin chơi một ván bài tinh vi, nửa bật đèn xanh, nửa ngần ngừ cho cuộc xâm lăng. Nhưng không chắn chắn rằng mọi việc triển khai tốt như Kim Nhật Thành tiên đoán, nên ông ta (Stalin) không muốn nhận lãnh phần hậu quả nào của một cuộc phiêu lưu đầy tốn kém và khó khăn đó; và cũng không muốn có thấy bàn tay của mình trên đó.

    Thắng lợi chung cuộc của Mao Trạch Đông trong cuộc nội chiến vào tháng Mười năm 1949 chỉ làm cho ham muốn của Kim Nhật Thành tăng lên dữ dội. Ông ta cảm thấy đã đến lượt mình. Tháng Giêng năm 1950, trong một buổi tiệc trưa nhằm tiễn tân đại sứ Bắc Triều Tiên sang Bắc Kinh, Kim Nhật Thành một lần nữa lại ca “bài ca” của mình trước vài quan chức cao cấp của sứ quán Liên Xô. “Trung Hoa giờ đã hoàn toàn giải phóng” ông nói “giờ đến lúc phải giải phóng người dân Triều Tiên ở miền Nam”. Ông thêm vào rằng mình mất ngủ hằng đêm do ráng nghĩ phương án cho bài toán thống nhất tổ quốc. Rồi ông đến bên cạnh tướng Terenti Shtylov, trên thực tế là thái thú Nga ở Triều Tiên, đề nghị ông này sắp xếp cho một cuộc gặp khác với Stalin và sau đó là với Mao. Ngày 30 tháng Giêng, năm 1950, mười tám ngày sau bài diễn văn của Acheson, Stalin điện cho Shtylov để báo với Kim Nhật Thành rằng: “Tôi đã sẵn sàng giúp cho việc này”. Shtylov chuyển ngay thông điệp đó cho Kim Nhật Thành, ông này bảo đang sướng mê.
  9. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Oh Lord, I wish the world economy down till this guy finish the book!
  10. drasfree

    drasfree Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/06/2004
    Bài viết:
    427
    Đã được thích:
    3
    Chờ đợi vậy, có mấy cái ảnh thời sự hồi đó về thần dân của Cụ Kim:

    Em bé khóc một mình, ảnh chụp được khi đoàn quân UN đi qua Icheon 9/1950
    [​IMG]

    Người dân Seoul tìm bới gỗ vụn làm củi nấu ăn và sưởi ấm, muà đông 1950, đầu tháng 11.
    [​IMG]

    Haeng-ju, 6/1951, hai chị em đã trải qua mùa đông khắc nghiệt, tiết trời đã ấm lên
    [​IMG]

    (ảnh đăng lại từ Web: http://asianhistory.about.com/od/warsinasia/ig/Korean-War-Photos)

Chia sẻ trang này