1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Con Rồng cháu Tiên nên biết

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi caytrevietnam, 25/04/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Con Rồng cháu Tiên nên biết

    Đây là danh sách các vua Hùng và 1 số thông tin có liên quan, (theo Ngọc phả đền HÙNG). Xin cung cấp cho bà con tham khảo

    Theo ghi chép của Ngọc phả đền Hùng (Hùng triều ngọc phả) thì họ Hồng Bàng truyền được 18 đời, gồm các vua:
    1. Hùng Dương Vương (tức Kinh Dương Vương)
    2. Hùng Hiền Vương (tức Lạc Long Quân)
    3. Hùng Quốc Vương
    4. Hùng Việp Vương
    5. Hùng Hy Vương
    6. Hùng Huy Vương
    7. Hùng Chiêu Vương
    8. Hùng Vỹ Vương
    9. Hùng Định Vương
    10. Hùng Úy Vương
    11. Hùng Trinh Vương
    12. Hùng Vũ Vương
    13. Hùng Việt Vương
    14. Hùng Ánh Vương
    15. Hùng Triều Vương
    16. Hùng Tạo Vương
    17. Hùng Nghị Vương
    18. Hùng Duệ Vương
    Ngoài ra Ngọc phả còn chép Hùng Kinh Vương là con Hùng Duệ Vương, ông làm vua được 6 năm thì mất, có lẽ do ngắn ngủi qúa nên không được tính vào danh sách các đời vua Hùng. Xung quanh vấn đề này, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng con số 18 không phải là 18 đời vua Hùng mà là 18 ngành, mỗi ngành gồm nhiều đời vua. Ý kiến khác nói, với người Việt số 9 là con số thiêng nên các bội số của nó như số 18 cũng thiêng tương tự như vậy, do đó con số 18 đời Hùng Vương chỉ là con số biểu trưng, ước lệ mà thôi?

    THÔNG TIN VỀ CÁC VUA HÙNG
    1. Kinh Dương Vương (Hùng Dương Vương) tên húy là Lộc Tục, làm vua 215 năm, tuổi thọ: 260, số con trai: 24, số con gái: 20, số chi là: 36, số cháu chắt là: 596
    2. Lạc Long Quân (Hùng Hiền Vương) tên húy là Sùng Lãm, làm vua 400 năm, tuổi thọ là: 506, số con trai: 186, số con gái: 29, số chi: 141, số cháu chắt: 3599
    3. Hùng Quốc Vương, tên húy là Lân Lang, làm vua 221 năm, tuổi thọ: 260, số con trai: 33, số con gái: 10, số chi: 51, số cháu chắt: 900
    4. Hùng Việp Vương, tên húy là Bảo Lang, làm vua 300 năm, tuổi thọ: 646, số con trai: 49, số con gái: 20, số chi: 59, số cháu chắt: 1591
    5. Hùng Hy Vương, tên húy là Viên Lang, làm vua 200 năm, tuổi thọ: 599, số con trai: 52, số con gái: 9, số chi: 61, số cháu chắt: 1600
    6. Hùng Huy Vương, tên húy là Pháp Hải Lang, làm vua 87 năm, tuổi thọ: 500, số con trai: 33, số con gái: 19, số chi: 52, số cháu chắt: 599
    7. Hùng Chiêu Vương, tên húy là Lang Liêu Lang, làm vua 200 năm, tuổi thọ: 692, số con trai: 23, số con gái: 36, số chi là: 59, số cháu chắt: 750
    8. Hùng Vỹ Vương, tên húy là Thừa Vân Lang, làm vua 100 năm, tuổi thọ: 642, số con trai: 31, số con gái: 16, số chi: 47, số cháu chắt: 579
    9. Hùng Định Vương, tên húy là Quân Lang, làm vua 80 năm, tuổi thọ 602, số con trai:39, số con gái: 9, số chi: 42, số cháu chắt: 599
    10. Hùng Úy Vương, tên húy là Hùng Hải Lang, làm vua 90 năm, tuổi thọ: 512, số con trai: 29, số con gái: 30, số chi: 50, số cháu chắt: 434
    11. Hùng Trinh Vương, tên húy là Hưng Đức Lang, làm vua 107 năm, tuổi thọ: 514, số con trai: 46, số con gái: 18, số chi: 64, số cháu chắt: 409
    12. Hùng Vũ Vương, tên húy là Đức Hiền Lang, làm vua 96 năm, tuổi thọ: 456, số con trai: 50, số con gái: 6, số chi: 56, số cháu chắt: 305
    13. Hùng Việt Vương, tên húy là Tuấn Lang, làm vua 105 năm, tuổi thọ: 502, số con trai: 27, số con gái: 30, số chi: 47, số cháu chắt: 541
    14. Hùng Ánh Vương, tên húy là Chân Nhân Lang, làm vua 99 năm, tuổi thọ: 386, có 18 con trai, 22 con gái, số chi là: 40, số cháu chắt: 309
    15. Hùng Triều Vương, tên húy là Cảnh Chiêu Lang, làm vua 94 năm, tuổi thọ: 286, có 40 con trai, 16 con gái, số chi: 56, số cháu chắt: 399
    16. Hùng Tạo Vương, tên húy Đức Quân Lang, làm vua 92 năm, tuổi thọ: 273, số con trai: 30, số con gái: 7, số chi: 37, số cháu chắt: 319
    17. Hùng Nghị Vương, tên húy là Bảo Quang Lang, làm vua 160 năm, tuổi thọ: 217, có 22 con trai, 15 con gái, số chi: 37, số cháu chắt là: 291
    18. Hùng Duệ Vương, tên húy là Huệ Lang, làm vua 150 năm, tuổi thọ: 221, có 20 con trai, 6 con gái (nhưng đều mất sớm, chỉ còn hai con gái là Tiên Dung và Ngọc Hoa), số chi: 26, số cháu chắt: 194

    NGUYỆN CẦU HỒNG ÂN CỦA TỔ TIÊN LINH THIÊNG PHÙ HỘ CHO CON CHÁU SỨC MẠNH, NIỀM TIN, NGHỊ LỰC ĐỂ CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG TẤT CẢ, ĐỂ XÂY ĐẮP NÊN NON NƯỚC LẠC HỒNG NGÀY CÀNG HÙNG CƯỜNG, GIÀU MẠNH
    "ƠN QUỐC TỔ TRỜI CAO KHÓ SÁNH
    NGHĨA ĐỒNG BÀO BIỂN RỘNG KHÔN SO"
  2. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Ở đền Hùng có lăng vua Hùng. Ở Vân Nội, Hà Tây còn có cả mộ của Kinh Dương Vương nữa kia, không biết có phải thật không, hay ngày xưa các cụ cũng dùng ngoại cảm hay năng lực siêu nhiên nào khác để tìm mộ của người xưa.
  3. YoutaMoutechi

    YoutaMoutechi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    967
    Đã được thích:
    0
    Khoa học vãi, nhưng sao các cụ nhà mình lại vẫn cứ kém thọ hơn ông Bành Tổ bên Tàu là thế nào ? Sao các bác còn không mau sửa đi, sao lại để bọn ba khựa trèo lên cổ thế được, hỏng, con Lạc cháu Hồng hỏng
  4. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Đến bây giờ mình mới biết là có đến 18 đời Hùng Vương đấy các bác ạ.
    ?oĐừng tin vào kinh sách cổ viết bằng tay, đừng tin vào một điều mà dân tộc mình tin hay làm cho mình tin từ lúc nhỏ. Đối với tất cả mọi điều, đều phải áp dụng lý trí. Sau khi phân tích, nếu thấy những điều ấy tốt cho mọi người và cho mỗi người, thì hãy tin nó, sống cho nó và giúp cho người khác cùng sống như vậy?.
    Hô hào chả ăn thua gì đâu!!!
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 16:33 ngày 25/04/2007
  5. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Người xưa sống thọ thật .
    Mà không hiểu sao mấy ông làm Ngọc phả lại có nhiều thông tin về các vua đến như vậy? Tên huý thì còn dễ hiểu vì là tên gọi? Chứ làm vua bao nhiêu năm, thọ bao nhiêu tuổi, có bao nhiêu con, cháu, chắt thì tính kiểu gì?
    Được Pagan sửa chữa / chuyển vào 16:44 ngày 25/04/2007
  6. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Cái gọi là "Hùng triewèu ngọc phả" này (chứ không phải Ngọc phả ở Đền Hùng) là do Nguyễn Như Đỗ sống vào thời nhà Lê ghi lại. Tài liệu này mang đậm luồng tư tưởng phong kiến thần quyền và ảnh hưởng của Đạo Giáo và Khổng Giáo:
    - Các "Vua" đều có tên hiệu.
    - Nối ngôi kiều cha truyền con nối.
    - CHứng minh dòng dõi vua Hùng ở VN cũng có thể sánh cùng với các vua nhà Chu bên TQ bằng cách ghép KDV và LLQ vào. Lưu ý là ngoài tài liệu này thì không có 1 tài liệu nào khác ghép như thế. Hơn nữa, theo truyền thuyết thì Hùng Vương thứ 1 là con trai trưởng của LLQ và Âu Cơ chú không phải KDV.
    Bản "Ngọc Phả" này chỉ là 1 trong số hàng chục, hàng trăm bản ngọc phả hay thần tích khác được lưu truyền trong dân gian về thời đại Hùng Vương. Phân tích sơ sơ thế để các bạn có thể thấy mức độ chân thực của tài liệu kiểu này.
    Các bạn có thể đọc bài viết sau để thấy bản Hùng Triều Ngọc Phả này này nhuốm màu sắc thần bí thế nào: http://www.khoahoc.net/baivo/thanhvan/120106-lichsuvietnam.htm
    (Dạo này bàn về cổ sử không thôi mà Box đã có quá nhiều topic trùng lặp. Mod xem lock bớt lại đi chứ)
  7. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Danh sách 100 người con trai từ bọc trăm trứng
    Lân Lang làm vua
    49 người con theo cha Lạc Long Quân là:
    Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yên Lang, Tiên Lang, Diên Lang, Tích Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tân Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũng Lang, Aác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Châm Lang, Tường Lang, Chóc Lang, Sáp Lang, Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiêu Lang, Hoạt Lang, Điển Lang, Thành Lang, Thuận Lang, Tâm Lang, Thái Lang, Triệu Lang, Iích Lang.
    50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là:
    Hương Lang, Kiểm Lang, Thần Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Hắc Lang, Thịnh Lang, Quân Lang, Kiêm Lang, Tế Lang, Mã Lang, Chiến Lang, Khang Lang, Chinh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Phiên Lang, Xuyến Lang, Yến Lang, Thiếp Lang, Bảo Lang, Chừng Lang, Tài Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lô Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào Lang, Ngyuệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Cánh Lang, Ôốc Lang, Lôi Lang, Châu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tòng Lang, Tuấn Lang, Thanh Lang.
    Nước Văn Lang:
    Thời đại Hùng Vương tồn tại khoảng 2000 năm trước công nguyên (tính tới nay gọi là 4000 năm văn hiến). Chia làm hai thời kỳ.
    * Thời kỳ bộ lạc khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên trở về trước, ứng với văn hóa Đồng Đậu - Phùng Nguyên.
    * Thời kỳ dựng nước Văn Lang khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên đến giữa thế kỷ 3 trước công nguyên ứng với văn hóa Gò Mun - Đông Sơn.
    Nước Văn Lang do 15 bộ lạc hợp thành là: Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Cửu Đức, Chu Diên, Tân Xương, Bình Văn, Kê Từ, Bắc Đái (theo VSL).
    Cương vực này tương đương Bắc Bộ và Trung bộ ngày nay dân số nước Văn Lang khoảng 1 triệu người.
    Mô hình xã hội
    - Đứng đầu đất nước là vua Hùng thế lập cha truyền con nối.
    - Giúp việc bên cạnh vua có các quan Lạc hầu (gọi là Hồn)
    - Lạc tướng là chức quan cai quản một bộ (tức bộ lạc cũ).
    - Dưới Lạc tướng là chức Bồ chính đứng đầu các làng, bản.
    - Dân gọi là Lạc dân - Lạc dân làm kinh tế gia đình nộp tỷ lệ nhỏ sản phẩm cho Nhà nước. Nghề chính là cấy lúa nước kết hợp với chăn nuôi trâu bò, lợn gà, đánh cá, săn bắn. Ngoài ra còn có các nghề thủ công như làm gốm, chế tác đồ đá, đan lát tre nứa, đan lưới, dệt vải, nấu đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền, sản xuất đồ gỗ, đồ mỹ nghệ v.v... Đã xuất hiện một bộ phận làm nghề buôn bán đổi chác.
    - Có một tỷ lệ nhỏ nô tỳ (gọi là xảo xứng thần bộc nữ lệ) phục vụ gia đình quí tộc. Ơở nước ta không thiết lập chế độ chiếm hữu nô lệ, đại đa số dân trong nước là dân tự do tức Lạc dân. Quan hệ giữa Vua Hùng và Lạc dân rất gần gũi "cùng cày ruộng, cùng tắm sông, cùng săn bắn, cùng xem hội" sử cũ gọi là "đời hồn nhiên" (Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 15).
    Kinh đô Văn Lang:
    Triều Hùng Vương đóng đô ở thành Văn Lang (nay là Việt Trì, Phong Châu). Tập truyền rằng.
    - Cung điện nhà vua dựng ở Gò Làng Cả thôn Việt Trì (khu Mì chính).
    - Tháp Lọng là nơi các Lạc hầu ở.
    - Cẩm Đội (Thụy Vân) đặt trường huấn luyện quân sĩ.
    - Nông Trang là nơi đặt kho thóc của nhà vua.
    - Chợ Lú là chợ mua bán lúa gạo.
    - Đồng Lú Minh Nông là xứ đồng vua dạy dân cấy lúa nước.
    - Gò Tiên Cát là nơi dựng lầu kén chồng cho các công chúa.
    - Xứ đồng Hương Trầm hoàng tử Lang Liêu trồng lúa nếp thơm, làm bánh dày, bánh chưng.
    - Lầu Thượng, Lầu Hạ là khu lầu các vợ con vua ở.
    - Thậm Thình là tiếng tượng thanh nhắc lại làng đó có lần giã gạo mấy ngày đêm, dâng vua.
  8. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Niên biểu thời dựng nước
    - 2070 triệu năm trước: Thành tạo núi Nghĩa Lĩnh
    - 50 triệu năm trước: Kiến tạo các sông Hồng, Lô, Đà với những đồi núi, đồng bằng, đầm hồ, xuất lộ bộ mặt địa hình Vĩnh Phú, trong đó có dãy đồi 99 con coi chầu về đất Tổ.
    - Khoảng 1,5 vạn năm cách đây các dải đồi hai bên bờ sông Thao có mấy chục thị tộc người nguyên thủy cư trú. Họ là chủ nhân nền văn hóa hậu kỳ đồ đá cũ Sơn Vi.
    - Trên một vạn năm đến 8000 năm cách dãy biển tiến sau băng hà Vuyếc-mơ, tràn vào ngập toàn bộ đồng đằng và vùng thấp ven đồi núi. Người nguyên thủy Sơn Vi tạm lánh lên vùng núi Hòa Bình - Bắc Sơn.
    - Khoảng 6000 năm cách đây nước biển rút khỏi đồng bằng. Sau đó trải hàng ngàn năm mưa lũ thau chua rửa mặn và phù sa màu mỡ các con sông bồi đắp làm hồi sinh thảm thực vật. Quần thể động vật như chim thú, cá tôm nhuyễn thể trở nên sầm uất, tạo nên môi trường sống hết sức thuận lợi cho con người.
    - Khoảng 2000 năm trước công nguyên có 15 bộ lạc Việt cổ sinh sống trên đồng bằng và trung du Bắc bộ. Trong số này bộ lạc Văn Lang của thủ lĩnh họ Hùng nhờ địa lợi tuyệt đối của vùng ngã ba sông Hồng, Lô, Đà trở nên lớn mạnh.
    - Khoảng hơn 1000 năm trước công nguyên, thủ lĩnh Văn Lang đứng lên thành lập nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc. Ông được suy tôn là Hùng Vương.
    - Năm 258 trước công nguyên Vua Hùng thứ 18 nhường ngôi cho cháu họ xa là Thục Phán.
    - Năm 179 trước công nguyên An Dương Vương đánh bại cuộc xâm lược của Triệu Đà - Đà lập kế cho con trai sang ở rể lấy cắp nỏ thần. Tướng Đinh Công Tuấn can ngăn An Dương Vương không được bèn cáo quan về quê lập sẵn đồn ải ở Aá Nguyên để chống Triệu Đà. Bên kia sông Hồng các tướng họ Hà cũng lập đồn ở Bì Châu. Nghĩa quân chống Triệu được một thời gian.
    - Năm 111 trước công nguyên nhà Hán tiêu diệt nhà Triệu cướp nước Nam Việt.
    Thừa tướng Triệu là Lữ Gia bỏ kinh Phiên Ngung sang liên lạc với các thổ bào bộ Văn Lang lập căn cứ ở Long Động Sơn (Lập Thạch) chống nhà Hán được mười năm.
    - Năm 40 Hai Bà Trưng cháu Vua Hùng dấy nghĩa binh đánh đuổi thái thú Tô Định nhà Hán. Hai bà lên đền làm lễ tế cờ khấn rằng:
    Một xin rửa sạch nước thù.
    Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng.
  9. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội đền Hùng thời phong kiến
    Lễ hội là một hình thức tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa dân gian của một cộng đồng người có cuộc sống định cư bền vững.
    Khác hẳn với lễ hội của làng xã chỉ tiến hành với dân cư trong làng xã, lễ hội Đền Hùng được tiến hành với sự tham gia của nhân dân cả nước. Nhưng về chủ thể việc cúng giỗ vua Hùng do 3 cấp tiến hành: của Nhà nước phong kiến, của các làng xã sở tại và của từng người. Nhà nước phong kiến tiến hành lễ tế (quốc tế) vào ngày 12-3 âm lịch là ngày giỗ Vua Hùng thứ nhất (Kinh Dương Vương). Lệ này cứ 5 năm một lần vào năm chẵn (ví dụ 1900 - 1905) gọi là hội chính. Năm ấy, ngay từ tháng giêng, người ta đã treo lá cờ thần trên đỉnh núi Nỏn báo cho đồng bào xa gần biết. Phẩm vật tế lễ do dân Trung Nghĩa (Hy Cương - Chu Hóa) phải lo, gọi là dân Trưởng tạo lệ. Vì là dân sở tại nên triều đình giao cho nhiệm vụ trông nom đền miếu và phục vụ ngày giỗ Tổ. Bù lại, Nhà nước miễn cho khoản sưu thuế phu phen. Ngoài ra còn được cấp thêm chi phí lấy từ thuế điền thổ của hạt Sơn Hưng Tuyên. Sau khi đã tiến hành quốc tế thì đến lượt các làng xã xung quanh Đền Hùng tế lễ. Đó là những nơi thờ vua Hùng và vợ con của các vua. Chính các cuộc hành lễ của lành xã mới tạo nên sự xúc động tâm linh mạnh mẽ hướng về cội nguồn. Có khoảng 40 làng rước kiệu từ đình làng mình tới chầu, tất cả đều được đặt ở chân núi để chấm giải. Kiệu nào nhất thì lần sau được rước lên đền Thượng. Kiệu rước lên kỳ này đã chiếm giải nhất kỳ trước. Được thay mặt cả đoàn kiệu đứng tế Tổ rước lên đền Thượng rất vinh dự. Đây là một hoạt động tín ngưỡng rất tôn nghiêm và vui vẻ. Một đám rước như vậy tổ chức hết sức công phu, gồm 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Kiệu được sơn son thiếp vàng đục chạm rất tinh vi. Thân kiệu là 2 con rồng dài gần 4m do 16 người khiêng. Cỗ đi đầu bầy hương hoa, đèn nến, trầu cau, bình nước và nậm rượu. Cỗ thứ hai rước nhang án bài vị thánh, có lọng che. Cỗ thứ ba rước bánh dày, bánh chưng (hoặc xôi), thủ lợi luộc (hoặc cả con). Đi trước nhất là viên quan dịch loa cầm loa quả bầu báo cho nhân dân hai bên đường và khách bộ hành biết có kiệu sắp tới để họ nghênh xem hoặc thu xếp dọn dẹp những gì trở ngại khiếm nhã. Thứ ba đến là phường chèo dóng đường. Tiếp theo là chiêng trống nện theo nhịp "Tùng boong" hoặc "tùng tùng boong boong". Dịch loa, phường chèo và chiêng trống có thể xem là một ê kíp tiền trạm. Ê kíp chính của đám rước gồm người vác lá cờ thần dẫn đầu 8 người vác cờ đuôi nheo, 8 người các bát bửu. Ông chủ tế mặc áo hoàng bào thụng kiểu nhà vua đi trước, các quan viên chức sắc chia nhau hộ giá trước và sau kiệu. Riêng kiệu nhang án có phường bát âm tấu nhạc hầu thánh đi hai bên. Trừ phường bát âm mặc thường phục cổ điển (quần trắng áo the khăn xếp) còn các quan viên rước kiệu đều ăn mặc phỏng theo lối quan văn võ trong triều.
    Cũng nằm trong lễ thức tại đền Hùng còn có tiết mục hát Xoan. Hát Xoan xưa gọi là hát Xuân, vì kiêng tên bà Lê Thị Lan Xuân vợ vua Lý Thần Tông người Hương Nộn (Tam Thanh) nên gọi chệch là hát Xoan. Bà là người yêu thích hát Xoan, đã có công giúp phường hát xoan hoạt động. Điệu múa hát này vốn lưu hành ở ngã ba sông Hồng, Lô, Đà từ thời Hùng Vương, đến triều Lý được các bà hoàng hậu công chúa ưa thích, đặc biệt là bà Lan Xuân cho sưu tầm tổ chức thành điệu hát lễ ở một số đình đền thờ Vua Hùng. Đêm hát Xoan kéo dài từ chập tối đến sáng, trình diễn một bài bản có 3 phần: năm đoạn lề lối; 14 đoạn quả cách và 8 đoạn nam nữ đối đáp. Đội Xoan có 6 năm 12 nữ trẻ đẹp hát bằng nhiều giọng hát khác nhau, có lúc dùng điệu bộ chân tay, có lúc múa nhảy, kèm theo trống phách đưa đệm.
    Trên đây là miêu tả sơ bộ phần lễ, có thể xem là hạt nhân của hội. Hành động Hội là một tổng thể nhiều khía cạnh gây nên hưng phấn cho người có mặt bao gồm lễ thức, trò chơi, văn nghệ, mua bán hàng hóa, ăn uống và kể cả con người (con người góp vào đấy bộ mặt tươi tỉnh, áo quần diện đẹp và sự đông đúc, ồn ào). Dân địa phương bán hoa quả, quà bánh, cơm phở, nước sôi gần như phục vụ chính, chỉ tính một chút công làm lãi. Tối đến, ít người về nhà dù ở gần, tục lệ là ngủ lại. Bởi vậy họ đi chơi cho mệt rã rời rồi tiện đâu ngủ đấy. Giữa bầu không khí cởi mở ấy là hàng loạt trò chơi, văn nghệ biểu diễn ngày cũng như đêm, tự do thưởng thức không mất tiền. Ban khánh tiết chỉ cần treo lên ít giải thưởng làm vui là các làng xã tự đem đến gà chọi, bịt mắt bắt dê, kéo co, bắn nỏ thi, kéo lửa nấu cơm thi, ném còn, đấu vật, cờ người. Cờ người dùng người thật làm quân, từ tướng sĩ, tượng, xe, pháo, mả đến tốt đều là các cô thanh nữ xinh đẹp. Lứa tuổi thanh niên túm tụm nhau trên các ngọn đồi trổ tài hát ví, hát trống quân, sa mạc, cò lả... các cụ già lại thích nghe nghệ sĩ dân gian hát xẫm, kéo nhị, hồ. Nghe xong thưởng ít tiền.
    Ban đêm bao giờ cũng có hát chèo tuồng ở các bãi rộng. Phường chèo tuồng đón ở các rạp về hoặc tự họ xin đến. Cũng có cả các đoàn nghiệp dư của làng xã đến trổ tài ở Hội. Tất cả các đoàn đó được ban khánh tiết cho ăn cơm cá thịt và ít tiền lộ phí, biểu diễn cho toàn dân xem không bán vé. Nói chung đi tới Hội là không khí cởi mở thân thương tha thiết nghĩa tình.
    Không có những trò chơi, những tiết mục văn nghệ lố lăng ầm ĩ trái với bầu không khí trang nghiêm, sâu lắng hướng thượng.
    Lễ hội đền Hùng xưa kéo dài từ mồng 7, mồng 8 tới 16,17 tháng ba âm lịch. Kể từ năm 1922 Đền Hùng được xây dựng quy mô như hiện có, nhà Nguyễn quyết định lấy ngày 10-3 triều đình tế lễ, sau đó để làng xã tế lễ. Bởi vậy cách đây khoảng 30 năm, một nhà thơ dân gian người Phú Thọ làm bài ca đăng báo địa phương có câu:
    Dù ai đi ngược về xuôi
    Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
    Câu ca dao này diễn ra đúng tâm lý nên trở thành cố định trong lòng mỗi người Việt Nam từ Bắc chí Nam, tưởng như tự ngàn xưa để lại.
    theo www.binhthuan.gov.vn
  10. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Cái danh sách này bác lô ở đâu ra thế? Chắc là do các sử gia phong kiến sau này ngồi đặt tên cho các cụ rồi (vì cách đăt tên là theo kiểu Hán chứ không phải kiểu Nôm). Bác nên nhớ người làm ra Bánh chung Bánh dầy tên là LANG LIÊU chứ không phải LIÊU LANG.
    Đoạn này có nhiều chỗ được viết theo đúng tư tưởng và mô hình kinh thành/ tổ chức xã hội của 1 nhà nước phong kiến có phân chia giai cấp rạch ròi. Điều này trái với những gì gọi là "Đời hồn nhiên"
    Những tư liệu mà chúng ta có ở trên lấy từ các truyền thuyết dân gian và nghiên cứu dân tộc học mà có nnhưng khi nghiên cứu những tài liệu này chúng ta cần biết gạn lọc ra những ý tưởng, những quan niệm và dấu ấn của các người đời sau thêm thắt vào truyền thuyết của đời trước, bạn ạ.
    Thân

Chia sẻ trang này