1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Coldest Winter - Mùa đông lạnh nhất - David Halberstam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi TieuNgocLang, 03/04/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Gamer001

    Gamer001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2011
    Bài viết:
    265
    Đã được thích:
    2
    Xì pam với lão đần luôn là Khe Sanh, Mỹ từng dọa ném bom NT. OMG

    Em có một ước ao, em có một khát khao "Nếu" sẽ trở thành hiện thực ;))
  2. freekopf

    freekopf Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2008
    Bài viết:
    106
    Đã được thích:
    0
    bác chuyên da danngoc khẳng định là TQ rút quân không phải là vì sợ bom NT của Mĩ đấy
  3. hobaochomeo

    hobaochomeo Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    833
    Đã được thích:
    2
    Biến đi chỗ khác đừng làm bẩn tô bích.
    Chủ tô bích này lập ra để đăng bài dịch chuyển ngữ, để mọi người cùng được thưởng thức 1 câu truyện bằng tiếng Việt.
    Chứ kô phải để mấy kẻ siêu nhân hùng hục vào trổ tài hiểu biết.
  4. thanhVNW

    thanhVNW Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/05/2008
    Bài viết:
    373
    Đã được thích:
    56
    Cám ơn bác TieuNgocLang vì topic rất hay.
  5. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Chương 3

    Khi quân Bắc tổng tấn công qua vĩ tuyến 38, đại tướng Douglas MacArthur đang dồn hết tâm trí vào việc phát triển hệ thống chính trị Nhật Bản, ông đang làm một công việc khác thường nhằm cố gầy dựng một quốc gia chiến bại trở thành một xã hội dân chủ, công bình hơn. Quay trở lại lúc bắt đầu Thế Chiến II, Nhật Bản là một quốc gia pha trộn một cách dị thường giữa nền kinh tế - quân sự hiện đại với thể chế chính trị - xã hội phong kiến. MacArthur đã nỗ lực và có thành tựu lớn lao trong việc tạo lập thế lực cân bằng, cải cách ruộng đất, lập nghiệp đoàn công nhân và quyền bầu cử cho phụ nữ. Ông ta ban phát cơ hội một cách hoàn hảo – Nhật Bản sau chiến bại ở Thái Bình Dương là một quốc gia dường như Chúa đã từ bỏ, nhưng giờ đã tìm được một vị Chúa mới, một vị Chúa thế tục: MacArthur; người không có gì khác là luôn muốn được thần tượng hóa, và giờ đây ông đã kiếm được một quốc gia hiện hữu sẵn sàng xem ông như một dạng thần linh. Với một người rất vị kỷ và độc đoán từ trong máu, thì sự giao thiệp của ông ta với một quốc gia chiến bại mềm dẻo một cách đáng ngạc nhiên. Ông khôn ngoan chỉ đạo thông qua hoàng đế (Nhật Bản), và như vậy làm gia tăng quyền lực của cả hai. Dù bản chất của ông thuộc nhóm thủ cựu hơn là tự do, ở Mỹ ông nằm trong nhóm những phần tử chính trị thủ cựu nhất, nhưng tại Nhật, đáng ngạc nhiên ông lại là một vị thánh người Mỹ hiện đại, tự do. Trong nước, ông đã và tiếp tục là một nhà chỉ trích cay độc chính sách Kinh tế mới (New Deal) (*), nhưng ở Nhật ông nồng nhiệt tham gia nhóm những nhân vật trẻ, tự do, ủng hộ Kinh tế mới, mang cho họ nền tự do đáng ngạc nhiên trên đất nước chiến bại tan hoang. Họ có được quyền tự do ấy, lãnh tụ của họ Charles Kades (*) tin tưởng như thế, bởi phần nhỏ là vì đó là điều đúng đắn để làm và để tạo dựng một xã hội tốt hơn, ngoài ra phần lớn là bởi nếu nước Nhật được dựng từ một quốc gia cũ kỹ thành một quốc gia hiện đại bao nhiêu thì vai trò của MacArthur trong vai nhà kiến tạo còn lớn bấy nhiêu. <FONT face=[/IMG](*) New Deal: Chính sách kinh tế mới dưới thời F.D. Roosevelt, là một tổ hợp các đạo luật kinh tế - xã hội nhằm đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc đại khủng hoảng 1929-1933
    (*) Charles Kades là một trong những trợ tá thân cận nhất của MacArthur.

    Những đổi thay ở Nhật Bản và bản Hiệp ước Hòa Bình Nhật đã lấy hầu hết thời gian làm việc của MacArthur. Ông chỉ còn để ý tí chút tới những đơn vị Mỹ dưới quyền mình – các lực lượng chiếm đóng – lúc đó lực lượng ấy chỉ còn là cái bóng mờ của đội quân oai hùng đã chiến thắng quân Nhật trên mặt trận Thái Bình Dương. Họ thiếu sức chiến đấu, trang bị kém và huấn luyện kém, nhưng ông không hề bận tâm. Ông còn ít để tâm hơn với Nam Hàn, vùng đất phía nam của phân nửa cái nước cựu thuộc địa của Nhật Bản, được quân Mỹ và Liên Xô giải phóng và chia cắt từ năm 1945. Người Mỹ xác lập ảnh hưởng lên miền Nam và Liên Xô cũng vậy ở miền Bắc. Nam Hàn không mấy làm ông hứng thú, và ông chỉ đến đó mỗi một lần – rất ngắn- từ khi lập quốc. Ông bỏ qua lời khẩn nài liên tục của tướng John Hodge, tư lệnh quân Mỹ ở Nam Hàn, ông này muốn tổng tư lệnh quân đồng minh (SCAP) – danh xưng chính thức của MacArthur – dành nhiều quan tâm hơn đến đất nước này. Thay vì vậy, MacArthur lệnh cho viên tướng này phải tự quyết nhiều hơn. “Tôi không đủ thông số với những vấn đề địa phương để khuyến nghị anh làm gì, nhưng tôi sẽ ủng hộ mọi quyết sách của anh” MacArthur trả lời như vậy cho một trong số các điện yêu cầu.
  6. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Rõ ràng là MacArthur không muốn để ý chút nào đến Triều Tiên trong giai đoạn 1945 – 1950. Có hàng đống điện văn đến bàn làm việc của ông từ tướng Hodge, van xin ông giúp hoặc có chỉ đạo: “Tôi khẩn khoản đề nghị ngài tham gia tích cực vào tình hình khó khăn …”. Faubion Bowers, một sỹ quan phụ tá quan trọng của MacArthur trong giai đoạn đó bởi anh biết tiếng Nhật, nhớ lại rằng tướng Hodge đã tự quyết định bay về Tokyo để gặp MacArthur, ông này phải đợi hàng giờ để gặp, và chỉ được lời khuyên là hãy tự lo.

    Tôi sẽ không đặt chân đến Triều Tiên. Đó là việc của Bộ Ngoại Giao”, MacArthur nói với Bowers lúc trên xe trở về nhà. “Họ đã muốn và đã làm điều đó. Họ có quyền. Tôi thì không. Tôi sẽ không dính vào đó. Cái đám ngoại giao khốn nạn đã gây chiến và chúng ta chiến thắng. Tại sao tôi lại nể mặt họ? Tôi sẽ không giúp Hodge. Hãy để chúng tự giúp nhau”. Chuyến thăm duy nhất của ông đến Nam Hàn nhân dịp lễ nhậm chức của tân tổng thống Lý Thừa Vãn, lúc đó ông khá ngẫu nhiên bảo với Lý Thừa Vãn – dù ông chưa có tham khảo ý ai ở Washington về lời hứa này – rằng Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Nam Hàn một khi bị tấn công “như thể điều chúng tôi sẽ làm với California”
    <P style=[/IMG]Những fan hâm mộ và cán bộ thuộc quyền ông đều đồng lòng mô tả ông là một người cường tráng đầy năng lượng hiếm có ở tuổi bảy mươi. Nhưng với những ai không thuộc nhóm đó thì đều lo ngại về vấn đề tuổi tác và sức khỏe của ông. Từ lúc Nhật Bản thua trận, năm 1945, thì các sỹ quan cao cấp bắt đầu lo lắng về ông. Tướng Joseph Stilwell, quan sát viên của lễ chấp nhận Nhật Bản đầu hàng trên tàu Missouri trong vịnh Tokyo, tháng 9 – 1945, đã bất ngờ nhận ra từ cú bắt tay tệ hại của MacArthur. Đầu tiên Stilwell nghĩ là do thần kinh kích động, nhưng tướng Walter Krueger, một trong các sỹ quan cao cấp của MacArthur đã xác nhận đó là do bệnh Parkison. Stilwell nghĩ: tệ thật. Còn có những dấu hiệu khác về việc sức khỏe ông suy giảm. Khả năng chú ý của ông bị hạn chế và thỉnh thoảng lẩn thẩn, ông chậm hiểu ra tính nghiêm trọng của những thách thức mới. Ông cũng bị lãng tai, và một số sỹ quan phụ tá am tường cho rằng ông không muốn họp hành bởi lý do đó. Một số khác thì tin rằng đó là lý do mà khách khứa thường phải chịu nghe ông độc thoại bởi ông không thể nghe người khác nói gì và không bắt kịp những cuộc nói chuyện tay đôi. Dù có già hay không, dù có đủ đáp ứng yêu cầu công việc ở cấp tư lệnh chiến trường hay không, thì ông vẫn là một biểu tượng, một phần thế lực chính trị to lớn. Có nhiều thăng trầm trong cuộc đời binh nghiệp lâu dài và nổi bật của ông, có lúc cực kỳ thông thái, nhưng cũng có lúc tệ hại, rất tự phụ nhưng cũng rất dễ dãi, có nhiều người phải trả giá cho những sai lầm của ông, nhưng riêng cá nhân ông thì đến năm 1950 vẫn là một hình tượng tuyệt vời, một tư lệnh nổi tiếng táo bạo trong thế chiến thứ nhất, một lãnh đạo quân sự tinh khôn trong cuộc chiến với quân Nhật ở Thái Bình Dương trong suốt thế chiến thứ hai với việc sử dụng thận trọng các lực lượng có giới hạn. Và trong thời điểm nổ ra chiến tranh Triều Tiên, là người thi hành một công việc đáng khâm phục : hiện đại hóa nước Nhật.
  7. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    MacArthur không để tâm đến Triều Tiên, thái độ với đất nước bất hạnh kia cũng tiêu biểu cho các đồng chí khác của ông trong nước. Triều Tiên không có bất cứ mối quan hệ nào với tiến trình chính trị lẫn tinh thần người Mỹ. Trong khi Trung quốc có sự quyết rũ lâu dài với người Mỹ, họ tò mò, họ cảm thấy sự thâm sâu của chủ nghĩa gia trưởng trong quan hệ với cái đói cái nghèo của người Trung Hoa. Với Nhật Bản thì khâm phục xen lẫn sợ hãi. Còn Triều Tiên, thì trái lại, không có chút hứng thú hoặc tý quan tâm nào, với người Mỹ. Một nhà truyền giáo tên là Homer Hulbert đã viết về người Triều Tiên như sau vào năm 1906: “dân đó thường dè bỉu nhau và không có mấy hấp dẫn. Họ không so được với người Hoa về số lượng, không bằng được người Nhật về tính dí dỏm. Họ cũng không phải là những thương nhân giỏi, và cũng không là chiến binh tài. Và sắc dân đó còn lâu mới là sắc dân thân thiện nhất ở phương Đông để cùng sống. Nhược điểm của họ trải dài cùng sự dốt nát khắp mọi nơi, và cơ hội cải tiến sẽ mang lại sự thay đổi hoàn cảnh nhanh chóng.” Bốn thập kỷ tiếp theo, sự quan tâm của người Mỹ cũng chẳng tăng được mấy. Người Nga tham chiến ở Thái Bình Dương muộn màng, và khi chiến sự đột ngột chấm dứt sau những tiếng nổ bom nguyên tử, Triều Tiên bị chia đôi ở vĩ tuyến 38, gần như là một việc đã rồi, sự phân chia này gần như rất ngẫu nhiên với lầu Năm góc. Các chỉ huy quân quản đầu tiên của Mỹ đến Triều Tiên tuyệt nhiên không biết chút gì về sự khó chịu của người dân với các ông chủ Nhật, không biết chút gì về sự chiếm đóng tàn bạo của người Nhật ở đây, và lúc đầu còn muốn dùng các lực lượng hiến binh Nhật để giữ trật tự cho người Triều Tiên. Với tướng Hodge, tư lệnh quân quản Mỹ đầu tiên sau chiến tranh, một quân nhân lỗ mãng, chẳng ưa cả người Nhật lẫn người Hàn, với ông thì “chúng tương tự cùng giống mèo như lũ Nhật”. Người Mỹ bắt đầu hiện diện ở Triều Tiên như vậy đó, rất ngẫu hứng và thực vậy bất cẩn; nhưng sự kiện này cũng mang đến một tay chơi mới điều khiển quỹ đạo của một đất nước có vị trí địa chính trị trọng yếu hơn là tài nguyên thiên nhiên vốn bị các cường quốc lân bang nhòm ngó từ nhiều năm nay. Như nhà sử học Bruce Cuming đã chỉ ra rằng: đó là vấn đề mới trong sự cân bằng vốn có, đó là sự xuất hiện của một thế lực mới, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Đó không phải là một vấn đề nhỏ ở những năm sau năm 1945 bởi người Nga đã có mặt, và rồi rất nhanh, bởi an ninh quốc phòng Nam Hàn dính liền với an ninh quốc phòng Nhật Bản.<P style=[/IMG]
    Cuộc hôn phối giữa Triều Tiên, mà nói cho chính xác là Nam Hàn với Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1945 dù không mấy quan trọng nhưng là một sản phẩm của Chiến tranh lạnh nên không phải là một chuyện dễ dàng
  8. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Cuộc hôn phối giữa Triều Tiên, mà nói cho chính xác là Nam Hàn với Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1945 dù không mấy quan trọng nhưng là một sản phẩm của Chiến tranh lạnh nên không phải là một chuyện dễ dàng. Nó mang đến một quốc gia phụ thuộc đầy giận dữ với niềm đau còn sót lại sau giai đoạn đô hộ mới vừa kết thúc và đắng cay với việc bị chia đôi bởi tay siêu cường mới nổi mà siêu cường này không chắc muốn làm vai trò của một đế chế. Với người Triều Tiên, việc kết thúc Thế chiến hai và chế độ thực dân Nhật đã không mang lại hơi thở của tự do và cơ hội xây dựng lại đất nước theo ý chí chính trị của họ, dù đây là hi vọng của phần lớn người dân. Việc từ một quốc gia duy nhất trở thành hai nước là một sự bất công, đau buồn trong mắt họ; hơn thế nữa khả năng phát triển đất nước theo định hướng riêng, theo cách riêng cũng không được chủ động mà một lần nữa rơi vào quyền điều khiển của quốc gia khác. Điều trước tiên người dân miền Nam nghĩ là đất nước họ, hay chính xác hơn là nửa phần đất nước họ hiện bị điều khiển bởi những con người xa lạ sống cách xa hàng ngàn cây số, ở bên kia bờ đại dương rộng lớn và hầu như không quan tâm, không hiểu biết gì cái đất nước mà họ định đoạt số mệnh. Mối quan hệ bắt đầu với sự căng thẳng và thiếu hiểu biết lẫn nhau như vậy đó. Chỉ khi Chiến tranh lạnh gia tăng mức độ mãnh liệt thì mối quan hệ đó mới trở nên chân thật, có giá trị và quan tâm nhau. Nếu không có sự đe dọa của Quốc tế CS, thì nước Mỹ chẳng quan tâm gì đến Triều Tiên; bởi vì mối nguy đó mà người Mỹ sẽ chiến đấu và sẽ chết.<P style=[/IMG]
    Triều Tiên là đất nước nhỏ bé, kiêu hãnh nhưng bất phước lại nằm cạnh ba cường quốc, lớn, mạnh và rất tham vọng: Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Mỗi quốc gia đó điều muốn dùng Triều tiên như một bàn đạp để tấn công hai nước kia khi cần hoặc làm tuyến phòng thủ từ xa trước cuộc tấn công của hai nước còn lại (nếu có). Rất lâu từ trước năm 1950, các láng giềng ghê gớm của Triều Tiên luôn xâm lược nước này mỗi khi họ tin đó là một biện pháp phòng vệ - một bước đi trước – chống lại các địch thủ kia. Vị trí địa – chính trị bất hạnh này chẳng khác gì vị trí của Ba Lan trong lòng châu Âu, giữa Đức và Nga, vị trí địa lý này góp phần không nhỏ trong số phận đất nước Triều Tiên. Như Lý Thừa Vãn – tổng thống Nam Hàn – luôn thích trích dẫn một câu ngạn ngữ cổ Triều Tiên là : “Một con tôm bị nghiến giữa cuộc chiến của những con cá voi”.

    Trong phần lớn giai đoạn lịch sử Triều Tiên, Trung Quốc luôn ảnh hưởng lên nước này nhiều nhất, hơn hẳn các quốc gia thù địch còn lại, nhưng kể từ cuộc chiến Nhật – Trung 1894-1895 Nhật trèo lên thay Trung Quốc, nước Nhật lúc này vừa trải qua công cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng kết hợp cùng chủ nghĩa quân phiệt, họ bắt đầu nổi lên thành một thế lực thống trị trong vùng – nỗ lực thành lập một đế quốc Nhật bản mới. Năm 1896, nước Nga – trong cố gắn che đậy sự thối rữa về chính trị - xã hội và kinh tế của mình – đã ký hiệp ước với một Nhật Bản hung hăng hơn về việc phân chia vùng ảnh hưởng ở Triều Tiên (trớ trêu thay) theo vĩ tuyến 38. Nếu Nga lúc đó là một quốc gia bề ngoài trông mạnh hơn thực tế, thì Nhật lúc đó lại ngược lại. Do đó, hiệp ước đó chỉ là một giải pháp tình thế.
  9. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Tháng Hai năm 1904, Nhật tấn công hạm đội Nga, và trên thực tế là đã hủy diệt hạm đội này trong trận eo Đối Mã; trận này diễn ra sau khi Nhật nện những đòn mãnh liệt lên quân Nga ở Thái Bình Dương và vùng Mãn Châu Lý. Người Nhật sau đó biện minh cho việc tấn công các lực lượng Nga ở Viễn Đông là do mối nguy từ vùng Triều Tiên do Nga kiểm soát gây ra. Rikitaro Fujisawa, một chính trị gia nổi bật của Nhật nói rằng: Nhật phải tấn công Nga bởi: “Vị trí Triều Tiên là một con dao găm, trỏ thẳng vào trái tim Nhật”, câu này cũng được lập lại gần nửa thế kỷ sau bởi hầu hết các quan chức an ninh quốc gia cao cấp Mỹ. Rikitaro còn thêm rằng: “Triều Tiên trong vòng kiềm tỏa của Nga, hoặc chỉ cần Triều Tiên yếu kém thì sẽ thành một miếng mồi ngon cho con đại bàng Nga thì lúc đó số phận của Nhật Bản sẽ nằm trong tay “Gã khổng lồ phương Bắc” vô đạo đức. Nhật Bản không thể chấp nhận số phận đó. Cuộc chiến Nga – Nhật không chỉ là một chiến phòng vệ mà sự đấu tranh của Nhật còn là vì sự tồn tại và độc lập của đất nước. Điều này quá rõ ràng không cần minh xác hay giải thích”. Đó là cách hay nhất để thanh minh cho một cuộc chiến gây hấn – người Triều Tiên, chứ không phải quỷ dữ, buộc họ làm điều đó.<P style=[/IMG]
    Dường như một phần trong định mệnh quốc gia Triều Tiên là việc không được lên tiếng nhiều về tương lai của chính mình. Trung gian hòa giải cho cuộc chiến Nga – Nhật không phải là người Triều Tiên mà chính là tổng thống Mỹ, Theodore Roosevelt, và ông đã có được giải Nobel hòa bình vì nỗ lực này, nhưng nỗ lực này chẳng có tý gì tốt đẹp cho người Triều Tiên. Roosevelt đại biểu cho một nước Mỹ mới, mạnh mẽ hơn và bắt đầu chứng tỏ mình là một xung lực đế quốc tiềm ẩn. Ông là người ủng hộ nhiệt tình của cuộc chiến Mỹ - Tây Ban Nha 1898 mà kết quả là Philippines thành thuộc địa Mỹ. Ông là người đàn ông đích thực trong thời đại đó: ông tin tưởng và thực tế đã phổ cập quan điểm rằng trách nhiệm của người da trắng, mạnh mẽ, tin cậy và xứng đáng cai trị thế giới không-phải-da-trắng không đáng tin và ít phẩm giá. Song song với đó, nghĩa vụ của phần thế giới không-da-trắng là phải chịu sự cai trị. Một quốc gia mà ông miễn trừ trong góc nhìn của mình với các nước châu Á và các dân tộc bản chất thấp kém hơn, đó chính là nước Nhật. “Người Nhật hấp dẫn thôi và tôi thích họ” ông viết cho bạn mình như vậy. Nhìn chung, trừ màu da, thể hình và kiểu mắt thì họ nguy hiểm như người Anglo-Saxon – chăm làm việc, kỷ luật, có tổ chức, mạnh mẽ theo cách của họ và xốc vác.

    Roosevelt ấn tượng tốt với Nhật vì đó là một quốc gia năng động mà ông hâm mộ “có quyền đứng hoàn toàn ngang hàng với tất cả các dân tộc khác của thế giới văn minh”. Tất cả những điều này đưa Triều Tiên, như theo cách nói của Robert Myers – một nhà văn cựu sỹ quan tình báo rất thành thạo về Triều Tiên, là: “ở vị trí không khác gì một con bê mới sinh, bất khả tự vệ trước con sói đế quốc Nhật”. Quốc gia duy nhất có thể tạo nên sự khác biệt đó là Mỹ thì ở rất xa. Thực tế là từ năm 1882 vương quốc Triều Tiên đã ký hiệp ước với Hoa Kỳ (và vài quốc gia Âu Châu khác) về việc hỗ trợ bảo vệ Triều Tiên khi bị tấn công. Vấn đề trợ giúp này hoàn toàn mang tính lý thuyết: Triều Tiên ở quá xa; còn hải quân Mỹ trong giai đoạn chiến tranh Nga – Nhật thì nhỏ bé một cách đáng buồn; và dù sao đi nữa thì Teddy Roosevelt cũng có các ưu tiên khác ở Á Châu hơn mà Triều Tiên không nằm trong số đó. Hoa Kỳ không lưu tâm đến việc giúp Triều Tiên mà dành điều đó cho Phillipines thuộc địa mới của mình. Và với việc lờ đi hiệp ước của người Mỹ, Nhật bản được phép điều khiển Triều Tiên chặt chẽ hơn dưới danh hiệu “chính phủ bảo hộ” sau cuộc chiến Nga – Nhật, vào rồi đến năm 1910, sáp nhập một cách trơ tráo, công khai thành một thuộc địa hoàn toàn của Nhật.
  10. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Bởi tiếng Anh lưu loát, nên thanh niên Lý Thừa Vãn được chọn trong số các đồng bào tham gia chuyến viếng thăm Theodore Roosevelt vào mùa hè 1905, khi vị tổng thống này đang làm nhiệm vụ trung gian cho hòa ước Nga – Nhật. Họ Lý xin Roosevelt giúp để Nhật bản không đô hộ nước ông. Theo nhà báo – sử gia Joseph Goulden, thì Roosevelt đã nói với họ Lý theo kiểu: “lịch thiệp nhưng rõ ràng nước đôi”. Roosevelt thừa hiểu các thành phần ủng hộ Nhật bản trong sứ quán Triều Tiên tại Washington cũng sẽ không giúp gì cho họ Lý; và ông cũng không thèm báo, ngay trong khi họ đang trao đổi, thì Ngoại trưởng Mỹ William Howard Taft trên đường tới Tokyo để thống nhất một hiệp định bí mật dành quyền cho người Nhật ở Mãn Châu Lý và Triều Tiên, đổi lại người Nhật sẽ để Mỹ hoàn toàn tự do ở Phillipines. Không có gì ngạc nhiên khi Lý Thừa Vãn trở nên quá kích động và hay ngờ vực, trong mắt những đồng minh người Mỹ của ông. Nước Mỹ đã phản bội ông nhiêu hơn một lần và dối ông một cách có hệ thống. Rốt cuộc thì người Nhật – đổi tên Korea thành Chosen (*) - cũng bắt đầu một giai đoạn thực dân đô hộ tàn bạo gần bốn mươi năm. Còn Hoa kỳ, theo hồi ký của Roosevelt, không thể làm gì “cho người Triều Tiên thứ mà họ hoàn toàn không thể tự làm”. Chế độ thực dân Nhật ở Triều Tiên là một trong các chế độ tàn bạo một cách bất thường, nhưng nó không được mấy chú ý bên ngoài biên giới nước này.<P style=[/IMG]
    Bản thân Lý Thừa Vãn sống ở Mỹ, và có được sự giáo dục rất tốt so với người Triều Tiên cùng thế hệ, ông nằm trong nhóm người Triều Tiên được tin cậy và có một số quan hệ với vài nhân vật ở Mỹ, những nhân vật này có mối liên quan thông qua tôn giáo, để từ đó tiếp cận đến các chính khách có ảnh hưởng. Những mối quan hệ này giúp Lý Thừa Vãn có cơ hội gặp gỡ và đưa ra vấn đề độc lập cho nước ông, nhưng ông vẫn luôn cảm thấy ảnh hưởng thực tế là không cao. Ông học ở trường Princeton để lấy bằng tiến sỹ khoa học chính trị và được ngài Woodrow Wilson yêu quí (*). Họ Lý là một thành viên có mặt thường xuyên trong các buổi tụ tập thân mật do nhà Wilson tổ chức, họ vây quanh gia đình Wilson, đánh piano và hát hò. Lý Thừa Vãn không hát, nhưng ông thích cái không khí ấm áp không nghi thức của buổi ăn tối kiểu Mỹ, còn ngài Wilson thì vừa thích vừa khen họ Lý và giới thiệu ông với những người chưa quen với tư cách là “nhân vật cứu rỗi cho nền độc lập Triều tiên trong tương lai

    (*) Chosen là cách phát âm theo tiếng Nhật của Joseon (âm Hán – Việt là Triều Tiên mà TNL sử dụng dịch thống nhất cho từ Korea trong loạt bài này), còn tại thời điểm bị Nhật đổi tên, thì danh xưng chính thức là Daehan Jeguk – Đại Hàn Đế quốc – do vua Gojong (Cao Tông) đặt từ 1897. Nhìn chung trong lịch sử Korea có 3 tên chủ yếu là: Joseon (Triều Tiên) được dùng dài nhất , rồi đến Goryo (Cao Ly) và Deahan (Đại Hàn) hay Hanguk (Hàn quốc do viết tắt từ Daehan minguk – Đại Hàn Dân quốc)

    (*) Woodrow Wilson là tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ và là cựu chủ tịch trường Princeton
    Lưu ý: các giải thích (*) là do người dịch tự chú giải, không phải nguyên bản trong sách, nếu có sai sót xin các bạn hiệu đính.

Chia sẻ trang này