1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Công nghệ nhà máy điện hạt nhân Việt Nam (sắp xây dựng) và tính toán dài lâu cho nền quốc phòng quốc

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vannienthanh, 19/09/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Khà khà, con bệnh tâm thần lại sư dụng cạn giấy toa let để viết hịch roài. Quả này kiếm cái dây thừng mà chùi thay vậy.
    Đây nói rồi mà con bệnh rất thích đồ bẩn cứ thích ngậm để phun người. Đây chỉ đồng ý với bác Lân là cái nào ổn định, an toàn đã được kiểm nghiệm trong thực tế lâu dài thì nên theo. Trình Vịt còi đừng ham mấy cái gọi là công nghệ mới. Các vấn đề khác bác Lân nói đây không bình luận.
    cho con bệnh tâm thần vài VD: ô tô tạm coi do ngưòi Đức phát minh, TV cũng Đức, nhiếp ảnh từ Pháp. Nói tạm là vì trước đấy các nghiên cứu cơ sở nhiều nước khác tiến hành rồi. Thế nhưng xe ô tô, TV, máy ảnh bán chạy nhất trên thế giới thì có Nhật, Hàn là 2 thằng chẳng phát minh ra cái mịa gì.
    Vậy nên không cứ thằng phát minh ra là ngon hơn thằng đi sau con bệnh hiểu chửa? cái chính đây nói rồi. Mức độ làm chủ công nghệ và phát triển thêm những cái mới + giá là chính
    Mấy cái lò hột nhưn ở VN sẽ là miếng bánh mang ra mặc cả về kinh tế-chính trị thôi con bệnh hiểu chửa. Thằng thắng thầu là thằng sẽ phải lại quả VN cái gì đấy. Nga, Pháp, Nhật, Mỹ gì cũng thế thôi.
    Còn thằng này không thích hột nhưn hột táo lắm nên cũng chẳng thèm Guc để đọc trực tiếp làm cái gì. Con bệnh tâm thần cứ tiếp tục phun phì phì đi. Nhưng thực tế nó đập vào mõm rồi đấy.

  2. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Giống bò cứ cậy da mẹt dầy. Thế thớ hỏi câu chi bạn bò đã giả nhời chửa nhể. Nhái, nhái của nhái, lại nhái nhái của nhái thì đại bàng sống seo .
    [​IMG]
    http://www.gidropress.podolsk.ru/English/angstrem_e.html
    http://www.gidropress.podolsk.ru/English/rasrab_e.html
    Cái lò của MM thì nóng đấy
    Còn lò chì thì khác. Riêng cái tính chất tự tái sinh, Thạch Sanh, thì nó đảm bảo nhiều thứ. Ở đây, có một số loại lò, riêng trong yêu cầu ở các vùng động đất sóng thần, việc lâu phải thay đảo đã là một giá trị lớn. Khí mà hàng chục năm sau mới khôi phục giao thông, trong khi vẫn có điện cấp cứu, bệnh viện hay đơn giản là liên lạc.
    Thời gian thay đảo ở các lò cho tầu Anpha đã quá đủ (ít là 3 năm, dâng lên 7-15 năm, thừa từ 2-15 lần xử lý động đất sóng thần). Trước đây, thay đảo rẻ vì nhân công rẻ, nay không cần động đất sóng thần thì sức cạnh tranh đã tăng tự nhiên rùi.
    Thật ra, ở thành phố nhỏ, mà không tốn nhiên liệu đốt điện, thì chả cần động đất, cạnh tranh cũng hay nhể. Sức cạnh tranh vẫn còn vì bên Gấu, các lò nhỏ vẫn là lò nước sôi, không ứu việt, nhưng hiện có.
    Trong hình là một lò chì cỡ 6MW. SVBR-10 (10 MW) cũng đang cạnh tranh trên bè.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 20:08 ngày 13/04/2010
  3. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Giả vờ lịch sự như Pháp được một lúc thì mỏi hết cả quai hàm, các chí các nở, các AQ tuôn ào ạt bựa cố hữu cổ truyền, nhể. Đấy, làm người lịch sự nó khổ thía. Lại giả vờ làm Vịt được chút xíu, các giống chó ăn thịt đồng loại tự lột vỏ, nhờ, lộ nguyên mõm chó, nhờ. Đấy, làm chó nó dễ quá, nhờ, làm Vịt không dễ, nhờ.
    Hề, cái con số 4 ngàn lò HT-9 với giá 20-30m mỗi cái không gây ấn tượng nèo với chó, nhờ. Lại toi công ngu dân chế liệt não rùi. Ấy, tai nạn nghề nghiệp nó thế, còn có tẹo não thôi để điều khiển cơ hàm thì liệt não vẫn còn nhai phân vịt được, chứ liệt hết cả não thì liệt nốt cả cơ hàm, định cạc lại gâu.
    Nhân dịp một tỷ con đốt đít sủa gấu gâu từ đình miếu làng Vịt cho đến Cali, Paris, chúng mình đánh giá tổng quan về cái tương lai điện hột nhơn của thế giới và cái dự án Hầm Dễ nhể.
    Chúng ta đứng trên vị trí VVER-1000. Coi như nó có công suất 1GW, chạy liên tục không nghỉ 40 năm. Giá trước khi phát VVER-1000 hiện nay khoảng 2B, trong đó, 2 lò đầu thường 3B, các lò sau bù lại. Sau khi phát thường bằng 1/3 trước, trả đều trong đời. Nếu coi đồng đô không mất giá (!) và lãi ngân hàng như thường, thì 2B trả lãi đều trong 40 năm thành 3,5B (tức rút đều trong 40 năm trả tiền mua điện), cộng là coi như 4B. Mỗi năm có 8760 giờ, mỗi giờ có 1m KW/H, vị chi giá $0,011. Trong trường hợp Mèo đứng ra mua cho Uzbe, giá lần đầu 5B, cộng ra là 10B, thì giá thành điện là 0,03. Nếu như bán điện ra giá 0,05, không tính đất đai đền bù, đút lót chống biểu tình.... thì sau 40 năm, hoá đơn thu tiền bán điện là 17B, trong đó, một nửa đã được nhân đôi trong ngân hàng, tổng dản lượng điện là 350 B KW/H.
    Như vậy, VVER có giá cạnh tranh hiện tại ở các xứ mọi rợ thuộc địa, nhân công đất đai rẻ, thác nước còn nhiều. VVER đương nhiên không thải khí CO2,. không làm tuyệt chủng cá trình châu Âu vì ngăn nguồn sinh nở.....
    Hài hước, đến cái VTV2 hồi này cũng chăm đốt đít, không hiểu chúng sản xuất chương trình cho loại liệt não nèo xem, hay là tớ lâu lâu không dạy tin chén, bọn chúng thành @ hết rùi à (cái thú vui dạy tin chén hay phết, mỗi tội nguy hiểm ). Trên VTV2 hùi nì xuất hiện một chú trông như bê đê, đít to đùng, đặc trưng của mặng mùi đầu đất do sinh lý sớm, vừa nói vừa đung đa đung đưa như tin cái. Một lần hắn trưng ra một dãy tháp làm mát nhà máy điện hạt nhân nghi ngút hơi, rùi chửi đổng ô nhiễm môi trường. Seo, nó quá ngu hay nó tưởng thiên hạ quá ngu để giả vờ ko bít đấy là hơi nước cất rất sạch.
    Ở các nước tiên tiến, thì thác nước Clorado làm sa mạc hoá đồng bằng Mexico, thực chất tồn tại được bởi tính ăn cướp, và dĩ nhiên, kẻ cướp không làm lê dương không lương. Ở châu Âu thì cá chình Âu hết đường sinh đẻ. Ở Nga thì cãi vã về cá đặc sản là cá tầm sông, lại chính thị Volga mới là cá tầm sông xịn (hiện nhà nước Nga thả cá quả Siberia đền cho dân câu). Một số nước thiên đường của ngành điện như Nhật Bản thì người ta sẵn sàng đập bỏ thuỷ điện để chia bán đất lòng hồ. Thực chất, nhược điểm của điện hạt nhân so với điện than là chi phí lần đầu, ngày nay, thuỷ điện đã vượt lên còn nhiệt điện cũng lên giá xấp xỉ VVER.
    Ví dụ, tiền trước khi phát của Nhiệt Điện Nam Định là 4,5 B / 2,4 GW.
    http://www.google.com.vn/search?q=%22nhi%E1%BB%87t+%C4%91i%E1%BB%87n+Nam+%C4%90%E1%BB%8Bnh%22&ie=utf-8&oe=utf-8&aq=t&rls=org.mozilla:en-US:official&client=firefox
    Tất nhiên, đây là tính giá ở xứ mọi Vịt Ngan, tiền đó thằng cho vay nó đã rửa một đống bẩn thỉu, thằng vay thuê cũng đã được nó giả công. Nhưng lại đất đai nhân công rẻ, mặt này bù mặt kia. Sau này, VVER không phải mua than chở than, thì giá bán điện rẻ đi. 350 B KW/H tương đương 150 triệu tấn than đá nếu không tận thu nhiệt sưởi ấm, nếu tận thu toàn bộ nhiệt (hiệu suất chung 50%), thì tương đương 130 triệu tấn than đá, là 42 ngàn tỷ đồng Vịt, hay 2,3 tỷ $ theo giá ban than nhà Vịt (giá than ở Vịt rất rẻ , người ta thường tính công suất phát nhiệt đến gần 100%, nhưng thật ra tải nhiệt đến chỗ tiêu thụ và so với đốt than tại trận chỉ được thế, vì chênh lệch mùa, mùa hè gần như vứt nhiệt đi)
    http://www.google.com.vn/search?hl=vi&client=firefox&rls=org.mozilla%3Aen-US%3Aofficial&q=gi%C3%A1+b%C3%A1n+than+%C4%91%C3%A1&meta=&aq=f&aqi=g1&aql=&oq=&gs_rfai=
    Thật ra, ở nhiều vùng, cái tốn của điện đốt than không phải là chỉ mua than, mà là tốn diện tích đất đai, ô nhiễm, xỉ thải.... Xứ mọi Vịt được cái miễn dịch với ung thư, hít CO2 không ho, đất trống đồi trọc.... nên bỏ lược như thế. Thuỷ điện lại trở thành rẻ ở các vùng hoang vu, thậm chí, giá làm hồ được bù đắp-nhiều nơi là lãi ra như Brasil, bởi tiền bán rừng sẽ ngập nước.
    Dễ hiểu, ở các nước đói vốn, sẵn sàng nai lưng vay thuê làm thuê cho chủ nô như VỊt Ngan, thì việc điện hạt nhân có tiền đầu tư ban đầu cao là việc phải tính toán. Còn ở các nước điện đắt, lắm vốn, như Mỹ Nhật Pháp thì đó là thiên đường của nhiệt điện chứ dừng nói điện hạt nhân. Ở Nhật Bản, mặc dù lệ thuộc kỹ thuật nước ngoài, điện hạt nhân vẫn rẻ hơn điện đốt than. Các nước giầu tài nguyên như Nga, Úc, Ca, Brasil thì đương nhiên chả có điện j` rẻ bằng tận thu khí đốt, than bìa, đất hoang chứa nước. Tầu Ấn thì ít điện hạt nhân đương nhiên vì dốt nát, à quên, chưa khôn.
    Các lò như OPR, AP-1000 bán đắt, tính ra gấp đôi gấp ba VVER, nhưng dễ thấy sức cạnh tranh vẫn tốt, chưa lung lay trước than và thuỷ điện. Nhật Bản đóng kín thị trường xây dựng khai thác nhà máy điện, giá cả khó bàn, nhưng ở Mèo và Pháp thì thể hiện rõ. Đương nhiên, có cái nghịch lý là Mèo chả có lò nèo bán (AP vẫn chưa được công nhận và thật ra có nhiều phần Tầu-Nhật trong đó), nên bên Mèo rất nhiều chó. À, quyên, ngoài Vịt kêu gâu gâu thì bên Mèo có cái lò HT-9 rất cạnh tranh, chất chứa nén chặt cả khoa học, kỹ thuật và xiền bạc.
    EPR rẻ hơn đám đó theo GW. Sự rẻ hơn đổi lấy bằng tăng mật độ nhiên liệu và nhiệt độ làm việc, tăng nhiệt độ hơi sinh công dẫn đến tăng hiệu suất nhiệt-công, tăng mật độ đốt thì bớt xén tiền lò, cả hai thứ đều là bớt xén tính an toàn và nguỵ trang kỹ thuật cổ lỗ, để cạnh tranh bằng giá được bớt xén đó. Thêm một số lý do nữa mà chủ yếu là công cụ vẽ vời ăn cắp đút lót hiện đại Gen III+, EPR cũng có vị trí khi đứng trước VVER.
    Tính chi ly ra thì điện hạt nhân có chu kỳ dừng lò lâu, vài chục ngày. Để vận hành nó cần xây thêm một số nhà máy thuỷ diện có hồ nhỏ, hay nhà máy nhiệt điện có công suất bằng 1 lò hạt nhân, để dự trữ điện. Ở quy mô lớn, người ta không dùng ắc quy, pin xạc, mà dự trữ bằng hồ thuỷ điện và hồ thuỷ điện hai chiều. Nếu các tiến sỹ không chia cái Tạ Bú ra mấy khúc, thì hiện nay không đến nỗi thiếu điện liên miên, phát ồ ạt rồi đói mốc mùa khô. Mà bạn nèo có hứng thu thập các diễn văn của các tiến sỹ bồi mõm bồi lưỡi hồi chia Tạ Bú ra thành mấy khúc Sơn La ko nhể, lưu trữ những cái đó cho muôn đời sau, nhể. Làm seo mà con cháu muôn đời thừa kế thành tựu nghiên cứu môn khoa học có tên bồi mõm bồi lưỡi.
    Tính chi ly nữa thì điện hạt nhân mất một số vốn khổng lồ "phí quan hệ" để có đồng minh lớn, chứ đốt than thì mua sắt Thái Nguyên cũng không tệ lém, nhưng cái vốn tự có này dùng tình đổi được, nên đắt rẻ dễ lựa. Cần đồng minh lớn để tầu ngầm của nó bắn đắm con Pohang nèo định ra chặn nhiên liệu. Bên Mèo có giống Vịt nói tiếng chó, doạ rằng tầu chở nhiên liệu của Vịt bị đánh chặn !!!! Ai chặn ai nhờ, tầu Nhật Pháp đã từng bị biểu tình chạy vòng quanh quả đất, hay là giống chó lấy Pohang ra chặn lera class, anpha class, kirov class......
    Nhưng chi ly như thế thì các ông nhớn chả cần đồng minh, seo nhờ ?
    Với giá đầu tư ban đầu rẻ hơn thuỷ điện, bằng 120% than, và giá vận hành rẻ hơn nhiều so với than, tại sao điện hạt nhân kém được các ông chủ tư bản tham lam để ý vậy nhờ. À, lại liên quan đến pluton.
    plutonium , pluton , P239 ..... là gì ?.
    Pluton là gì ? Đương nhiên, bạn Bò và chúng ta biết là nguyên tố có nguyên tử lượng 239, ký hiệu P, ở vị trí xyz về hoá học. Nó có tính chất hoá học để dễ tách ra khỏi uran hơn là làm giầu tai tiếng. Nó được sinh ra trong phản ứng dập, dùng để cân bằng lò, là U238->U239->P239. Pluton có xác suất bắt giữ N nhiệt để duy trì phản ứng cao hơn Uran U235 và làm nhiên liệu giầu rẻ hơn, do làm giầu uran đắt hơn nhiều hoá học P. Ban đầu, người ta dùng lò có uran tự nhiên, sau đó RBMK dần dần dùng u làm giầu 2%, rồi tự tiến lên 3,5% nhưng bố trí lịch thay đảo, tức thanh nhiên liệu nghèo ở ngoài, giầu ở trong (coi là như cũ, việc này dùng để xời thứ DU 0,25% mà Mèo bỏ đi).
    Đến EPR thì dùng làm giầu từ 4,5-6% nhưng MOX 50, tức 50% pluton.
    Đặc trưng của plutonium , bệnh nghiện pluton .
    Những điều chúng ta đã biết đó có gì đặc sắc để đánh giá pluton đâu ? tại seo nó lại đáng sợ thế, đáng sợ đến mức những kẻ thèm tiền nhất sợ tiền ? À, ở đây, mình đã trình bày link đến các bài viết về thời trang pluton.
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-35.ttvn#16338368
    Vâng, nó như thế chứ seo. Người ta nghiện pluton vì kỹ thuật lõi đã đông cứng thảm hại sau 1979, Three Mile Island, TMI. Nước Mỹ trước đó đã đầu hàng các nhánh kỹ thuật ưu việt là than chì và natri, quay lại với các kiểu nước nhẹ, sau khi các nhà khoa học tiên tiến rời bỏ nước Mèo Rồ tham bom. Nhưng TMI dập nốt khoa học xây lò Mèo. Thế là Pháp Nhật phóng to, nhái lại và thậm chí là nhái của nhái như CPR Tầu Khựa, nhái lại đồ cổ, vì lõi kỹ thuật bên Mèo đã dừng.
    Đây là một hiện tượng đặc biệt, dòng kỹ thuật chảy ngược sau 600 năm chảy xuôi, và hiện tượng xảy ra dễ hiểu.
    Đặc trưng Gen III. Lò phản ứng hạt nhân thế hệ III kiểu mới .
    Hoá ra ở Vịt khá nhiều người hiểu biết và ít liệt não. Cái mà dân đốt đít không lường được là như thế. Hồi ồn ào lên chiện Hầm Dễ, một tỷ con đốt đít Tây nhao nhao xông vào Vịt, rồi đứng ngoài chõ mõm vào sủa, rồi bọn Vịt tiến sỹ, vịt tiên chỉ nhao nhao bán rẻ từng mẩu nước ở miếu đình. Cả dân Vịt trợn ngược mắt lên khi Gen III chuyển từ N nhanh sang nước nhẹ. vậy nên mới tạm đặt là "lò phản ứng hạt nhân thế hệ III kiểu mới".
    Đến nay, sau khi đã quen với khái niệm này, chúng ta đã biết Gen III kiểu mới là cái TMI tân trang để đội mồ sống dậy, đơn giản thế thôi.
    Làm thế nèo phóng to các lò thí nghiệm thành lò kinh tế mà không cần kiến thức khoa học. À, tăng mật độ nhiên liệu, tăng xác suất phân rã, thì với mật độ N, nhiệt độ điều hoà như vậy, các thanh điều khiển như vậy, khoa học như cũ..... sẽ tăng mật độ phát nhiệt và tăng công suất. Mật độ phát nhiệt được cân bằng hết sức đơn giản với các não liệt, là tăng công suất bơm. Và vì nhiều liệt não, nên tả việc buộc an toàn vào công suất bơm là "an toàn hạt nhân thụ động" rất dễ.
    Chúng ta quá dễ so sánh mật độ uan U235 và pluton P239 của EPR và khẳng định cái quan trọng nhất của Gen III là j`. Chỉ cần vài con số trên, thì dễ thấy, không cần cải tiến gì cái lò của Three Mile Island gì, chỉ cần dùng thanh nhiên liệu Gen III, có 50% pluton và mật độ làm giầu gấp rưỡi, là có thể đặt bơm mạnh gấp rưỡi, vớt nhiệt nhanh gấp rưỡi, nâng công suất từ xấp xỉ trên dưới 1GW thành EPR 1,6GW.
    Đấy là thực chất của Gen III. Bạn Bò ợ. Thực chất, Gen III còn nhiều thứ khác nữa. Cái quan trọng nhất là nhiên liệu, cạnh đó là một lố công cụ vẽ để thoả thích vẽ ra mọi loại dự án, bất chấp sự khác biệt-đa dạng về giá cả, điều kiện, chất lượng. Cái đểu cáng chó má của các công cụ đút lót, lừa đảo, ăn cắp này là phần lớn chúng phục vụ việc khắc phục sự cố Three Mile Island, mà phần lớn trong đó là bịa đặt.
    Khoa học giải thích sự bịa đặt, hay nhể. TMI sôi cạn nước lõi rồi chảy lõi sau vài tháng vận hành, chỉ vì không khởi động được bơm, chỉ vì bị lấy mất máy phát dự phòng mà không tính việc lưới điện yếu và hai lò cùng dừng. Thế nhưng, nó bị huỷ hồ sơ vụ án và sáng tác ra chiện hydro làm cách nhiệt, vì duyệt thiết kế là của bọn to đầu (đảng cầm quyền và TT). Cái chiện lõi không chảy bị lật mặt chỉ vài năm sau bằng robot, nhưng hydro thì đông lại trong liệt não. Ngoài cái điểm chính là tăng gấp rưỡi mật độ phản ứng để tăng gấp rưỡi mật độ công suất, thì Gen III có thiết bị tách hydro, tăng nước lõi để sôi thoả thích và cái máy dùng để lấy cái lõi chảy (11 năm sau mới lấy được lõi TMI và 20 năm sau mới chôn được), đó là những thành phần chính của Gen III bạn Bò ợ.
    Gen III là thế: một bộ xương tăng mật độ gấp rưỡi bọc một đống son phấn dùng để vẽ, son phấn sinh ra từ bịa đặt và dùng để dối trá ăn cắp. Thực chất, Gen III là bước đi lùi bắt buộc, hy sinh tính an toàn, gia tăng tính ăn cắp. Khoa học đi lùi vì dòng chảy kỹ thuật đổi chiều về sự hợp lý 600 năm qua, sau 60 năm đi ngược.
    Thật ra, thì Gen III cũng buộc phải bao gồm một số tiến bộ. Ở đầu topic này, các bạn thấy một thằng Tây sang đốt đít Vịt nói Gen III là nước nhẹ nén. Cái này làm Candu không được Gen III. Nhưng về bản chất, Candu thuộc hàng bác học quý tộc, có giá trị, chứ không là mọi thuộc địa như nước nhẹ nén VVER hay PWR. Vậy nên có cái hài là những trang ệp như "nguyên tử quốc tế" hồi này chia chữ Gen III cho Candu. Rồi, trong khoảng thời gian đanh nhau lộn bậy trước 2009, IAEA cũng đưa ra một số tiêu chuẩn và được một số kẻ nhồi là Gen III để bán tem, thành ra các lò muôn bán hiện nay đều tự tấn phong Gen III bằng cách mua rẻ tem từ IAEA. Lò ABWR, tức lò nước sôi tởm lợm nhất quả đất, cũng Gen III như thường.
    Tuy vậy, tập hợp toàn bộ Gen III thì vẫn là thế hệ nhiên liệu Zr, chưa thể là gốm nitric hay titan, vậy nên ngoài mục tiêu nhồi sọ liệt não thì cũng chả danh giá lắm, nên tem IAEA bãn cũng chả được giá mấy, ậy nên mua rẻ và tất cả mọi loại lò hiện đều Gen III.
    Cụ thể hơn. Thiếu khả năng nghiên cứu phát triển lò lúc giao thời, Pháp Nhật đã sử dụng nhiệt độ làm việc cũ, thanh điều khiển cũ, chất điều hoà cũ, mật độ N cũ, đồ thị năng lượng N cổ lỗ..... nhưng tăng gấp rưỡi mật độ phản ứng phân rã, để có loại lò cạnh tranh về giá. Đấy là bản chất của loài nhái.
    Bản chất của việc này là ăn cắp đi tính an toàn và sức cạnh tranh được bổ sung bằng một lố công cụ vẽ dùng để vẽ kế ăn cắp, kế đút lót. Người ta làm việc này vì ngu si không sợ nổ, lại cũng do ngu si thiếu khả năng nghiên cứu.
    Để làm được điều này, các Gen III nghiện nặng pluton, chúng tiêu diệt kỹ nghệ điện hạt nhân toàn cầu trong 30 năm tới, nếu như không có thằng nèo đứng ra bắt chúng làm nô tỳ. Thằng nèo thì chúng ta biết rùi, nó làm đến đâu và làm thế nèo chũng ta cũng bít rùi.
    Ở đây, đánh giá lại tình hình pluton cái nhờ. Lần này đứng trên quan điểm kỹ thuật làm giầu và khái niệm "diện tích bia", "năng lượng tạo phản ứng" . Cứ nhảy giữa các quan điểm kinh tế sang các quan điểm kỹ thuật một hồi, chúng ta nhảy nhót khéo biểu cảm hơn là cái ở dưới cổ tớ.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 12:20 ngày 14/04/2010
  4. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72

    Lại xem lại cái đồ thị năng lượng N trong môi trường điều hoà nhể. Ở đây, mình sẽ đề cập đến sự phúc tạp của khoa học hạt nhân, quy mô to lớn mà các nhà bác học đã làm được, tại sao Gen III kiểu mới lại là bước đi tự sát, tại sao Areva coi như phá sản vì nó (sống bằng cắm ống bơm tiền). Đặc trưng của các môi trường điều hoà là hạt nhân điều hoà càng nặng, phân bố năng lượng N càng tập trung, đương nhiên, sự tập trung giảm rất nhanh nếu như trộn các chất điều hoà nặng và nhẹ.
    Ở đây He4 nhẹ nhất và phân tán nhất, Xenon 132 nặng nhất và tập trung nhất. Đây là một trong những dò thị được xây dựng đầu tiên trong WW2, phục vụ các lò thí nghiệm như CP và chế bom như X-10.
    [​IMG]
    Kỹ thuật Zircon được phát triển trong thập niên 195x. Zr bền như titan, Zr thiên nhiên có 5 thành phần đồng vị, là 90Zr 51.45% , 91Zr 11.22% và 92Zr 17.15%, 94Zr 17.38% 96Zr 2.8%.
    http://www.chemicalelements.com/elements/zr.html
    Chúng ta thấy, nó được nghiên cứu kỹ thế nèo, một khối lượng khổng lồ các tính toán và thí nghiệm
    http://t2.lanl.gov/data/n7-pdf/zr/92.pdf
    http://www.lnl.infn.it/~docserv/basilic/Publications/1992/steq/
    http://www.springermaterials.com/docs/info/978-3-540-87866-7_119.html
    Download e book physics - neutron total scattering cross sections for zr90 zr92.pdf
    http://rapidshare-provider.com/share/1615438__e-book_physics_-_neutron_total_scattering_cross-sections_for_zr90___zr92.pdf
    http://wwwndc.jaea.go.jp/cgi-bin/nuclinfo2004?40,92
    http://wwwndc.jaea.go.jp/cgi-bin/Tab80WWW.cgi?/data/JENDL/JENDL-3.3prc/intern/Zr092.intern
    http://wwwndc.jaea.go.jp/j33fig/jpeg/zr092_f1.jpg
    Cái được nghiên cứu nhiều nhất là neutron cross sections Zr92. " cross sections " dịch ra tiếng Vịt là diện tích bia . neutron cross sections Zr92 là diện tích bia của Zirconium khi bị N bắn phá. Để hiểu chút xíu này, chúng ta tưởng tương rằng, một hạt, như N hay hạt nhân, là một vật chuyển động liên tục, phập phồng liên tục.
    Mỗi một N khi va vào Zr có xác xuất xảy ra 3 sự kiện, 2 sự liện điều hoà năng lượng N là inelastic và elastic (tác dụng như bóng nẩy), sự kiện thứ 3 là phản ứng hạt nhân (cature==bắt giữ-có thể hiểu như bóng không nẩy mà đập vỡ bia, sau khi bắt giữ, có thể sát nhập hay tan vỡ tuỳ loại và xác suất. U235 capture có 25% biến thành U236, 75% vỡ dây chuyền). Chúng ta có thể hiểu, bia là một đống bùng nhùng, tuỳ theo bóng đập vào góc nèo của loiaj bia nèo mà sinh ra sự kiện nèo, bóng chậm quá hay nhanh quá đều chả động chạm j`, có thể hiểu như xiên luôn qua bùn chẳng hạn. Loại bia cứng thì bóng càng nhanh càng dễ đập vỡ không như bia bùn.....
    Với một mật độ N, tần suất xảy ra 3 sự kiện trên được đặc trưng bởi diện tích bia, đơn vị là barn. Diện tích bia thay đổi mạnh theo năng lượng N. Với loại N nhanh sinh ra chưa điều hoà, Zr-92 tụt xuống còn 0,01 và 0.001, rất thấp so với các hạt nhân khác
    http://wwwndc.jaea.go.jp/j33fig/jpeg/zr092_f1.jpg
    http://www.ncnr.nist.gov/resources/n-lengths/
    Tính chất của Zr được dùng làm chất kết dinh nhiên liệu. Carbon 12, Oxi 16, Beryllium 9 có diện tích bia nhỏ, nhưng lại không đúc thành nhiên liệu được. Be với N chậm có diện tích bia nhỏ hơn Zr, nhưng tăng vọt lên với N nhanh. Thêm nữa, Be hoạt động hoá học hơn (cỡ nhôm). Chất kết dính nhiên liệu là tác nhân làm chậm đầu tiên, nó phải không ảnh hưởng nhiều đến công việc của môi trường điều hoà, U235 và U238.... thì mới thích hợp, tức là có diện tích bia trong cả 3 phản ứng đều nhỏ với cả N chậm và N nhanh. Thời gian đầu, phổ biến dùng uran tự nhiên, mật độ phản ứng thấp, thì Zr được coi trọng. Có cái hài là Pháp pha Zr vào Mg trong UNGR, nước này luôn nhái lai căng và chúng ta bàn xem tại seo lại phải nhái lái căng.
    Ở các thế hệ lò dùng N nhanh, người ta phải dùng cả nhiên liệu và môi trường điều hoà có diện tích bia phản ứng nẩy lớn, như Pb208 (dẫn nhiệt) hay titan (kết dính), gốm nitricde (kết dính)
    http://www.springermaterials.com/docs/info/978-3-540-87866-7_322.html
    Những chất có diện tích bia cho phản ứng bắt giữ rất lớn là Boron và Lithi. Ở đây, chúng ta lại bàn đến một chuyện khác, là làm giầu. húng ta đã biết các nhà bác học phải đo đạc một khối lượng cực lớn số liệu trên. Mỗi một loại hạt nhân có xác suất ứng xử khác nhau, với các năng lượng N khác nhau. Sự việc trở nên khó khăn khi mỗi nguyên tố trong tự nhiên có nhiều đồng vị, tính chất hoá học rất giống nhau và việc tách chúng ra rất khó, đó là làm giầu. Các phương pháp làm giầu dựa vào sự khác biệt khối lượng hạt nhân. Việc tác ra chịu thua với việc có nhiều loại hạt nhân có cùng số neutron và proton (thường gọi là các thể như thể an pha, thể bê ta). Tính chất hoá học của chúng giống nhau, nhưng tính chất hạt nhân lại khác. CHính vì thế, nếu không có làm giầu thì không đo đạc được, và cũng không sử dụng được.
    Vai trò của kỹ thuật làm giầu
    Nghe nói đến làm giầu là người ta nhắc đến là giầu U235 trong U tự nhiên, tức tách và tăng tỷ lệ khối lượng U235. Thật ra, việc làm giầu (enriched ) được áp dụng nhiều nhất ở các phụ tùng lò, chứ không phải nhiên liệu. Ta thấy, Zr lại cần Zr-92, Pb lại cần Pb-208.
    Các nguyên tố nặng như uran, chì .... làm giàu rất khó. Nhưng H và D tách ra rất dễ. Các phương pháp làm giầu như điện phân, ly tâm, điện tích, thẩm thấu, chưng cất được áp dụng. Ví dụ, Li6 và Li7 tách ra bằng điện phân điện cực thuỷ ngân (cho ra thuỷ ngân đỏ), khi diện phân, người ta thiết kế xung điện để tách nhanh hơn. Ly tâm và thẩm thấu được dùng với các chất khí như UF6.
    Chúng ta thấy các tính chất hạt nhân của các đồng vị rất khác nhau, trong khi tính chất hoá học thì như nhau. Ví dụ, Li6 bắt giữ các N chậm (N nhiệt), diện tích bia 941 barn, trong khi Li7 có diện tích bia trong vùng N nhiệt là 0.045 barn.
    Li6 + N = T3+He4 (phản ứng toả nhiệt khá mạnh)
    Khi N mạnh lên, Li7 tăng diện tích bia với phản ứng
    Li7 + N = He4 + N
    Như vậy, Li khi dùng làm chất kiềm hoá Boron (dùng dạng axit boric), thì phải là Li7 sạch. Kiềm hoá này được dùng trong một số lò nước nhẹ chống ăn mòn. Nhưng với chức năng dập khẩn cấp, thì Li6 rất tốt, nó bắt giữ sạch các N nhiệt với hiệu quả cao. Do tính chất gàn như ngược nhau trong một số trường hợp này mà việc tác Li được nghiên cứu sớm ở Liên Xô cũ. Phương pháp tách Li rất sạch và rẻ ở Liên Xô cũ cho ra thuỷ ngân đỏ tuyệt mật, đây là chìa khoá của các thiết bị hãm dập khẩn cấp.. Li6 chỉ có cỡ 7,5% trong Li tự nhiên.
    Phương pháp điện phân thuỷ ngân áp dụng được không nhiều trong các trường hợp làm giầu. Do khối lượng khá khác nhau, nên Li6 vượt lên trước trong các xung điện ngắn, nếu thiết kế xung điện đúng thì khi điện phân hydroxit lithi sẽ được nhiều Li6. Việc lý tâm khí LiF tốn kém hơn đã cản trở khối Tây sử dụng Li trong một thời gian dài.
    Với Boron, tình hình hơi khác
    http://web.mit.edu/nrl/www/bnct/info/description/description.html
    http://web.mit.edu/nrl/www/bnct/bnct_home.html
    http://www.virtualtrials.com/bnct.cfm
    Bo thiên nhiên có 19,9% là Bo10, nó có diện tích bia với N nhiệt rất lớn, tạo thành phản ứng
    Bo10 + N = Bo11
    Khi N năng lượng cao, diện tích bia sụt xuống nhanh theo đồ thị dưới đây tạo thành T3 và tian anpha (He4) Đường trên là Bo10, đường dưới là Bo11.
    Bo10 + N = Li7 + He4
    Bo10 + N = 2He4 + T3
    Điểm đặc biệt là phản ứng
    [​IMG]
    Việc là giầu Bo được tiến nhành ngay từ buổi bình minh của lò, hiện tượng này được phát hiện sớm trong thập niên 193x. Đây là mô tả một nhu cầu khác về Bo10, được dùng để xạ trị ung thư, quan một loại hạt nhân trung gian là một thể Bo11, thể này rất không bền, vỡ thành hạt phá huỷ tế bào.
    http://www.pharmainfo.net/reviews/boron-neutron-capture-therapy-overview
    http://clincancerres.aacrjournals.org/content/11/11/3987.abstract
    Bo 10 có khả năng bắt giữ các hạt N có năng lượng rất yếu, với diện tích bia cao, sau đó biểu hiện bắt giữ mạnh, nên cũng được dùng để đo mật độ N.
    Việc làm giầu D2, Li6, Bo10 tương đối dễ, vì thực chất, chỉ cần tìm các biện pháp rẻ, còn nếu không tìm được, thì vẫn chưng cất được, tuy nhiên với D2 mà chưng cất thì quá đắt. Thế nhưng bắt đầu đến các cỡ Zr, titan, nitro, rồi chì.... đã là khó. Đến uran thì các bạn biết rồi, rất ít nước mua nổi máy làm giầu và số nước làm giầu được đến cỡ 90% thì chỉ có mấy ông nhớn. Cả nhà nước Iran làm giầu được một lọ bilixilin 20% mà thế giỡi đảo điên mấy tháng nay chưa xong.
    Ở đây, chúng ta xem ưu thế của Cd113, vượt trội Bo10, Cd113 chiếm 12% trong tự nhiên. Việc sử dụng ưu thế này được quyết định bởi kỹ năng làm giầu. Bi thì may mắn thiên nhiên có Bi209 sạch.
    http://www.ncnr.nist.gov/resources/n-lengths/elements/cd.html
    Còn chì thì Pb208 thách khối Tây 70 năm nay không xong. Pb208 có diện tích bia sự kiện bắt giữ N nhiệt là 0.00048, còn các đồng vị khác như Pb207 là 0.699 Pb206 0,03, Pb204 0.65 , sự kiện chặn nầy là 11.34
    http://www.nndc.bnl.gov/sigma/getPlot.jsp?evalid=4365&mf=3&mt=1&nsub=10
    [​IMG]
  5. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Cd http://iopscience.iop.org/0305-4616/4/5/011
    hạt nhân có khả năng bắt giữ N mạnh nhất là Samarium Sm149, chiến 13,5 trong tự nhiên. Vận tốc N 2200m/s thì diện tích bia là 42080, gấp 10 lần Bo10. Không cần làm giầu cũng được 5900, gấp rưỡi Bo10 nguyên chất. Nguyên tố này nằm trong nhóm đất hiếm, có hai lý do để ít dùng, một là nó đắt và hai là nó nhậy hoá. Việc dùng trong các lò nghiên cứu thì nhiều. Sm149 là nguyên tố phóng xạ nhẹ 2+15 năm, nhặt N nhiệt thành Sm150 bền.
    2,2 km/s = 0,024 eV (4E^'21 J)
    Chúng ta thấy công lao của một đống số liệu đó. Vào cái thời chưa có đống số liệu đó, thì việc tổ chức đo đạc tính toán ra nó là rất lớn, rất tốn kém. Vào cái thời nay khi đã có nhiều số liệu đó rồi, thì ứng dụng chúng, tức làm giầu các nguyên tố để làm các dụng cụ trong lò... cũng không phải ai cũng có. Nhìn các đồ thị trên, chúng ta thấy ưu việt của Pb208 và Cd113, thế tại seo các ông nhớn không làm lò chì có thanh điều khiển là gốm Cd. Thì đấy, một nguyên nhân lớn là làm giầu chúng đã lỗ chỏng vó. Mà có phải ít đâu, cái lò cần 1 ký uran làm giầu 25% thì có lẽ cần cả yến Pb208 làm giầu gần 100%.
    Thật ra, có một giải pháp rẻ hơn đã được anpha class chạy 40 năm, là Bi209, nó tham nhũng N 2200m/s cỡ 0.03 barn, kém Pb208 bằng Pb206. Ha ha ha HT-9 đấy. Trong tự nhiên, thật may mắn, Bi có B209 sạch 100%. Nhưng lại không may mắn, nó xời N khá, diện tích chén 0,03 và diện tích va 9. Thật ra, các lò của Anpha Class (SVBR) có tỷ số tái sinh xấp xỉ 1, thực tế rất ít tốn nhiên liệu. Bi ở đây hoà vào ít để giảm nhiệt độ nóng chảy của chì.
    http://www.nndc.bnl.gov/sigma/
    http://www.ncnr.nist.gov/resources/n-lengths/
    Mỗi hạt nhân U235 phân rã tạo ra 2-3 N có năng lượng 2MeV, còn lại, các mảnh sẽ toả 202,5 MeV. Như vậy, phần lớn năng lượng toả ra từ thanh nhiên liệu, 1% được N đem đi. Năng lượng trong thanh nhiên liệu toả ra cỡ 50% lúc phản ứng dây chuyển, duy trì đến 5 ngày toả chậm dần phần lớn số dư còn lại. Ở đây, lò phản ứng sẽ gặp một số khó khăn do chênh lệch nhiệt độ giữa thanh nhiên liệu và chất điều hoà, thanh nhiên liệu toả nhiệt dư và thanh nhiên liệu nóng do phản ứng dây chuyển.
    Đây là đồ thị giữa hai phản ứng lớn lên và teo đi. Thật ra, phần U230 người ta vẽ làm tròn không tính nhỏ. Ở 2,2km/s (0,024 eV), cross sections sự kiện bắt giữ của 235 và 238 là 680 và 2,68
    [​IMG]
    [​IMG]
    Những lò phản ứng có điều khiển đầu tiên của Ferrmi được gọi là factor k. K là tỷ số chén mất N và sinh ra N. Nếu K > 1m phản ứng mạnh lên và K <1 thì phản ứng tắt dần.
    Sự cân bằng phản ứng, nếu như chỉ có U235 hay P239, U238 và chất điều hoà, sẽ là tỷ lệ % của U238 nhân với trị số diện tích bia ở nhiệt độ đó. Các con số này được điều chỉnh gia giảm bởi diện tích bia sự kiện chén mất N của chính chất điều hoà, vật liệu khác. Thêm nữa, khoảng 1/4 U235 và 1/3 P239 sẽ biến thành U236 và P240 chả tác dụng j`.
    Các chất hấp thụ được dùng là Cd, B, Li có đặc tính tăng vọt khả năng hấp thụ khi nhiệt độ giảm, khi khả năng hấp thụ của U238 giảm, như vậy, việc pha trộn chúng sẽ làm giàm nhiệt độ cân bằng. N nhiệt được làm chậm xuống mức trung bình <0,04 eV cỡ 3-4 trăm độ C), nhỏ hơn vùng cộng hưởng của hấp thụ uran và pluton.
    Cùng một nhiệt độ, nhưng vận tốc N trong các chất điều hoà khác nhau sẽ khác nhau. Nhờ thế, người ta điều chỉnh được nhiệt độ làm việc của lò để chiều các vật liệu. Tỷ lệ pha U235, U238, P239 cũng vậy. Ví dụ, nếu không thay đổi thành phần khác thì với một tỷ lệ U238 cao hơn, thì nhiệt độ cân bằng phản ứng thấp đi. Đương nhiên, nếu làm giầu U235 và P cao lên, thì để giữ nước lò không sôi, thì phải cho những B, Li, Cd, Sm..... nhiều lên và giảm khả năng tái sinh.
    Điều này giải thích các lò tái sinh làm bom ban đầu của Anh Pháp như Windscale Pile, Magnox, UNGR, dùng U tự nhiên, chất làm chậm than chì, lại thiếu các kỹ thuật hiện đại như khiên phản xạ N. Chúng có nhiệt độ thấp và do đó người ta dùng Mg, Al. Bản thân các kim loại đó không chịu được nhiệt độ cao, và vì lò có nhiệt độ không cao nên phát điện là tính chất trang trí.
    Chúng ta đã biết chát kết dính nhiên liệu và kích thước viên nhiên liệu tạo ra xác suất va đập "chất điều hoà đầu tiên", làm mất N năng lượng cao tái sinh và phải gia giảm bằng các thể loại B, Li, Cd, Sm... Viên vừa to, vừa kết dinh tồi, thì kết quả sẽ như vậy. Dĩ nhiên có thể nghiền nhỏ nhiên liệu pha vào chất điều hoà, điều này thực hiện trong lò nhỏ nghiên cứu, còn lò to thì tải nhiệt khó.
    Điểm hài hước để xác định người Pháp nhà Bò chỉ copy cực ngu si, dẫn đến cái Gen III sau này, là hợp kim Zr-Mg. Mg có diện tích bia va đập 3,6, bia hấp thụ 0,06 (2,2 km/s). Zr là 6,4 và 0,2. Như vậy, Zr tồi hơn về N, được dùng làm kết dính nhiên liệu vì nó bền và chịu nhiệt. Người ta chuyển sang dùng Zr vào thập niên 1950 ở các nước tiên tiến nhất Gấu Mèo để tìm cách phát điện, tăng nhiệt độ. Bà Đầm có hợp kim Mg-Zr, hay chửa, nó tồi hơn cả Zr và Mg về mặt chịu nhiệt và do đó, phát điện còn tồi hơn cả Mg.
    Đương nhiên là người Gấu cười khà, bảo chúng mày (Vịt), thích an toàn thì đến Nhật Pháp.
    Hướng thành công của Anh sau này là Fe-Ni thô, không làm giầu cho CGR và AGR than chì. Đương nhiên là bọn này không thành công quá mức bấp bênh nhiều lắm và thời gian đi đến đó rất lâu (cuối 197x, phần lớn 198x, 30-40 năm sau Windscale Pile 1949). Nhưng dẫu seo, đây cũng là chút thành công.
    Chúng ta đã giải thích được sự thiếu hụt tái sinh pluton ở lò nước nhẹ. Chúng có nhiệt độ chất điều hoà chính là nước tải nhiệt, bị khống chế thấp. Do đó, phải pha phách nhiều Cd, B, Li, Sm...., trong khi đó, vai trò U238 bị H1 thay thế, và chúng ăn mất N của U238. Lò nước nặng cũng dùng nước để điều hoà như vậy, nhưng không mất N vào H1. Giả sử cùng một tốc độ phản ứng, lò nước nặng phải có nhiều U238 hơn, mật độ thấp hơn hoặc làm giầu thấp hơn..... và có mỗi lý do là đắt lên, đắt cả nước nặng và kích thước lò.
    Việc tăng tỷ lệ làm giầu ở lò nước nhẹ lại tăng tiếp sự hao hụt N. Điều này làm nhiệt độ cao lên, muốn duy trì nhiệt độ cũ, lại phải cho gia vị vào.
    RBMK
    Người ta chia ra những Gen I, 2, III.... nhưng thật ra, việc chia chác đó bao hàm nhiều phân vịt nhồi sọ liệt não. Thế hệ lò đầu tiên chỉ có 3 dòng thành công trong phát điện quy mô lớn là Candu, AGR CGR làm mát khí Anh Quốc, RBMK Liên Xô cũ, trong đó Anh và Liên Xô là than chì. Các bạn quan sát đồ thị xác suất phản ứng dây chuyền và hấp thụ bên trên. Người ta không muốn vùng cộng hưởng ảnh hướng đến việc điều khiển, có hai cách làm điều đó, lò N nhanh vượt lên trên vùng cộng hưởng, còn lò N nhiệt thì dàn trải đồ thị năng lượng N để trùm đều lên vùng cộng hưởng.
    Lò than chì, nếu dừng mức kỹ thuật như trên, có nhiệt độ làm việc an toàn thấp, không tiện phát điện và do đó nếu làm quy mô lớn thì è cổ phá sản mà nuôi nó.
    Than chì có diện tích bia nẩy 5,5, diện tich sự kiện hấp thụ rất thấp, 0,0035, một trong những hạt nhân rất bền. Diện tích bia nẩy của nó không cao lắm, nhưng mật độ hạt nhân lại cao, tính diện tích bia theo thể tích vì vậy đạt khá cao, bằng 2/3 Uran tự nhiên với 2,2km/s (chỉ nảy thì than chì hơn, đây là tính cộng cả nẩy và hấp thụ cho uran). Nhược điểm một chút là nhiệt dung riêng theo thể tích cũng khá cao (3kj/dm3), điểm này làm giảm nhậy với nhiệt độ truyền từ N.
    RBMK là kênh năng lượng cao, khắc phục tính rung và nhiệt độ thấp bằng giải pháp kênh, nhiệt độ nhiên liệu lõi lên đến 750 độ C, phát điện tốt. Trong khi đó, N được điều hoà bằng kênh riêng, chỉ 1% năng lượng được N mang đi, chủ yếu truyền vào than chì, do ngăn cách đường tải nhiệt mà nhiệt độ này tỷ lệ thuận với mật độ N, thực tế, than chì điều hoà có nhiệt độ thấp hơn nhiều nhiệt độ nhiên liệu truyền cho phát điện, nhiệt độ than chì thể hiện nhậy cảm với mật độ N và điều khiển phản ứng nhậy cảm, vì được tách kênh. Phản ứng điều hoà nhậy cảm từng vùng, vùng nèo có nhiều N thì vùng ấy làm nóng than chì và giảm phản ứng đi, điều này hoà đều hoạt động trong toàn lò và dễ dàng làm được lò lớn. Cher tai nạn do một hệ thống bơm đã bị tháo và chạy khi tháo 50% công suất trong 1 ngày, đưa lò vào chế độ rung mạnh với sườn dốc sau mỗi nhịp rung tăng lên.
    Về nguyên lý, thì lò khí Anh Quốc cũng như vậy, nhưng với các đẳng kỹ thuật thấp, nó không xuất khẩu được và chỉ dùng được ở đất nước có Windscale Pile. Ngoài nhược điểm phản ứng, nguyên nhân nó không xuất khẩu được là nó rò khí lõi khá nhiều và giá không cạnh tranh. Vật liệu nhiên liệu là ví dụ cho đẳng cấp thấp, người ta dùng beryllium không nổi, không phát triển được Zr và dùng Fe-Ni thô. Be có diện tích bia hấp thụ 0,007, rất thấp, diện tích bia nẩy 7, khá cao nhưng theo thể tích lại thấp. Một cái may mắn, Be tự nhiên sạch 100% không cần làm giầu. Zr chỉ tốt khi làm giầu các thành phần Zr96, tệ hơn chút là Zr90, việc làm giầu khá khoai. Tính chất cơ khí và nhiệt độ của Zr rất tốt, Be cũng hơn nhôm và Mg, Anh Quốc không dùng được Zr do làm giầu và Be do trình cơ khí, luyện kim.
    Dù cho không đạt đằng cao, nhưng Anh Quốc vẫn là bác học hột nhơn, không đến nỗi như loài nhái Phú Lang Sang có câu chuyện hài nhiều tập, mà khởi đầu là hợp kim Zr-Mg cho lò khí.
    Như vậy, các lò than chì quy mô lớn có nguyên lý khác xa với CP-1 và các lò thí nghiệm hậu duệ. Sự khác biệt là người ta không đồng nhất nhiệt độ nhiên liệu như trước, mà tạo một kênh nhiệt độ neutron riêng biệt, do đó nhiệt độ neutron khác với nhiệt độ nhiên liệu và phản ánh trung thực mật độ phản ứng với độ nhậy cao. Điều này làm việc điều khiển thuận tiện, chống lại chế độ rung, tạo nhiệt độ cao cho phát điện mà vẫn có nhiệt độ N thấp, công suất phát nhiệt của lò nhậy với nhiệt độ và đồng đều các khu vực.
    xem qua nhiên liệu RBMK
    Cái con tiến sỹ bán nước từng mẩu ấy nói Anh Pháp có lò phát điện 195x. Thật ra, từ chế bom đến phát điện là chặng đường dài. Magnox phát điện biểu diễn cho nữa hoàng xong, rồi lại đi làm bom, Mag trong Magnox là Mg, rất kém chịu nhiệt, do đó phát điện kém và trọn đời Magnox tham gia làm P. Ban đầu, Magnox làm bom và đóng vai trò chính sau Windscale Pile cháy 1957, cái Magnox duy nhất lúc đó tai nạn nghiêm trọng 1956, nên các Magnox sau dược khẩn cấp chế tạo. Đến năm 199x, khi bom đã hòm hòm, thì Magnox làm tăng lượng P trong thanh nhiên liệu uran làm giầu trước khi chuyển sang lò điện, một phần của fuel cycle = chu trình nhiên liệu, một biện pháp khá rẻ.
    Sau này, các CGR, AGR phát điện ở Ahh Quốc khá nhiều, nhưng chúng thành công rất chậm. Khởi công năm 1964-1965-1966, 2 lò đầu tiên phát điện 1976 và phần lớn chỉ phát điện sau 1890, lúc này, tình trạng pluton đã sớm được tiên đoán, nên khả năng cạnh tranh của các lò khí Anh được cải thiện. Đồng thời, nguyên nhân chính của sự thành công bấp bênh muộn mảng, là thừa hưởng sự nghiên cứu quy mô lớn ở các nước khác, mà nguồn chính là RBMK anh em gần.
    Không nói gì đến các mặt khác, ở đây, mình chỉ trình bầy vấn đề xenon. Thật ra, điều kiện quan trọng nhất của lò than chì phát điện là tách riêng nhiên độ than chì ra, tức là không làm mờ 1% nhiệt năng neutron trong 99% nhiệt năng nhiên liệu, làm việc điều khiển nổi rõ và phát điện hiệu quả với nhiệt độ cao, trong khi nhiệt độ neutron vẫn nhỏ với lượng neutron có năng lượng dưới 0,04 eV (250 độ C) chiến tỷ lệ trên 1 / 2,5 == đặt lò trong trình trạng ổn định cao.
    Thế nhưng, vấn đề xenon phát hiện năm 1943, chỉ là một chiện rất nhỏ trên đường phát điện của than chì, đã làm nước Mèo dừng lại. Thậm chí đến nay báo chí Mèo vẫn ca tụng xenon đã gây ra Cher, hoá ra bên đó khá hiếm người hiểu được chế độ rung của lò than chì, sinh ra khi cắt một đường bơm làm mát mà vẫn chạy mạnh thời gian dài.
    Xenon-135 chiếm cỡ 6.5% sản phẩm phân rã U235, có tuổi thọ ( chu kỳ bán phân rã ) là 9,2 h. Phần lớn nó được tạo thành từ iodine - 135 6,57 h. I135 thường là sản phẩm trực tiếp sau khi U235 vỡ đôi, hoặc qua bước tellurium-135 có chu kỳ bãn rã 19s, với tỷ lệ xuất hiện như vậy. Với chu kỳ đảo 0,6-2 lần / năm, thay là 1,5-3 năm, xenon 135 có thể chiếm tới 1/vạn khối lượng U235. Diện tích bắn giữ của nó rất lớn, 2 triệu barn, gấp 2 ngàn lần U235 ở neutron nhiệt 4E-8 MeV như trên, 1 triệu lầ U238 neutron nhanh.
    Do diện tích bắt giữ lớn, xuất hiện hiệu ứng xenon 135 (Xe-135 effects). Hiệu ứng được phát hiện năm 1944 ở lò X-10, các lò trước chỉ chạy ít một, nên chưa thấy. Hiệu ứng rất nguy hiểm. Ví dụ, khi tăng nhanh công suất lò neutron nhiệt, ban đầu, 6,5% sản phẩm phân rã chủ yếu nằm ở khối lượng I135, chưa gây ra hiệu ứng. Sau cỡ 8-9-10 h, thì lượng xenon 135 mới tăng mạnh và ổn định chậm. Sườn đứng của một số bước đánh võng lên xuống tạo thành một thay đổi mạnh mức độ phản ứng, gây khó khăn cho điều khiển.
    Khi tắt lò, thì ban đầu nếu hạ các thanh điều khiển ở mức nào đó, lò sẽ tắt với lượng xenon 135 lớn. Khi lượng xenon 135 giảm đi , thì nó lại tái khởi động.
    Khi các nhà bác học tiên tiến chuồn khỏi Mèo hoang dã, thì mỗi cái vướng mắc rất nhỏ này đã làm bác Mèo đầu hàng U238, chưa đừng nói các lý do khác khủng khiếp hơn. Có gì đâu, phương pháp đầu tiên để chống xenon là làm chu kỳ thay dài ngoẵng ra, chu kỳ thay dài không lợi thì kết hợp đảo. Khi chu kỳ thay dài, thì lượng xenon chiếm một phần nhỏ so với U238, ít ảnh hưởng. Nếu như chu kỳ thay là 100 x 15 h, thì lượng xenon khi cháy hết 1% U235 + 99% U238 là 1/triệu U238, hấp thụ khá mạnh vì diện tích bia gấp 2 triệu lần. Thế nhưng tăng chu kỳ này lên 10 lần thì hiệu ứng xenon 135 chỉ còn mờ nhạt.
    Chuyện thay đảo của RBMK có nhiều lần cải tiến. Về sau này, kiểu hoạt động thú vị là xếp nhiên liệu giầu 2% ở giữa, nghèo ở ngoài, thậm chí là tận dụng thứ DU 0,25% của Mèo thải ra. Điều này làm sốt một trận buôn lậu DU gốc Mèo, một cái máy bay Nhật bị tháo đối trọng rơi chết một rổ người, còn cảnh sát VN thì thu được đến cả nửa tấn, cúng là đối trọng trong các máy bay hồi chiến tranh. Đại khái, nước Mèo hiện có 4 trăm ngàn tấn DU kiểu đó.
    Nhưng việc chống xenon ở RBMK và các lò sau này lại chủ yếu do cấu tạo của thanh nhiên liệu. Nhiên liệu có phần chịu lực Zr làm giầu pha với 1-2,5% Nb. Cái này thì mãi nước Anh mới biết và phát được điện, nhưng cũng không gãnh nổi giá hàng chất lượng cao đã quan làm giầu. Nhưng cái Zr đó không liên quan đến xenon 135. Các thanh nhiên liệu được làm từ những viên pin oxit ép, xốp, nóng rực 750 độ và đơn giản là đầu ống có khoang chưá chất bay hơi nguội hơn (250 độ). Đầu ống làm bằng Fe-Ni thô vì chức năng của chúng không phải là hạt nhân. Khoang khí này kết hợp với điều kiện nóng rực chiết tách các chất khí đến từng phần triệu.
    Nghe hơi nồi chõ Gấu Mèo dùng Zr, Pháp cũng dùng Zr, nhưng lai với Mg của Anh Quốc. Tớ mãi không nhịn được cười chiện này. Pha vào thì hợp kim có độ bền nhiệt thấp hơn Mg, phản ứng hoá học mạnh như Mg, phản ứng hạt nhân tệ như Zr.
    Ignalina RBMK-1500 Index
    http://www.insc.anl.gov/rbmk/reactor/channel.html
    http://www.elemash.ru/en/production/Products/NFCP/RBMK/
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 11:14 ngày 15/04/2010
  6. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Sau năm 1945, các nhà bác học xuất sắc giảm cộng tác với chính quyền Mèo, vừa tham lam vừa hung tàn. Trong khi đó, một hướng di cư nữa của khoa học châu Âu là Canada, họ cũng tham gia dự án bom với Mỹ trong khâu sản xuất nước nặng. Năm 1945, lò đầu tiên của họ chạy khởi đầu cho Candu.
    Kết quả của việc này là ngày nay có 4 dòng kỹ thuật hạt nhân. Mỹ Pháp Nhật là một này. Anh là một. Canada với Candu riêng một nhánh, còn lại là Gấu. Trong 3 nhánh đó, có mỗi Mỹ Pháp Nhật là 100% nước nhẹ, cắt suất tái sinh của U238 mà ném sang H1 vô dụng.
    Thập niên 195x, khối tham lam hung tàn bên Mèo lãnh đủ, than chì không thể chuyển sang phát điện, natri chảy lõi EBR, tiếp theo là chương trình nattri không đủ an toàn cho tầu chiến, cháy nổ và dừng hẳn trong phát điện năm 1970. Lò nước nhẹ nén hoàn thiện rất chậm vì giá cả, ban đầu chỉ dùng cho tầu chiến và kết thúc bởi TMI. Lò nước sôi đơn giản nhưng kinh tởm, sau này được dùng nhiều bên khối Mỹ Pháp Nhật, cũng khởi đầu bởi vụ nổ SL-1. Nước nặng theo Canada là CP-5 cũng dừng lại sau một thời gian ngắn.
    Nước nhẹ, gồm nén và sôi, PWR và BWR, đều là chuyển điều chỉnh hấp thụ từ U238 sang H1. Trong số 4 dòng kỹ thuật điện hạt nhân, thì khối Mỹ Pháp Nhật không hề có lò nèo tránh được H1 mà vượt qua thử nghiệm, than chì không thể thành công, natri cháy nổ và chết kỹ ở Enrico Fermi, Super Phenix.
    Khi các nhà bác học sang Mèo, họ nói Uran đốt được ngàn năm, nhưng đó là đốt 99,3% U238, còn đốt 0,7% U235 thì được bao nhiêu năm đây nhể bạn Bò. Dù có mang hiệu gì, thì H1 vẫn là lớp mọi thuộc địa, bạn Bò nhờ.
    Thế là bạn Bò đã biết tại seo những kẻ thèm tiền nhất lại có thái độ chó má chê bai hàng tỷ tấn than đá. Khoa học hạt nhân có quy mô rất lớn, thiếu đầu tư nghiên cứu tập trung, nhiều nước phát triển rất chậm chạp. Nước Mèo đầu tư tập trung giai đoạn làm bom khởi đầu, nhưng đến phát điện thì nhảy sang lớp mọi thuộc địa. Ở lớp mọi thuộc địa, thì uran có giá trị gì đâu, kém xa trữ lượng dầu lửa than đá, nên bọn thèm tiền nó không thèm.
    Cái lò Tây mà bạn Bò la liếm và cái lò Tầu CPR-1000 mà ở đình chúng nó la liếm, chính là TMI, thậm chí đến EPR lại cắt đi những khoảng cách an toàn so với TMI. Lò nước nhẹ nén ở Mèo Pháp Nhật rất chậm phát triển do người ta chấp nhận lò nước sôi kinh tởm, đơn giản hơn và hiệu quả phát điện cao hơn (do hơi quá nhiệt). Vừa phát điện được vài tháng, TMI đã xì hơi giết chết nghéo công nghiệp xây lò Mèo 30 năm. Loài Nnái Tây mất đầu, sao lại cái TMI thành PWR Phú và CPR Tầu giống hệt. Trên đường nhái, Lĩnh Áo phải thay lõi. Rút khoảng cách an toàn để tăng cạnh tranh thành EPR, lại nứt vỏ Phần Lan 2005, may mà Siemens nó biết tính đĩ thoã nhà Đầm, nó bắt thử trước, không thì lại như Lĩnh Áo bùng chạc.
    Bạn Bò ơi, thế vậy thì loại lò nèo giữ kỷ lục về số tai nạn thủng thùng lò, nhể. Không tính cái Phần Lan lỗ hơn 2B EU, thì tớ lấy 2 thui, TMI với Lĩnh Áo. Đấy, Tây Phú Lãng Sa nhà bạn Bò đấy.
    =======================
    chủ nghĩ ngu dân nhồi sọ
    Xem này
    http://www.tinmoi.vn/Nha-may-dien-hat-nhan-the-he-3-se-phat-dien-vao-nam-2013-03138192.html
    http://www.baomoi.com/Info/Van-hanh-nha-may-dien-hat-nhan-the-he-3-vao-2013/119/4024073.epi
    http://www.baothainguyen.org.vn/home/Newsdetail.aspx?cid=99&id=-981550
    http://www.conganthanhhoa.gov.vn/Print/4387/
    Chúng ta đã biết dự án Tam Môn, tiến hành ký khi VVER lụt việc 2009. Ở đây nõi mãi thế nèo là Gen III rùi. AP-1000 là lò của nhà Westinghouse Electric, nhà này không phải của Mỹ, mà nằm trong tay Toshiba Nhật Bản. CÙng nằm trong chiến dịch đội mả sống lại, AP1000 chia nhau Gen III với Areva EPR.
    Gen III đầu tiên của thế giới là Olkiluoto Phần Lan, EPR 1600. Dự án lõ trân 2 B EU, phần lỗ chính dồn vào Areva sau khi Siemens đẩy 34% cổ phiaaus cho nó với giá cao và bùng sang Nga với Rosatom. Bắt đầu lõ khi thử áp lực nứt thùng lò năm 2005, điều này dẫn đến việc phải làm một cái lõi lò khác và thời gian phát điện lùi đến 2012.
    Trên đời có rất nhiều con bồi mõm bồi lưỡi, sẵn sàng la liếm thế này. Điều này giải thích việc thế giới này đông liệt não đến thế. Rất nhiều thế lực ngu dân và bồi mõm bồi lưỡi tay sai.
    Trung Quốc sẽ có trạm điện hạt nhân thế hệ 3 đầu tiên thế giới ((Theo VOV))
    http://www.baoyenbai.com.vn/18/61922/Trung_Quoc_se_co_tram_dien_hat_nhan_the_he_3_dau_tien_the_gioi.htm
    http://vovnews.vn/Home/Trung-Quoc-se-co-tram-dien-hat-nhan-the-he-3-dau-tien-the-gioi/20103/138566.vov
    http://www.google.com.vn/search?q=%22Trung+Qu%E1%BB%91c+s%E1%BA%BD+c%C3%B3+tr%E1%BA%A1m+%C4%91i%E1%BB%87n+h%E1%BA%A1t+nh%C3%A2n+th%E1%BA%BF+h%E1%BB%87+3+%C4%91%E1%BA%A7u+ti%C3%AAn+th%E1%BA%BF+gi%E1%BB%9Bi+%22&ie=utf-8&oe=utf-8&aq=t&rls=org.mozilla:en-US:official&client=firefox
    Bán nước từng mẩu trên đình
    Lại lão này, Đinh Ngọc Lân. Cái Areva bị chồng Siemens bỏ rơi, thuê bồi lưỡi la liếm cho bóng, không hiểu chi mấy xiền cho bác thợ chuyên nghiệp này nhể . Con này có lịch sử mấy chục năm thu tiền mãi lộ máy X quang với lò vi sóng, vưa đủ nứt hay seo mà về già còn tận thu bằng nghề bồi lưỡi. Không phụ công thầy cô dạy lão đến tiễn sỹ nhể, cái đoạn miêu tả Gen II Gen III hết sức đúng khuôn mà bọn đội mồ sống lại chúng mớm cho.
    Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của nước Pháp EDF - 1 (EDF là viết tắt của électricité de France - Tổng công ty Điện lực Pháp) công suất 70MW bắt đầu hoạt động vào năm 1956, hai năm sau khi Liên Xô (cũ) xây dựng thành công nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới ở Obninsk công suất 5MW, khánh thành ngày 27.6.1954.
    Đầm nhà bò chiến đấu ác nhể.
    Tháng 6.2007, Bộ Năng lượng Thái Lan giao cho Cơ quan Phát triển điện lực Thái Lan chuẩn bị để xây dựng một nhà máy điện hạt nhân với công suất 4.000 MW. Việc xây dựng sẽ bắt đầu từ năm 2015 và việc vận hành từ năm 2020. Giá thành xây dựng dự tính 6 tỷ USD và giá điện vào khoảng 6 cents/kWh, rẻ hơn một chút so với điện chạy than.
    Tháng 5.2008, một đoàn đại biểu của Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Pháp, Viện Bảo vệ phóng xạ và an toàn hạt nhân, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân và Công ty AREVA sau khi tham dự Triển lãm Quốc tế lần thứ 4 về điện hạt nhân ở Hà Nội đã sang Bangkok làm việc với Cơ quan Nguyên tử vì hòa bình (Office of Atoms for Peace ?" OAP) của Thái Lan.

    Mà, tìm mãi không thấy cái bài viết của lão nghị gậy neog đó, la liếm cái CPR-1000, hàng nhái của nhái , bực mình, cái trang tin này lại ngỏm rùi, đợi nó ngủ dậy đã.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 13:06 ngày 15/04/2010
  7. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Cái anh Mèo bi h thích kêu Gâu Gâu , kêu bằng mọi thứ tiếng. Tại seo các bạn bít rùi. Đợt này thị trường hột nhơn nở rộ, mà loài Mèo chả có j` bán, thậm chí đang đi tính nhập khẩu thiết kế lò, còn việc nhập khẩu các mặt khác như công ăn việc làm, nhiên liệu..... thì lâu rùi. Không được ăn lên anh tức khí chửi bới cả mọi loại hột nhân trên mặt đất, chửi tất cả mọi thứ, chửi tất cả mọi người và chửi tất cả mọi chỗ. Mấy con Mèo dính chút tiết Vịt cũng vậy, ra bờ ao chĩa sang bên kia kêu gâu gâu.
    Khối Mỹ Pháp Nhật không phải thiếu những điểm độc đáo, ưu việt, ví dụ như tự động hoá máy tính thì họ rất trội, mà Gen III+ thì nguyên cái dấu + là tự động hoá máy tính. Trong Gen III+, có một giải pháp là robot thám tính lò sau sự cố (Nhật) , chúng ta biết là TMI cãi chưa chảy lò cho đến 1985, robot chui vào, không có robot này chắc nó cái trẵng vĩnh viến lun. Giải pháp đầy đủ của việc này là cả cái cần cẩu, robot mở nắp thùng, lấy lõi, đóng hộp rồi đưa ra ngoài nhà lò nhiễn xạ sau khi nổ thùng, đem chôn, cũng để khắc phục TMI == 10 năm lấy lõi, 20 năm mới đóng được ván thiên.
    Những điểm độc đáo đó nếu tớ có thì tớ chả thích tự hào. Nhưng cũng đang tự hào.
    Thật ra, đây là một bài học rất lớn của lịch sử. Sau các chiến dịch châu Âu, người Mông Cổ đánh đến Baltic, đặt ở Hungaria cũ những đoàn công nhân mà họ chọn lọc từ khắp thế giới, từ đó, miền Hungari cũ (Nam Đức, Hung, Áo, Sezh, Slovakia) trở thành cái nôi của cách mạng công nghiệp. Từ đó, kỹ thuật chảy từ Đông Âu sang Tây Âu, Tây Âu tìm thị trường bán. Lúc hiền thì châu Âu ưỡn ẹo chào hàng, cho vay nặng lãi..... lúc ác thì cướp biển chiếm thuộc địa.... đều là các công tác thị trường.
    Thế nhưng trong 70 năm của kỹ thuật hạt nhân, dòng chảy lại ngược lại, vì vậy mới thê thảm vậy. Lúc giao thời, thì dòng chảy hỗn loạn, lúc tiến chỗ lùi, và có cái Gen III lừng lẫy địa cầu. Lò hạt nhân thế hệ 3 kiểu mới là gì ? quái thai sinh ra từ xoáy nước hỗn loạn lúc giao thời.
    Dòng chảy ngược vì cái số phận chả giống ai của Đức, Nhật sau WW2. Phản ứng dây chuyền và các thứ liên quan được người Đức phát minh, cùng với nỗ lực thí nghiệm điều khiển phản ứng. Otto Hahn và Fritz Strassmann tìm được phản ứng dây chuyền năm 1938, chỉ sau sự phát hiện neutron vài năm, ban đầu, hai ông phát hiện ra sự xuất hiện của hạt nhân mới sau khi dùng neutron bắn phá uran tự nhiên, sau đó là sự xuất hiện của neutron mới, biểu hiện của phản ứng dây chuyền. Sự toả nhiệt mạnh được các nhà bác học chú ý và sau đó tính được năng lượng khổng lồ của phản ứng này.
    Uranverein (Câu lạc bộ Uranium ) được thành lập 1939, bắt đầu chương trình phát triển điều khiển lò và vũ khí hạt nhân. Nếu không có chiến tranh, thì các nước khác còn lâu mới đuổi kịp Đức. Hitler lợi dụng sự điên rồ lúc đó, phát động chiến tranh dựa trên tư tưởng phục thù, tập hợp lực lượng là những tổ chức kinh doanh thua thiệt trong ww1, chủ yếu là những cty mới nổi, yếu kém, trong khi đó những dạng bác học lâu đời như Mauser-Rheinmetall lép vế. Sự phục thù chủ yếu nhằm vào Nga, bị giới đàng điếm Tây Phú mẹ ghẻ ta làm liệt não giới quý tộc, Nga phản bộ tình đồng minh 300 năm của Đông Âu, tấn công Phổ hồi WW1, để lại thảm hoạ cho Đông Âu là tan vỡ Ao-Hung và đế quốc Phổ, đế quốc Nga cũng diệt vong.
    Cũng năm 1939,. lúc đó tin tức khoa học còn công khai, nhiều nơi ở Đông Âu bắt đầu các chương trình hạt nhân, cả ở Liên Xô cũng vậy (những thí nghiệm về phản ứng dây chuyền được thực hiện năm 1940). Một số đầu tư không nhỏ, như nhà máy nước nặng Na Uy 12 tấn / năm. Năm 1943, Đức xây lò Haigerloch, sau này về vùng quân Pháp quản. Đồng minh đánh phá ác liệt, phá tan các cơ sở hạt nhân liên quan đến Đức.
    Sau chiến tranh, đáng tiếc, nước Đức mất đi một đội ngũ huy hoàng, các nhà khoa học hạt nhân tiên tiến nhất thế giới lúc đó. Phần lớn các nhà khoa học tham gia các chường trình này, hay có những công trình khác về hạt nhân bỏ sang Anh, Pháp, Canada và một phần sang Mỹ. Phía Liên Xô, cũng có một số các nhà bác học Đức cộng tác, nhưng không nhiều, Liên Xô dùng tù binh Đức xây thành phố bí mật Sarov (Са?о́в, mật danh Arzamas-16), để các nhà khoa học Đức sinh sống.
    Thật ra, cho đến thập niên 197x, thì điện hạt nhân mới vươn dậy ở các nước tiên tiến nhất , trước đó, thì tổng công suất ở các nước đều thấp. Trước năm 1970, cả nước Mỹ có vài GW, chúng ta biết TMI là 1979, như vậy, cái kỹ nghệ này của nhà Mèo ngắn tũn. Sự phát triển ồ ạt lên 110 GW được thực hiện chỉ trong giai đoạn ngắn tũn đó, thật ra, nhiều lò đang xây dở đình đốn, nên đến đầu thập niên 199x thì mới lên được công suất tối đa, công suất cao nhất đạt 2007 và nay thì các bạn đã biết, đang đóng cửa ồ ạt vì rất nhiều nguyên nhân.
    Lò nước nhẹ nén là lò dễ làm nhất, hiện tại lè rẻ nhất, thật ra, rẻ nhất là nước sôi nhưng nó tởm quá. TMI nước nhẹ nén như vậy, mới chạy được vài tháng thì xì sạch nước lõi. xì chết khoa học xây lò nhà Mèo, Westinghouse chạy sang Nhật Hàn Tầu. Anh Pháp bơ vơ mất đầu, nhái cái TMI , rồi anh Tầu nhái lại cái CPR. Đến khi đội mồ sống lại thì TMI nén căng nhiên liệu thành EPR.
    Xem chừng, dòng giống nhái này có vụ TMI, vụ rò thay lõi ở cụnm Quảng Đông (Đại Á, Lĩnh Áo, Đài Sơn), rồi nứt khi thử áp lực, may là chưa chở đến Phần Lan 2005. EPR bán cho Đài Sơn sau đó là Areva bán cho Areva (lập liên doanh với điện lực Quảng Đông, Areva 30% vốn đóng góp bằng lò, cùng thu tiền điện), bảo nó cạnh tranh thì hài hước quá. Kiểu ván lò nhưng thực chất là cho vay vốn này thực chất là hành động tham nhũng kinh tế, chính trị để nuôi sống Areva mất sức cạnh tranh, tái diến ở Ấn Độ và có khả năng ở Vịt, nếu như Đầm còn chưa mòn hết mẹt, vay được xiền.
    Rồi chưa hết, thằng chồng phát xít Siemens nó đá đít năm 2009, bán lại 34% cổ phiếu Areva giá cao, quay sang Rosatom. Đầm Areva tủi thân thuê bác Lân nhà mình la liếm cho bóng. Còn mấy bác nghị gật nữa, cái trang nghị gật đang chết, phụ việc bác Lân la liếm cái anh em gần CPR cũng trên đó. Cái bọn bán nước từng mẩu ấy bán j` nhể ? bán tính mạng dân Vịt giá rẻ à.
    Mà, Cái Areva ấy nó cũng còn hơi đâu mà các bác đi lại với nó. Cứ cho các bác ký, thì nó lột được cái j` ra mà bán. Tiền liên doanh đi vay EU kia kìa, dưng cơ mừ khủng hoảng, vay được mấy câu hứa hão.
    Đồ thị phát điện hạt nhân Mèo, bên dưới trái là công suất thiết kế. Sau 1979, không còn dự án nèo được ký, như vậy, chỉ từ cuối 196x đến 1979, người ta kỹ ồ ạt từ vài GW lên 110 GW. Một số dự án khởi công rùi nhưng đình đốn nến mãi 2007 mới được tối đa. Một số dự án thì tháo dỡ. Hiện mới ký thêm 4 cái AP-1000, nhưng bù lại đang dừng hàng loạt.
    [​IMG]
    Ở Liên Xô, trước chiến tranh vật lý hạt nhân khá phát triển, tất nhiên là châu Âu không chấp Mèo, Liên Xô khá thân với Đức, Thuỵ Điển, Na Uy lúc đó. Người Liên Xô cũng đầu tư kha khá cho vật lý với máy gia tốc từ 193x, một số mỏ uran được phát hiện từ 191x, 192x.
    Sau những thí nghiệm thành công tạo ra phản ứng dây chuyền năm 1940, thì chiến tranh, mọi việc dừng lại
    Sau chiến tranh, Liên Xô xây dựng một thành phố cho một số nhà khoa học Đức của chương trình hạt nhân, tên là Arzamas-16 (Sarov), và một số thành phố khác cũng bí mật như thế, gồm Sverdlovsk-44 ( Novouralsk ) , Chelyabinsk-40 (Ozyorsk ), Sverdlovsk-45 (Lesnoy).
    Sau cùng là Tomsk-7 (Seversk), nhà máy vũ khí lớn nhất của Thế Giới, 1949. Lò phản ứng thí nghiệm đầu tiên của Liên Xô hiện nay vẫn hoạt động như một nguồn neutron cho nghiên cứu, công suất tối đa 24KW. Đây là một may mắn lớn cho Liên Xô, vì các lò phản ứng đầu tiên của Mèo, Ca, Đức đều không chạy hoặc chạy phát sụn lưng luôn như CP-1 mà Enrico Fermi xây cho Mèo.
    F-1 có cấu tạo giống Hanford 305, Mèo xây ở Washinton (không phải DC, mà là bang hẻo lánh chuyên về tầu ngâm hạt nhân miền Tây Bắc), đây là kiểu lò được đông đảo các nhà khoa học Âu-Mỹ đề nghị, nên nó chạy ổn cũng có lý. F-1 khởi động lần đầu giáng sinh 1946, 6 h sáng, công suất lần chạy đó chỉ 10 watt.
    http://nuclearweaponarchive.org/Russia/Russreac.html
    [​IMG]
    Tuy các nhà khoa học Đức chủ yếu sang Ca, Pháp, Anh sinh sống, nhưng may mắn là Liên Xô được cộng tác nhiệt tình (bên Pháp các nhà khoa học Đức rất thất vọng), thêm nữa, Liên Xô thừa kế luôn các mỏ Đức đang khai thác ở Đông Âu (Czechoslovakia, Bulgaria, Ba Lan, Đông Đức), cho đến năm 1949, thì sản lượng uran khai thác ở Liên Xô chỉ chiếm 20% nguồn cung. Ở Liên Xô, toán học phát triển hơn, nên sớm có các thiết kế bom A tốt (với nguồn neutron tritti T3, L7). Lò to chế P chạy lần đầu ở Chelyabinsk năm 1947-1948. Krasnoyarsk-26 và Tomsk chế P quy mô lớn 1955 . Sau vụ thử bom A 1939, U làm giầu kiểu súng đơn giản, Liên Xô có ngay loại bom A tiên tiến 40 kt năm 1951, hai kiểu pluton và uran.
    Lò thử nghiệm Liên Xô F-1 chạy sau Mèo dài và sau Canada hơn một năm, lò chế P chạy trước Windscale Anh Quốc 2 năm. Lò chế P quy mô lớn gấp 3 lần Magnox anh (1956) ra trước 1 năm (1955), nhưng Ivan-1 không tai nạn lớn phải bỏ. Như vậy, trong giai đoạn này, Liên Xô và Anh cùng thừa hưởng những bào toán lý thuyết phổ biến trong giới khoa học lúc đó và bám sát nhau.
    Siberian Chemical Combine (SKhK) tại Tomsk-7 (Seversk), thành lập 1949. Năm 1955, Ivan-1 (I-1) chạy, chỉ chế Pluton nhưng quy mô lớn, kiểu lò này công suất phát nhiệt 100MWW. Ivan-2 (còn gọi là EI-2, September 1958, cả hai dừng 1990, phát điện), ADE-3 (14 July 1961, phát điện+nhiệt, dừng 1992), ADE-4 (1965, dừng 2008), ADE-5 (1968), trong đó, ADE là lò giống như RBMK sau này, 2500 MW nhiệt, tương đương 1GW điện RBMK nhưng ADE phát điện yếu hơn.
    Tổng cộng, đến nay, riêng cụm Tomsk đã chế tạo 64 tấn pluton (đủ cho cả họ nhà Đầm Bò xài chục năm, than chì nó như vậy). Các lò này có tỷ số 1:1, tuy kém phát điện, nhưng lại không tốn nhiên liệu chút nèo hết. Tất cả đều xài uran tự nhiên. Nhiều người vẫn gọi đây là RBMK thế hệ đầu.
    Krasnoyarsk-26 (Zheleznogorsk) là nhà máy bí mật xây trong lòng núi. Lò đầu tiên kiểu Ivan chạy 8-1958, sau đó là AD-1, ADE-2. Chú ý là, hai cụm này vẫn chạy cho đến nay, nhưng chúng vẫn bí mật và không được thống kê.
    Gọi là thế hệ này nọ, nhưng các lò natri cũng phát điện ở Zarechny, lò Novovoronezh VVER 200 MW khởi công 195x hoàn thành 1964
    http://www.nti.org/db/nisprofs/Russia/fissmat/putomsk/tomsk7.htm#REACT
    http://www.cns-snc.ca/media/uploads/branch_data/branches/ChalkRiver/past_speak/Pioro_Russian_NPPs.pdf
    http://www.springerlink.com/content/8u0153n11k4321x4/
    http://books.google.com.vn/books?id=CPRVbYDc-7kC&pg=PA96&lpg=PA96&dq=%22ADE-3%22+reactor&source=bl&ots=vIPF2BWtNl&sig=o02y-OUY2d1uAwEnfMcFJKeCRmc&hl=vi&ei=Xa_GS8uQMc6IkAXmpvm2CQ&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=8&ved=0CCoQ6AEwBw#v=onepage&q=%22ADE-3%22%20reactor&f=false
    http://www.cns-snc.ca/media/uploads/branch_data/branches/ChalkRiver/past_speak/Pioro_Russian_NPPs.pdf
    tổng kết điện hạt nhân Liên Xô giai đoạn trước 1970
    Như vậy, trước 1970, Liên Xô đã có hai giai đoạn phát triển hạt nhân. Giai đoạn đầu là quy mô nhỏ đến 1955, giai đoạnk sau là quy mô lớn hơn. Đến 1964, Liên Xô hoàn thành 2 cụm lò than chì đầu tiên với sản lượng pluton cho đến nay cỡ trên 100 tấn (riêng số lò đó). Lúc đó, ngành điện hạt nhân của Liên Xô cũng chỉ có mấy lò đó là lớn, tổng công suất phát điện nhỏ hơn nhiều quy mô lò, do tỷ lệ điện / tổng nhiệt nhỏ. 2 cụm này có tổng công suất phát nhiệt bằng 5 lò 1 GW sau này (không tính Ivan ban đầu).
    Các kiểu lò kinh tế RBMK và VVER được quyết định 1954. RBMK không cần thử nghiệm nhiều vì chúng chính là thiết kế ADE, chỉ cần tăng khả năng phát điện chút. VVER khởi công 1957 và phát điện 1964.
    Năm 1955, cũng đánh dấu Liên Xô thử nghiệm BR-1 , chuẩn bị thiết kế BN-60, BN-350. BN-350 khởi công 1964 và chạy thật 1972. Nếu bỏ qua 2 năm thì bắt đầu thập niên 1970, Liên Xô đã có đủ các loại lò cần thiết đã thử thách quy mô lớn.
    Cũng vào 1970, những lò chì-bismut đầu tiên đẩy Lira Class chạy.
    Mặt thiếu của Liên Xô là nước nặng, có lẽ không ảnh hướng lắm với các thành quả trên.
    vũ khí Liên Xô giai đoạn trước 1970
    Chương trình vú khí Liên Xô khởi động 1944 bởi ý kiến của các nhà vật lý, trước tin tức Đức Nhật Mỹ phát triển vũ khí. Nhưng chương trình chỉ chạy mạnh từ 1946, sau khi hoàn hồn và chuẩn bị, xây dựng những cơ sở bí mật. Cả hai hướng chế P và làm giầu U235 đều tiến hành. Nguồn cung uran chủ yếu từ các mỏ Đức đã khai thác ở Đông Âu và cỡ 1/5 là từ các mỏ mới triển khai khai thác ở Liên Xô. Các nhà khoa học Đức cộng tác nhiệt tình, không bất mãn như ở Pháp. Thêm nữa, tình báo Liên Xô khai thác được thông tin về chương trình bom Mèo. Năm 1949, quả bom U làm giầu kiểu súng giống y Hirosima thử thành công.
    Ngay năm 1951 liền sau, Liên Xô đã vượt lên bằng toán học, khi tính toán đúng kiểu bom A có tritti T3, Li7, 40 KT pluton.
    Cũng ngay sau đó, Liên Xô vượt xa Mèo về vũ khí khi cho nổ quả bom khinh khí thật sự đầu tiên 1955, trong khi quả bom nhà Mèo chỉ giết được quân ta vì to quá, mang tính thử nghiệm. Bom khinh khí thật sự dùng chất nổ chính là D2, Li7, phần ngòi chỉ chứa ít T3 dễ thay thế. Còn bom thử nghiệm dùng D2-T3, T3 phóng xạ mạnh rất khó bảo quản và giá đắt, tuổi thọ ngắn.
    Năm 1961, nổ quả bom to nhất quả đất. Đấy là Tu-95 bay chận, không thoát được, nên bớt đi một nửa đấy.
    http://www.nuclearweaponarchive.org/Russia/TsarBomba.html
    Với việc tính toán lý thuyết đúng đắn và đo đạ các số liệu khoa học hạt nhân quy mô, Liên Xô đi sau nhưng thành công liên tiếp trong các thiết kế lò và vì vậy, có quy mô sản xuất pluton lớn trong giai đoạn 1945-1955. Trong giai đoạn sau đó, thì Liên Xô vượt xa nhà Mèo, với các lò lớn chế P nhưng tự nuôi bằng bán điện, nhiệt, năm 1964 đã có quy mô bằng cuối thập niên 196x nhà Mèo, trong khi bên Mèo chủ yếu là nước nhẹ.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 18:50 ngày 15/04/2010
  8. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72

    So sánh giai đoạn trước 1970 từ Liên Xô
    Tổng công suất nhiệt-điện vào lúc khởi động ồ ạt trước năm 1970 Liên Xô cao hơn nhưng vẫn giới hạn mức tương đương 5GW điện ngày nay. Với con số đó, mà chỉ Tomsk đến nay đã cho ra 64 tấn pluton, thì người ta ước tính số pluton Liên Xô và Nga đã sản xuất cỡ 200-300 tấn
    So sánh kết quả 1970: Khối Mèo Đầm Ô Qua: chết natri quy mô lớn, co về thử nghiệm, không than chì, toàn bộ khối kinh tế là nước nhẹ. Một nửa số nước nhẹ là nước sôi ghê tởm, riêng sau này Ô Qua nước sôi chiếm phần lớn.
    Thực chất, các chương trình nghiên cứu lò hạt nhân bên Mèo thất bại sau năm 1945, lò nước nhẹ là lò đẳng mọi thuộc địa, dễ làm, giá rẻ, và sống bằng tận diệt tương lai gần. Các chương trình thất bại vì các nhà khoa học tiên tiến như Enrico Fermi, Énstin.... rời xa chính quyền Mèo hoang dã dốt nát mà lại tham lam. Dễ dàng so sánh người chế tạo bom khinh khí cho Mèo sau đó với Ferrmi, thiếu kiến thức, ông ta loay hoay với một rừng phương án sai, rồi vội vã tiến hành thử nghiệm hão phục vụ tính háo danh, tốn kém và không hề là một vũ khí.
    Chính vì vậy, Liên Xô đã có thiết kế bom A kỹ thuật cao năm 1951, đã có thể được coi là vượt Mèo về bom, từ năm 1955 và đỉnh cao 1961 thì Mèo nhường trên tất cả mọi lĩnh vực: toán học, số lượng, kỹ thuật.... về vũ khí.
    Về lò.
    Trước năm 1955, Liên Xô đã duổi kịp Mèo về kỹ thuật điều khiển lò, nói rẻ đã như vậy, chi li là vượt rồi. Khả năng mô phỏng phản ứng của Liên Xô thể hiện vượt xa Mèo từ 1951, với kiểu bom nén pluton có nguồn neutron.
    Đến năm 1958, thì Liên Xô vượt lên hàng đầu thế giới với các ADE mà thực chất chính là các RBMK 1GW đời đầu. Thứ này mới là lò dân sự thật sự, không phải là thứ lò rút tuổi thọ uran từ cỡ ngàn năm xuống 50 năm như Mèo. Thứ này, Anh Quốc mới thànnh công 1976 (khởi công 1964-65-66), Ca thành công quy mô nhỏ 1967== mà thực chất là thất bại phải dừng đến 197x. Ngày nay, các ADE này vẫn chạy quy mô lớn mà không được thống kê (chiếm cỡ 1/6 công suất toàn Nga), chúng chứng minh tính kinh tế của điện hạt nhân, đặc biệt ưu thế trong các vùng xa xôi thưa dân.
    MS cũng dặt một trung tâm dữ liệu trong vùng phủ điện của chúng, vì điện rất ổn định. Nhưng giá trị lớn nhất của chúng, là cái điều mà ngày nay nước Mèo , Pháp, Nhật chưa có, đó là đốt U238. Lúc đó, khi U235 chưa hiếm hoi vì điện hạt nhân còn rất còi cọc, thì vai trò của chúng là đảm bảo ưu thế của Liên Xô với cả núi đầu đạn giá rẻ.
    so sánh với Anh
    Khởi động chương trình trước Anh một chút, sau Mèo Ca rất nhiều, nhưng vào năm 1955 thì Liên Xô đã vượt lên cả về quy mô và các thiết kế khả thi. Thật ra, tính đến 1970, nhưng giai đoạn 2 của Liên Xô hòm hòm vào 1964 với sản lượng điện và pluton tăng vọt. Thực chất, trong tổng số lò điện Mèo thì chủ yếu là các lò nước nhẹ, nên họ phải duy trì các lò pluton ăn bám cho quân sự, đây là sự thất bại trong nghiên cứu lò mấy chục năm và được cõng bởi chính trị thối.
    Anh cũng như Liên Xô, có chương trình từ trước chiến tranh, rồi dừng lại và tái lâp 1945. Nhưng khởi động rất chậm. Họ có nhiều tài liệu từ Mèo và năm 1947 khởi công Winscale Pile 1, bắt đầu chạy thử 10-1950 và tháng 3 năm 1952, họ đã có một số lượng P đầu tiên. Ly tâm khí UF ở Capenhurst, gần Chester, năm 1957 đã có 125 kg HEU (Uran làm bom).
    Windscale đặt tại Sellafield, bờ Irish Sea coast, Cumberland được chọn để xả khí lò ra biển. Magnox thử phát điện năm 1956, nhưng chỉ phát điện thật 2 cái 1 GW năm 1976 và chủ yếu thành công sau 1980.
    Tính chi li, thì sau 1945, Anh Quốc có tài liệu bên Mèo, không cần quan giai đoạn lò bé tẹo như CP-1 nhà Mèo hay F-1 nhà Gấu. Năm 1950 chạy Windscale Pile sau Liên Xô 2 năm. Năm 1956 chạy Magnox đầu tiên, sau Ivan 1 năm và bé bằng 1 góc Ivan, nhưng cái Magnox đầu tiên tai nạn nghiêm trọng. Liên Xô đi bước tiếp theo ADE năm 1958, vượt xa Anh Quốc, vì đến 1976 mới có.
    Tuy không thành công lắm, nhưng Anh Quốc tự chủ với kiểu lò than chì này, không dây dưa với lũ nước nhẹ đang cỡn lên Gen III, vì vậy, nó chả lo j` cái vụ khủng hoảng plutonium hiện nay, cũng vì vậy, nó chả cần sang Gấu nịnh nọt gì. Khủng khỉnh phớt ăng lê.
    Phải nói rằng, tuy có nhiều cái rất đểu như bơm thẳng khí lõi ra, thì Anh Quốc có kết quả, và kết quả đúng. Kết quả là một loại lò đốt được U238 (CGR, AGR, Magnox......). Đây là điều khối Pháp Nhật Mèo chưa có.
    so sánh với Canada
    Ca khởi động lò nước nhẹ thí nghiệm đầu tiên 1944, sau đó 1945. Tuy vậy, đến 1966, lò 200MW đầu tiên mới chạy và đến 1970 có mỗi nó. Nhưng tuy chậm, thì nó vẫn không dùng H1 cướp trắng N của U238.
    so sánh với Pháp
    Tuy Pháp hốt trọn Kaiser-Wilhelm-Institut für Physik (KWIP, viện nghiên cứu vật lý Kaiser-Wilhelm, tức chương trình lò Haigerloch) , nhưng các nhà khoa học Đức bên Pháp làm việc không hiệu quả, xung quanh chuyện chức tước, tiền bạc. Lúc này chính trị bên Pháp rất lộn xộn, hậu quả tâm lý sau khi một bà quý phái bị một thằng phát xít khoẻ mạnh cưỡng bức. Về sau, nhiều nhà khoa học Đức bên Pháp tìm cách sang Anh, Canada, Argentina.
    Commissariat a l''''Energie Atomique, CEA = hội đồng kỹ thuật hạt nhân, được Sác d''''Gôn thành lập 18-10-1945. Không tiếp tục chương trình Đức mà họ thu được (!!!!!), người Pháp đen dân Đức về nhưng chê họ dốt (!!!!!), copy chương trình thử nghiệm điều khiển Canada năm 1944 EL-1. Bên Ca là ZOE (Zero power, uranium Oxide fuel, and Eau lourde - or heavy water), cũng có thể đó là người Pháp di cư, nên Pháp thích. Năm 1948, EL-1 chạy, năm 1949 tách được miligram P đầu tiên. EL-2 chạy năm 1952, đến 1957 có 200 gram P. Toàn bộ giai đoạn này Joliot-Curie (con gái vợ chồng Mari) lãnh đạo, mất chức 1951.
    Thế là, Pháp vẫn không có lò nèo, năm 1956 copy Manox Anh Quốc thành UNGR dùng làm bom, nổ bom A năm 1960 (khi Gấu đang nạp nhiên liệu cho vua bom H). G-1 năm 1956 38 MW nhiệt (bằng góc Ivan năm trước), G-2 năm 1959 200 sau dâng lên 260 MW nhiệt. G-1 cho ra 12kg P mỗi năm, nửa quả bom A.
    Năm 1964 các lò này phát điện thử nghiệm, chúng phải đến năm 1976 mới phát điện quy mô lớn ở Anh thế nèo thì mình đã nói rồi. Các lò UNGR khí Pháp được xuất sang Tây Bán Nhà 1 cái 500MW mình nói rồi, và thế là to nhất, kết thúc.
    Lần thứ 3 Tây Phú Lãng Sa mẹ ghẻ ta ném não đi làm nhái bắt đầu trào lưu lò kinh tế 1970. Loại lò được Đầm chọn bao gồm toàn bộ nước nhẹ, nén như TMI và sôi như oét hao. Đây là gì, thất bại với lò khí UNGR, hay là đồng loã tiêu diệt tương lai gần ?
    Sau khi ném não nước nặng của EL nhái Canada, não khí UNGR nhái Anh Quốc, lần thứ 3, Phú sẽ ném não Mèo đi lúc nèo đây. Chắc là sau vụ Siemens đá đít 2009, sắp rùi.
    Kết luận: vua nhái, tam nhái, tái nhái, liên nhái.....tuỳ bạn bò chọn.
    http://www.nuclearweaponarchive.org/France/FranceOrigin.html
    so sánh với Nhật
    http://www.japannuclear.com/nuclearpower/program/location.html
    Nhật ban đầu có những bước đi đúng, mua một lò nhỏ Anh Quốc là Tokai 166 MW, lò khí này là than chì, tái sinh khá. Như vậy, hàng năm họ có 40kg Pluton tha hồ thí nghiệm.
    Bước tiếp đúng là nhập khẩu lò nước nhẹ nén Mèo 1959. Nhưng chương trình nước nhẹ nén Mèo đình đốn. CHo đến 1970, Nhật vẫn là con só không về điện hạt nhân. Sau đó, họ đã sai khi cho Mèo di cư sang ồ ạt.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 12:29 ngày 16/04/2010
  9. SSX100

    SSX100 Guest

    Nga lại thu về một đống uranium đã làm giàu từ Ukraina. Trước đây, khi Liên Xô tan rã, các nước "tự nguyện" từ bỏ hạt nhân được Mỹ tài trợ một số tiền, còn vật liệu hạt nhân thì Nga thu hồi, kể các nước đông Âu.
    http://www.dailytimes.com.pk/default.asp?page=2010415story_15-4-2010_pg4_10
    Đám Greenpeace giờ kéo đến tận St. Petersburg để quấy rối chuyến tàu Kapitan Kuroptev cargo ship chở 600 tấn DU AREVA Pháp bán. Ở Nga thứ này đang có giá, AREVA bán cũng được một mớ tiền trong lúc đang khó khăn. Trước đó là AREVA định chở bằng tàu hoả thì bị đám chán sống này chặn đường, buộc phải điều tàu Nga chở.
    Hiệp định cắt giảm vũ khí hạt nhân vừa ký, phía Nga sẽ phá dỡ một lô vũ khí có giá 2,5 tỷ USD và thu hồi khoảng 34 tấn plutonium, phía Mỹ tài trợ khoảng 400 triệu và sẽ còn tiếp tục có P-239 để phần nào thoả cơn nghiện.
    Lò hạt nhân đang được mua bán sôi động thì Mỹ chẳng có gì để bán. À quên có chứ, hiệp định ký với Ấn Độ vừa rồi sẽ là một kênh để Mỹ bán chất thải hạt nhân cho Ấn tái chế, thứ duy nhất bây giờ Mỹ có để bán. Trung tâm tái chế này vừa mới khai trương. Đảm bảo đầy đủ nhãn mác dân chủ nên không lo những thứ chết người rơi vào tay khủng bố. Mỹ cũng có thứ để bán đấy chứ, nuôi béo bom Nga giờ đến lượt nuôi Ấn Độ.
    Còn Obama thì vừa cho phép khai thác dầu ở bờ biển nước Mỹ. Một giải pháp thực tế thoả cơn đói năng lượng trong khi chưa biết đến bao giờ mới chiếm được mỏ dầu Iran.
    Còn tương lai xa, người Mỹ yêu hoà bình phi hạt nhân mộng mơ vào khai thác khí metan ở đá phiến dầu. Rất yêu hoà bình nhé.
    http://vietnamese.ruvr.ru/main.php?lng=vie&q=6393&cid=46&p=18.03.2010
    Trong những năm gần đây các phương tiện truyền thông phương Tây thảo luận nhiều về cuộc cách mạng khí đốt, cụ thể là việc phát triển sản xuất gaz từ các mỏ đá phiến dầu. Trong 3 năm qua, hoạt động sản xuất này đã tăng mạnh tại Mỹ, đưa tỷ lệ chiếm từ 2% lên 10% tổng khối lượng. Trung Quốc đang cố gắng lặp lại kinh nghiệm của Mỹ, với hi vọng đạt tỉ trọng khí từ đá phiến dầu lên 25% vào năm 2030. Nguồn gaz này cũng đang được nỗ lực tìm kiếm ở châu Âu. Như vậy, theo tờ báo Anh Finacial Times, Nga có khả năng đánh mất vị trí nhà cung cấp khí đốt hàng đầu thế giới.
    Ông Valery Yazev, Chủ tịch Hiệp hội khí đốt Nga khẳng định, trên thực tế sự đồn đại về vai trò cách mạng của hình thức "nhiên liệu xanh" mới đang được quá phóng đại. Ở đây có rất nhiều huyền thoại viển vông. Đúng là người Mỹ đã nắm bắt công nghệ thu khí metan từ đá phiến dầu và có kế hoạch đến năm 2020, đưa tỉ lệ sử dụng loại gaz này lên mức 40%. Nhưng vấn đề lại ở khía cạnh khác, ông Valery Yazev nói: ?oHiện tại rất khó đánh giá nguồn tài nguyên khí đá phiến dầu. Điều này còn phụ thuộc vào công nghệ khai thác vốn rất khác nhau. Chỉ số ước đoán dao động mạnh. Chẳng hạn, châu Âu nêu khối lượng dự trữ của mình là 15 nghìn tỉ mét khối, đó là rất nhiều. Ngoài Mỹ ra, phải 10 tới 15 năm nữa mới có thể nói về tỉ phần lớn của khí đá phiến dầu trong cán cân nhiên liệu. Không có cuộc cách mạng nào ở đây, nhưng thực tế này nên được cân nhắc, tính toán. Ở châu Âu hiện nay đã giảm mạnh hoạt động khai thác khí đốt thiên nhiên. Tới năm 2020 trữ lượng sản xuất gaz của châu lục sẽ giảm 140 tỷ mét khối, trong khi nhu cầu tăng thêm là 110 tỷ. Có nghĩa, trữ lượng gaz nhập khẩu của châu Âu sẽ phải tăng đến 250 tỷ mét khối/năm. Tất nhiên, không loại gaz đá phiến dầu nào có thể thay thế nhiên liệu Nga ở châu Âu. Yếu tố này giải thích cho việc thực hiện các dự án ống dẫn Nga như Dòng Bắc và Dòng Nam?.
    Theo quan điểm của ông Yazev, chi phí cao của khí đá phiến dẫn tới việc chỉ sử dụng nhiên liệu này tại chỗ, bởi phí vận chuyển sẽ làm cho loại gaz này mất đi tính cạnh tranh. Như vậy, tổ chức xuất khẩu qui mô từ Mỹ là điều khó có thể. Nhưng việc Mỹ dùng khí đá phiến dầu để thay thế khí hóa lỏng sẽ dẫn tới sự chuyển hướng dòng nhiên liệu này sang châu Âu. Tình hình đó có khả năng làm cho cạnh tranh càng trở nên mạnh mẽ giữa các nhà cung cấp truyền thống cho người tiêu dùng châu Âu là Nga, Algeria và Na Uy. Nỗ lực của nhiều nước tìm kiếm khí đốt thay thế hoặc sử dụng các nguồn năng lượng không truyền thống là một điều hiển nhiên. Nhưng Giám đốc Viện chiến lược năng lượng Vitaly Bushuyev nhấn mạnh rằng, chưa thể nói tới việc kỷ nguyên khai thác truyền thống đã chấm dứt: ?oKhông nên nghĩ rằng đây là liều thuốc vạn năng cho mọi rủi ro. Đối với châu Âu, đó là điều không thể. Việc họ đang nỗ lực đa dạng hóa các nguồn nhiên liệu là công việc khá phù hợp. Nhưng không có cơ sở để nói là thời đại sản xuất khí đốt truyền thống đang kết thúc. Dù xét cả về khối lượng cũng như yếu tố tiết kiệm?.
    Hiện nay, khí đá phiến dầu rẻ hơn so với gaz khai thác ở Bắc Cực. Nhưng các chuyên gia cho rằng, đó vẫn là sự xa xỉ nếu so sánh với khí đốt được sản xuất ở Qatar, Turkmenistan và Nga. Người ta bắt tay khai thác khí từ đá phiến dầu bằng công nghệ phức tạp, chỉ là nhằm giảm bớt tính phụ thuộc về năng lượng.

    Được SSX100 sửa chữa / chuyển vào 22:11 ngày 15/04/2010
  10. SSX100

    SSX100 Guest

    Èo, Mẽo còn có cái lò traveling-wave reactor (lò chuyển sóng) rất hoành tráng. Nghe Tây đồn xong cái lò này thì các thể loại lò BN-XXX với Brest chỉ còn nước đắp chiếu. Bởi không cần làm giàu, chất củi là chạy 100 năm, trước mắt là 30 năm, tương lai gần là 50 năm.
    http://intellectualventureslab.com/?tag=terrapower
    Cái lò chuyển sóng này giống như lò chì-bismuth tên ngọn nến Toshiba đang nghiên cứu. Có tên ngọn nến là do nhiên liệu tự cháy trăm năm như kiểu ngọn nến mà link HP đưa link ở đây: http://www.atominfo.ru/en/news/e0269.htm
    Tuy nhiên, traveling ?" wave reactor có tuổi đã hơn 50 năm, từ những năm 1950. Thực ra trước kia nó có tên gọi ?obreed-and-burn? - "tự sinh và đốt". Saveli Feinberg có thể coi là cha đẻ của TWR. Tiếp theo, đã có nhiều nghiên cứu được triển khai mà điển hình là Toshiba hay TerraPower http://en.wikipedia.org/wiki/TerraPower,_LLC
    Bill Gates là người đã đầu tư nhiều tỷ đô la vào TerraPower, hãng nghiên cứu lò chuyển sóng. Nhờ siêu máy tính hùng mạnh để rút ngắn nghiên cứu hàng thập kỷ. Nhưng sau hàng thập kỷ, trước nguy cơ các thông thái nhà Mèo tiêu hết hàng đống đô la và nghiên cứu ra hàng đống giấy lộn cùng hàng tetra rác trong siêu máy tính. Bill Gates phải đi vời lò chì-bismuth ngọn nến Toshiba.
    Không hiểu tại sao nhiều tiền thế mà không thiết kế lấy một con rô-bốt thay/gắp đảo nhiên liệu?
    Não khoa học Toshiba liệu có thổi được hồn vào cái thây ma đắp chiếu 30 năm hay không thì chưa rõ? Nhưng xem ra cái lò có tên rất khoa học chuyển sóng này cũng có chung số phận như cái xe tăng nòng hình thoi thôi. Nhưng nào ai cấm mộng tưởng. Không có mộng thế giới nhạt nhẽo vô vị. Mộng tưởng mang dáng vẻ khoa học càng tuyệt vời.
    (SGGPO).- Theo hãng tin AFP, tỷ phú Bill Gates, người đồng sáng lập ra tập đoàn Microsoft, và tập đoàn Toshiba của Nhật Bản đã lên kế hoạch hợp tác phát triển lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới có thể vận hành trong vòng 100 năm mà không cần tiếp nhiên liệu.

    http://www.sggp.org.vn/khoahoc_congnghe/2010/3/221575/
    http://theopinion.in/bill-gates-toshiba-team-up-to-solve-two-of-the-biggest-problems-of-the-world/
    [​IMG]

    Nói về khoa học thì nước Mèo có nhiều đặc sản. Vô số tên ăn cắp được tung hô là thiên tài. Một tên ở đây: http://ttvnol.com/forum/vatly/1219982/trang-5.ttvn#16213294
    Một tên ở đây nữa: http://ttvnol.com/forum/vatly/1232735.ttvn
    Cả một đám khoa học Mèo nói láo ở đây: http://www.sott.net/articles/show/200037-Scientific-American-s-Climate-Lies
    Thật khó định nghĩa thế nào là khoa học nhưng làm khoa học ví như đãi cát tìm vàng. Ý nói vàng rất hiếm cả ngàn người đãi may ra có 1 người được vàng, ý khác là lao động khó khăn cực nhọc. Ý khác nữa là phải khôn ngoan để biết đãi ở đâu, đãi như thế nào.
    Nhưng người ta có nhiều cách khác để có nhiều vàng mà không phải khó nhọc là lấy luôn cát mạ vàng. Khi cái cục cát mạ vàng đểu ấy được đặt lên bệ thờ và khói hương nghi ngút, nó đã là tôn giáo và những fan cuồng liệt não sẵn sàng nhảy xổ ra băm vằm kẻ nào dám "hỗn" nói cái cục vàng mạ kia bong tróc lộ ra hết cả rồi.
    Khoa học bịp bợm ngày nay nhiều như lá trên rừng. Đây là một trường hợp bịp bợm bằng siêu máy tính khác: http://vndefence.info/modules.php?name=Forums&file=viewtopic&t=1606&postdays=0&postorder=asc&start=188
    Được SSX100 sửa chữa / chuyển vào 12:35 ngày 16/04/2010

Chia sẻ trang này