1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Công nghệ nhà máy điện hạt nhân Việt Nam (sắp xây dựng) và tính toán dài lâu cho nền quốc phòng quốc

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vannienthanh, 19/09/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Công nghệ Nga đã được chọn rồi, còn cãi nhau làm gì?
    Cái sau hình như có xu hướng dùng công nghệ Nhật. Cứ chọn lấy vài loại mà chạy, cái nào tốt là biết ngay ấy mà!
  2. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Cãi đâu, con bị xúc phạm nó thích thế đấy chứ. Đang bàn chuyện Nhật đây.
    Chúng ta đã biết được, bản chất của việc phổ biến lò hạt nhan từ quân sự quy mô nhỏ sang dân sự bắt đầu từ ADE, tức là tiền thân của các RBMK, mà nhiều người gọi là RBMK thế hệ đầu. Obninsk 1954 đã có cấu tạo gần giống, nhưng thực chất, nó là lò huấn luyện.
    Mấu chốt của việc chuyển sang quy mô lớn dân sự là thanh nhiên liệu gốm của ADE. Nó làm bằng gốm, trơ hoá, nhiệt, bền cơ, được bọc vỏ, tác dụng của vỏ là ngăn tia an pha-phá huỷ mạnh cấu trúc hoá học, nhờ đó, vật liệu vỏ không bị phá huỷ bởi các tia nặng trong phản ứng hạt nhân diễn ra lâu dài, đảm bảo độ bền. Lớp vỏ (clad ) chính là bằng Zircon, vật liệu có diện tích bia hấp thụ rất nhỏ, đỡ tốn neutron.
    Các Windscale pile (1950) chạy bằng hợp kim uran-nickel. Magnox tiếp sau là hợp kim magnes = ma giê với nhôm, magnes có diện tích bia nhỏ, nhưng bền nhiệt kém, làm giảm nhiệt độ hơi, giảm hiệu suất sinh công. Tiếp theo hoàn thiện là AGR vãn phát điện ngày nay cho Anh Quốc, khởi công giữa 196x, phát điện 2 cái 1976 , còn các cái khác làm rất chậm và chỉ hoàn thành sau 1980, bởi mấu chốt cũng là chuyển sang gốm.
    Người Pháp thất bại trong 2 thế hệ lò trong một thời gian dài, chúng ta biết rồi. Loại đầu tiên bắt chước các mấu thử nghiệm Canada đầu tiên, mà sau này sẽ là Candu, Quyrie lãnh đạo, dừng. Sau đó là UNGG Uranium Naturel Graphite Gaz. Lò này bắt chước hoàn toàn Magnox trừ một đặc điểm rất ngu si, bọc (clad) bằng hợp kim magnesium-zirconium, nghe hơi nồi chõ từ cả ANh và Nga. Zr sau này được dùng vì bền cơ, nhiệt, hoá, còn diện tích bia tệ hơn Mg. Khi pha như thế, thì bền hoá nhiệt tệ hơn cả Mg, trong khi hưởng diện tích bia tệ của Zr, mà cái thay thế sự ngu ngốc này đơn giản nhất là dùng Zr nguyên chất hay pha một chút hợp kim (cho bền cơ, như Nb Nga, Ca).
    Trong khi Nga, Anh, Ca hoàn thành các mẫu lò do các nhà bác học trước đây đề nghị, thì Mèo thất bại liên tiếp, thế là, Mỹ Pháp dùng lò nước nhẹ nén và lò nước sôi, có nguyên lý và cấu tạo đơn giản, giá rẻ. Nhưng, cho đến giữa thập niên 196x chúng vẫn chưa bung ra dân sự. CHo đến nửa sau 196x, EBR-II , lò thử nghiệm làm mẫu, vẫn dùng hợp kim.
    Và nửa sau 196x, theo hướng Nga, chuyển sang gốm bọc Zr, trở thành mấu chốt của điện hạt nhân dân sự. Có thể có bớt xén một số chức năng, hay gặp nhất là bớt kênh tich luỹ sản phẩm phân rã, gồm đường lỗ tâm và khoang chứa, nhưng các phần còn lại của thanh nhiên liệu thì các nước như nhau, và điện hạt nhân dân sự bùng nổ.
    Bản chất của thanh này là nó đóng kín nhiên liệu trong ống kín, nhờ đó, sản phẩn phân rã, vật liệu độc hại phóng xạ nhất mà con người phải dùng, được bảo quản, vận chuyển, chôn lấp.... đơn giản, an toàn và rẻ. Phát triển lên, Nga có tái chế thì cũng thuận lợi. Thiếu cấu tạo thanh nhiên liệu kiểu Nga, Mèo không tái chế. Pháp sau này có tái chế lại thuê Nga làm, và cải tiến lò tương thích với kiểu Nga.
    Ở đây, SSX nói đến một vài chuyện hài hước khi khủng hoảng cạn nhiên liệu kéo đến.
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-42.ttvn#16377789
    Một là, người ta lôi chu trình thori ra. Ối xời, thori là thứ tồi hơn nhiều U238. Lôi thori ra, tại sao không xơi luôn nửa triệu tấn DU không phải khai thác tinh chế. Mơ hoang nhể. Những giấc mơ của AQ mà, đôi khi nó giúp người ta thêm nghị lực sống.
    Còn một vị giáo sư gì có tên châu Á, nói về tái chế IFR. Đó là loại lò Molten salt reactor. Loại lò này đã được đề nghị trong thập niên 1950, khi tìm cách phát triển điện dân sự.
    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/08/Molten_Salt_Reactor.svg
    Các lò chúng ta biết đều có chất làm mát di chuyển, nhiên liệu cố định. Ở loại lò này, nhiên liệu lỏng di chuyển. Nhien liệu lỏng là các muỗi dạng lỏng (Molten salt ) như UF6.
    Hiện nay vẫn đang chạy thử nghiệm và cũng là một giấc mơ hoang.
    Tại sao hoang, đấy, nó không có thanh nhiên liệu gốm. Mục tiêu đóng hộp sản phẩm phân rã để hoạt động, bảo quản, vạn chuyển, chôn lấp...... không hề được đề cập. Đứng trên quan điểm đó, loại lò này chưa đến đoạn phát triển dân sự. Dù Candu có dùng gốm hay hợp kim, nó vẫn là Candu. Nhưng chỉ Candu dùng gốm mới phóng to và phổ biến ra dân sự. Magnox và AGR cũng chỉ khác nhau mỗi điểm đó.
    Đứng trên quan điểm đó, phóng to lò này ra dân sự lại là mơ hoang.
    Tất nhiên, nhiên liệu gốm của Mèo cũng chỉ đủ mức chạy được đem chôn. Nhưng thế cũng đủ để không mơ hoang như Molten salt reactor. CÒn để tái chế thì còn cần nhiều thứ nữa. Lò có mật độ sính nhiệt theo thể tích thấp, để chèn được DU, có khoang chưá nhiên liệu mới dùng xong, còn toả nhiệt và phóng xạ mạnh..... Nhưng quan trọng nhất là có kênh trích sản phẩm phân rã. Đó là gốm dược ép hơi xốp, có đường lỗ tâm và khoang chứa đầu thanh. Ở nhiệt độ cao, sản phẩm phân rã sẽ đi qua giai đoạn khí, như Iod, xenon.... và thoát từ gốm xốp ra khoang, khoang được chốt bằng chốt hàn thuạn tiện mở trong máy đặc biệt...... Và đương nhiên, thanh nhiên liệu rất bền, kín..... để ủ giảm xạ có khi đến hơn chục năm như SVBR của Lira class.
    Tất cả những cái đó...... làm cho cái đám muối lỏng hơi bị ..... mơ hoang.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 16:38 ngày 16/05/2010
  3. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Cãi đâu, con bị xúc phạm nó thích thế đấy chứ. Đang bàn chuyện Nhật đây.
    Chúng ta đã biết được, bản chất của việc phổ biến lò hạt nhan từ quân sự quy mô nhỏ sang dân sự bắt đầu từ ADE, tức là tiền thân của các RBMK, mà nhiều người gọi là RBMK thế hệ đầu. Obninsk 1954 đã có cấu tạo gần giống, nhưng thực chất, nó là lò huấn luyện.
    Mấu chốt của việc chuyển sang quy mô lớn dân sự là thanh nhiên liệu gốm của ADE. Nó làm bằng gốm, trơ hoá, nhiệt, bền cơ, được bọc vỏ, tác dụng của vỏ là ngăn tia an pha-phá huỷ mạnh cấu trúc hoá học, nhờ đó, vật liệu vỏ không bị phá huỷ bởi các tia nặng trong phản ứng hạt nhân diễn ra lâu dài, đảm bảo độ bền. Lớp vỏ (clad ) chính là bằng Zircon, vật liệu có diện tích bia hấp thụ rất nhỏ, đỡ tốn neutron.
    Các Windscale pile (1950) chạy bằng hợp kim uran-nickel. Magnox tiếp sau là hợp kim magnes = ma giê với nhôm, magnes có diện tích bia nhỏ, nhưng bền nhiệt kém, làm giảm nhiệt độ hơi, giảm hiệu suất sinh công. Tiếp theo hoàn thiện là AGR vãn phát điện ngày nay cho Anh Quốc, khởi công giữa 196x, phát điện 2 cái 1976 , còn các cái khác làm rất chậm và chỉ hoàn thành sau 1980, bởi mấu chốt cũng là chuyển sang gốm.
    Người Pháp thất bại trong 2 thế hệ lò trong một thời gian dài, chúng ta biết rồi. Loại đầu tiên bắt chước các mấu thử nghiệm Canada đầu tiên, mà sau này sẽ là Candu, Quyrie lãnh đạo, dừng. Sau đó là UNGG Uranium Naturel Graphite Gaz. Lò này bắt chước hoàn toàn Magnox trừ một đặc điểm rất ngu si, bọc (clad) bằng hợp kim magnesium-zirconium, nghe hơi nồi chõ từ cả ANh và Nga. Zr sau này được dùng vì bền cơ, nhiệt, hoá, còn diện tích bia tệ hơn Mg. Khi pha như thế, thì bền hoá nhiệt tệ hơn cả Mg, trong khi hưởng diện tích bia tệ của Zr, mà cái thay thế sự ngu ngốc này đơn giản nhất là dùng Zr nguyên chất hay pha một chút hợp kim (cho bền cơ, như Nb Nga, Ca).
    Trong khi Nga, Anh, Ca hoàn thành các mẫu lò do các nhà bác học trước đây đề nghị, thì Mèo thất bại liên tiếp, thế là, Mỹ Pháp dùng lò nước nhẹ nén và lò nước sôi, có nguyên lý và cấu tạo đơn giản, giá rẻ. Nhưng, cho đến giữa thập niên 196x chúng vẫn chưa bung ra dân sự. CHo đến nửa sau 196x, EBR-II , lò thử nghiệm làm mẫu, vẫn dùng hợp kim.
    Và nửa sau 196x, theo hướng Nga, chuyển sang gốm bọc Zr, trở thành mấu chốt của điện hạt nhân dân sự. Có thể có bớt xén một số chức năng, hay gặp nhất là bớt kênh tich luỹ sản phẩm phân rã, gồm đường lỗ tâm và khoang chứa, nhưng các phần còn lại của thanh nhiên liệu thì các nước như nhau, và điện hạt nhân dân sự bùng nổ.
    Bản chất của thanh này là nó đóng kín nhiên liệu trong ống kín, nhờ đó, sản phẩn phân rã, vật liệu độc hại phóng xạ nhất mà con người phải dùng, được bảo quản, vận chuyển, chôn lấp.... đơn giản, an toàn và rẻ. Phát triển lên, Nga có tái chế thì cũng thuận lợi. Thiếu cấu tạo thanh nhiên liệu kiểu Nga, Mèo không tái chế. Pháp sau này có tái chế lại thuê Nga làm, và cải tiến lò tương thích với kiểu Nga.
    Ở đây, SSX nói đến một vài chuyện hài hước khi khủng hoảng cạn nhiên liệu kéo đến.
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-42.ttvn#16377789
    Một là, người ta lôi chu trình thori ra. Ối xời, thori là thứ tồi hơn nhiều U238. Lôi thori ra, tại sao không xơi luôn nửa triệu tấn DU không phải khai thác tinh chế. Mơ hoang nhể. Những giấc mơ của AQ mà, đôi khi nó giúp người ta thêm nghị lực sống.
    Còn một vị giáo sư gì có tên châu Á, nói về tái chế IFR. Đó là loại lò Molten salt reactor. Loại lò này đã được đề nghị trong thập niên 1950, khi tìm cách phát triển điện dân sự.
    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/08/Molten_Salt_Reactor.svg
    Các lò chúng ta biết đều có chất làm mát di chuyển, nhiên liệu cố định. Ở loại lò này, nhiên liệu lỏng di chuyển. Nhien liệu lỏng là các muỗi dạng lỏng (Molten salt ) như UF6.
    Hiện nay vẫn đang chạy thử nghiệm và cũng là một giấc mơ hoang.
    Tại sao hoang, đấy, nó không có thanh nhiên liệu gốm. Mục tiêu đóng hộp sản phẩm phân rã để hoạt động, bảo quản, vạn chuyển, chôn lấp...... không hề được đề cập. Đứng trên quan điểm đó, loại lò này chưa đến đoạn phát triển dân sự. Dù Candu có dùng gốm hay hợp kim, nó vẫn là Candu. Nhưng chỉ Candu dùng gốm mới phóng to và phổ biến ra dân sự. Magnox và AGR cũng chỉ khác nhau mỗi điểm đó.
    Đứng trên quan điểm đó, phóng to lò này ra dân sự lại là mơ hoang.
    Tất nhiên, nhiên liệu gốm của Mèo cũng chỉ đủ mức chạy được đem chôn. Nhưng thế cũng đủ để không mơ hoang như Molten salt reactor. CÒn để tái chế thì còn cần nhiều thứ nữa. Lò có mật độ sính nhiệt theo thể tích thấp, để chèn được DU, có khoang chưá nhiên liệu mới dùng xong, còn toả nhiệt và phóng xạ mạnh..... Nhưng quan trọng nhất là có kênh trích sản phẩm phân rã. Đó là gốm dược ép hơi xốp, có đường lỗ tâm và khoang chứa đầu thanh. Ở nhiệt độ cao, sản phẩm phân rã sẽ đi qua giai đoạn khí, như Iod, xenon.... và thoát từ gốm xốp ra khoang, khoang được chốt bằng chốt hàn thuạn tiện mở trong máy đặc biệt...... Và đương nhiên, thanh nhiên liệu rất bền, kín..... để ủ giảm xạ có khi đến hơn chục năm như SVBR của Lira class.
    Tất cả những cái đó...... làm cho cái đám muối lỏng hơi bị ..... mơ hoang.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 16:38 ngày 16/05/2010
  4. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72

    http://www.areva-td.com/profile/US_57_About+Us.html
    Chán, nhìn vào trang đó, chả thấy gì là hột nhơn hột nhẹo, bỏ nghề rùi.
    http://www.areva.com/
    Đùa chút thôi, cái nghề kia chưa hoàn toàn là Areva chuyên nghiệp, nhưng cũng lớn lắm rồi. Ôi trời, từ nhà sản xuất hạt nhân, nay thành bà bán hàng, rồi mua lò phát điện, thế thì làm thợ điện chuyên nghiệp rồi.
    Areva vuốt đuôi. Chiện này bạn SSX đã post rồi, nhưng mải vui quá, MM chưa tám. Chúng ta đều đã biết, toàn biết hệ thống Gen III chỉ là lừa đảo, nó là một bảng son phấn để vẽ lên rất nhiều loại giá cả khác nhau, thuận lợi cho đấu thầu. Nhiều điểm người ta không tiện nói ra, nhưng riêng các thanh điều khiển thì Anh Pháp, Ca, Phần Lan đã tế, và Anh Ca cấm cửa. Sau khi Siemens sang Rosatom 2009, thì liên doanh này vẫn tận dụng khả năng tiếp thị.... nôm na là rửa tiền, của Areva. Trong hệ thống điều khiển của Gen III EPR, thì có phần +, là phần mềm và máy tính của Siemens, chúng thu thập thông tin , đánh giá một cách tin cậy và quăng lên mạng rộng cho bà con chạy khi có báo động, cũng như cho phép bàn dân thiên hạ theo dõi đúng đắn những lò trang bị + này, điều này khui ra một đống thứ ở Mỹ-đến mức có chú rò 20 gallon nước mỗi phút vẫn chạy, nên Pháp chả dám trang bị cho các lò cũ của họ, Nhật cũng rứa.
    Cái + đó có giá trị, Gấu cũng có, điều này được nó đề nghị và phát triển từ lâu, áp dụng cho cả các RBMK cổ đã chạy từ lâu tân trang lại. Nhưng Siemens giành được "tiêu chuẩn châu Âu" cùng Areva, nên Gấu sau này dùng đồ + của Siemens AG trong các hợp đồng xuất khẩu, bao gồm thiết kế, soft của Siemens và phần điện tử của Phần Lan.
    Một trong những ăn theo của Areva là "tiêu chuẩn châu Âu" phần xẩu cơ khí, tức các cán thanh điều khiển cho hệ thống trên, được Siemens lẳng cho, không lẳng thì Areva chả còn gì làm ngoài lê la giặt tiền. Lợi dụng vị thế là nhà làm lò lớn nhất thị trường Tây Âu, và Tầu trước đây, Areva đưa cái đó làm "tiêu chuẩn châu Âu". VVER Điền Loan vì thế mà dùng, xâm nhập thị trường Tầu vốn đang do Framaton - tiền thân của Areva lúc đó cầm trịch. CHính vì vậy, các VVER xuất vào EU đều dùng cái này, trong khi đó, các VVER của nội địa Nga, sau 2009 có Siemens, thì dùng + của Siemens AG, mà lại không dùng cái cán thanh của Areva.
    Cái thiết kế của Areva ngăn trở việc sử dụng một kết cấu đặc biệt cuả AES-91/92 và các BN, SVBR, BREST...., đó là một hệ thống đảm bảo an toàn hạt nhân thụ động có tên "khối lượng và kích thước liên quan". Ở VVER (từ phiên bản AES-91/92) là khối lượng liên quan, còn BREST là kích thước liên quan. Đại khái, chúng ta có thể hiểu, dù máy tính có bị nhồi phần mềm láo hay nhân viên bị mua, thì không có chỗ để máy điều khiển rút điều khiển ra quá mức tối thiểu, khi đã tối thiểu, muốn rút thêm thanh nào, thì phải hạ thanh khác xuống một lượng tương xứng.
    Quá ? Đây là nguyên nhân dẫn đến Cher nổ, sau khi vận hành thiếu một hệ thống bơm khá lâu, trong thời gian đó, lò ở chế độ rung, tích luỹ khá nhiều điểm làm rối điều khiển, mà điểm làm rối lớn nhất là biên độ chế độ rung tăng dần, chênh lệch giữa nhiệt độ điều hoà (moderator) và làm mát quá lớn, điều hoà nóng ngăn trở lò tái khởi động (neutron tưởng là lò đang hoạt dộng mạnh, trong khi nó lại đang hoạt động rất yếu và có lúc gần như tắt, do moderator quá nóng), người ra rút ra quá nhiều, đến khi điều hoà nguội thì tốc độ tăng phản ứng không kiểm soát được. Khác với AES-91 của ĐIền Loan, AES-91/92 của Ấn Độ có hệ thống khối lượng liên quan này và đương nhiên, vì thế, không có mặt cái cán điều khiển của Areva.
    Trước khi có Siemens, thì Rosatom và toàn thế giới hạt nhân đã nắm được chỗ chết của EPR. Để thay thế trong thị trường Âu, cướp trắng công nhồi sọ liệt não, Rosatom đăng ký tiêu chuẩn châu Âu cho NPP-2006, loại VVER-91/2006 có sử dụng Gen III+ nguyên thuỷ, chính hãng Areva-Siemens, cùng đợt với các lò ABWR Nhật, AGR Anh, Candu-1000 Canada. Tất nhiên, khi bán chúng vào EU, thì các lò trên phải mang cái cán thanh Areva.
    Sau khi Siemens về Rosatom, thì đương nhiên là tiêu chuẩn châu Âu cũng về Rosatom Các dự án VVER đã ký trước đó trong EU vẫn như Điền Loan đợt đầu, là AES-91 không có khối lượng liên quan, mà lắp cán thanh Areva. Còn trước khi "cưới nhau", thì hai hãng đã ve vãn chung chạ chán ra, tất nhiên điểm quan trọng nhất là cái + Siemens lắp cho "hệ thống khối lượng liên quan", được lắp trên các VVER từ đời 92 đổ đi. Giai đoạn sau của ĐIền Loan cũng ném mịe Areva đi, chưa có + Siemens, nhưng lắp AES "khối lượng liên quan" như Ấn Độ.
    Tất nhiên, NPP-2006 cũng như Gen III, để đổ bộ vào thị trường đút lót, tham nhũng, diều không thể thiếu thời nay, và cũng có bản son phấn và các phương án vẽ đủ kiểu tranh, để quát giá thế nèo cũng được. Thằng mua lò tham nhũng bảo gửi 10 đồng vào giá, mà thằng mua lò bác học bảo phải an toàn thế này. OK, xong liền, vẽ luôn. Cùng một lò, 10 giá khác nhau thì được vẽ 10 kiểu, không ai kiện ai. Theo giá khởi công ngay đầu năm nay, hoàn thành trả hết tiền, VVER-1000 (cũng là NPP-2006 1200, thực công suất như nhau), được bán với các giá từ 1,5B $ cho đến 5 B $.
    Và tất nhiên, NPP-2006 cũng có 2 option, là cán thanh Areva và hệ thống khối lượng liên quan, đều là Gen III+. Thật ra, NPP-2006 là VVER-1000 tích luỹ một lô các thiết bị được phát triển từ sau AES-91, của Nga cũng như nhập khẩu them đặt hàng thiết kế, ví dụ, cái cán thanh điều khiển Areva.
    NPP-2006 khá đắt so với VVER-1000 trước đó. Nó có 4 nồi hơi, 4 bơm, thay cho 1 hoặc 2 trước đó, mà vẫn là loại nồi hơi ống đúc dầy như cũ. Thêm nữa, nó có hệ thống cẩu điện tử lấy cái lõi chảy ra, theu yêu cầu Gen III lừa đảo để vào thị trường Âu, cái này thì nhiều nơi không lắp vì quá hài hước. Khi đã sôi hết nước, chảy lõi như TMI, thì cái lõi chảy quá nhỏ bé, việc quan tâm là sơ tán hàng triệu người trên hướng gió, và viecj quan tâm nhất là đừng để điều đó xảy ra.
    Như vậy, là Areva sẽ chỉ còn , nếu có cơ hội, bán dược cái cán thanh điều khiển. Khổ cho Areva Ấn Độ (AES-91/92), đoạn sau Điền Loan (AES-91/92 thay cho AES-91 dùng cán Areva), Thổ NHĩ Kỳ (NPP-2006 giá 5 B $ / 1GW). Đau nhất là Thổ, Areva cố đấm ăn xôi, ngay từ 2007, 2008, người Thổ đã tuyên Areva nên biến đi, nhưng Areva tung đòn chó chét nhát là huy động biểu tình, cuối cùng thì đoàn biểu tình quay lại anti-EPR, tấn công Normandie. Đến nước cuối (đầu 2010), Thổ vẫn dùng cán Areva, nhưng vùa ký chi tiết (5-2010), đã tiêu rồi, dùng hệ thống khối lượng liên quan.
    Bi h chúng ta xem, cái lão tiến sỹ này rao bán cán thanh điều khiển Areva. Lão này là lão thất nghiệp triền miên , nghĩa đen là như thế.
    Đi làm việc vặt cho mọi .... thân chủ. Bạn SSX đã pót link này mà mình mải vui quá chưa tám.
    http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=3496
    Ở đây, nhân cơ hội này, chúng ra vạch rõ cái gọi là an toàn hạt nhân thụ động theo tiêu chuẩn Gen III và EU. Cái lão này đi bán với cán thanh điều khiển , được thua chả bít, chỉ bít rõ là hắn lôi theo một đống tiêu chuẩn để chúng ta tám.

    TS Trần Đại Phúc: Quy trình PSA được sử dụng trong việc tăng cường an toàn khi thiết kế và vận hành NMĐHN. PSA được áp dụng khi quyết định lựa chọn kỹ thuật hoặc thiết kế nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn ở mức cao đối với NMĐHN được thiết kế mới.
    Đối với những NMĐHN đang vận hành, các kết quả của PSA được dùng để:
    - Thẩm định hiệu quả của thiết kế được cải tiến mới;
    - Hoàn thiện việc thử nghiệm định kỳ của hệ thống an toàn;
    - Đề xuất quy trình vận hành áp dụng khi có tai nạn ngoài dự kiến của thiết kế (Beyond-the-Design Basis Accidents - BDBA).
    Muốn vận hành an toàn NMĐHN, nhà vận hành phải dựa trên 3 căn cứ chính sau đây:
    - Đặc điểm kỹ thuật vận hành (Operating Technical Specifications);
    - Quy trình vận hành an toàn (Safety Operating Procedures) khi có bất thường, khi có sự cố và khi có tai nạn;
    - Phản hồi kinh nghiệm thực tiễn vận hành (Operating Experimental Feedback).
    Hoạt động của NMĐHN được chia thành ba cấp độ: Cung cấp điện liên tục cho lưới điện cao thế; ngừng tạm thời để thay nhiên liệu; ngừng để sửa chữa...
    Năm 1990, các nhà vận hành trên thế giới đã thống nhất về sáu trạng thái cơ bản của NMĐHN, trong đó mỗi trạng thái có yêu cầu về quy trình vận hành riêng và rất chặt chẽ. Sáu trạng thái vận hành cơ bản đó được mô tả như sau:
    1. Vận hành bình thường: Trong trạng thái này, vùng hoạt lò đã đạt ?otới hạn? hoặc đang tiến dần tới trạng thái ?otới hạn?; vùng hoạt lò được làm mát bởi hệ thống nước vòng một ở áp suất 155 bar.
    2. Dừng bình thường qua hệ thống bình sinh hơi: Trong trạng thái này, vùng hoạt chưa ?otới hạn?, được làm mát bởi hệ thống nước vòng một. Mức dưới tới hạn của vùng hoạt được giữ bởi hàm lượng thích hợp axit boric. Nhiệt độ của hệ thống nước vòng một từ 1600C (mức thấp) tới 286 hoặc 2970C+ 30C (mức cao) tùy theo loại NMĐHN. Áp suất của hệ thống nước vòng một phải từ 27 cho đến 155 bar và nhiệt độ của nước phải thấp hơn ?ođiểm bão hòa? (water saturation point) ít nhất 300C.
    3. Dừng bình thường qua hệ thống thải nhiệt dư thừa (RHRS - Residual Heat Removal System): Trong trạng thái này, hệ thống nước vòng một sẽ được làm mát bởi hệ thống phụ (hệ thống RHRS), hàm lượng axit boric nhiều hơn hay bằng hàm lượng axit boric trong trạng thái tắt lò ?olạnh?, áp suất và nhiệt độ thông thường ở trong giới hạn tương ứng 5-21 bar và 10-1800C.
    4. Dừng bình thường để sửa chữa: Trong trạng thái này, hệ thống nước vòng một luôn được làm mát bởi hệ thống RHRS, nhưng mực nước trong vùng hoạt cao hơn mức nước theo quy định thông thường, nhiệt độ của hệ thống nước vòng một từ 10 đến 600C và hàm lượng của axit boric nhiều hơn hay bằng 2.000 ppm hoặc 2.400 ppm (tùy theo loại lò và chu trình nhiên liệu).
    5. Dừng bình thường để nạp nhiên liệu vào lò phản ứng: Trong trạng thái này, nắp thùng lò đã được mở ra, và trong thùng lò đang có ít nhất một bó nhiên liệu: Hàm lượng của axit boric phải lớn hơn hoặc bằng 2.000 ppm hoặc 2.400 ppm.
    6. Dừng bình thường khi tất cả nhiên liệu đã được lấy ra và chuyển sang bể chứa nhiên liệu đã cháy: Trong trạng thái này, các bó nhiên liệu phải được làm mát, mực nước và hàm lượng axit boric phải được kiểm soát, nhiệt độ của bể chứa phải từ 10 đến 500C.
    Nhà vận hành phải quan tâm đặc biệt đến hai trạng thái cuối chỉ ra ở trên vì đó là khi tai nạn nghiêm trọng có thể xảy ra như: Khả năng đạt ?otới hạn bất ngờ? của vùng hoạt hoặc bể chứa nhiên liệu đã cháy do hàm lượng axit boric (2.000 đến 2.400 ppm) trong nước của hệ thống nước vòng một hoặc nước trong bể chứa nhiên liệu đã cháy có thể bị pha loãng bất ngờ (mà khi đó các thanh điều khiển đã bị rút ra khỏi vùng hoạt của lò phản ứng).

    Lý lịch. Chúng ta đã biết, các nhà khoa học hạt nhân thật sự là những người được bảo vệ rất cẩn mật. Dù ông ta không tham gia chế lò, thì cũng nắm được nhiều số liệu về vũ khí, hay các nguồn tin gián tiếp để đánh giá vũ khí, như việc vận hành các lò dân sự==nguồn cung T3 và P239. Hay ở các nước lạc hậu, cũng là người nắm giữ sinh mạng hàng triệu người. Một nhà khoa hoạc hạt nhân lang thang == một người thất nghiệp, vô công rồi nghề, chuyên bồi lưỡi bồi mõm và là thành viên cả cái đám nhậu nhẹt sủa thuê IAEA, nuôi bằng tiền ăn cắp, và tạo thành cái mớ "Văn hoá an toàn hạt nhân".
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-41.ttvn#16373972
    Một người thiết kế tầu ngầm hạt nhân Pháp ?? được lang thang ở Bỉ, Ca, và Vịt ? chả lẽ nhà Vịt không tóm sống, cho quay điện như thực dân ngày xưa, : thiết kế tầu ngầm Pháp thế nào, đánh nó thế nào .... Ca giầu hơn ? làm ngay cái bẫy cò ke ông này.... lỡ tay giết người, hay đi chơi.... phố đèn đỏ, quay phim, chụp ảnh.... ròi cò ke: chúng ta thương lượng. Ít ra cũng khui được dăm chỗ của EPR để.... Candu oánh.
    TRẦN ĐẠI PHÚC
    Tiến sỹ về KH&CN hạt nhân
    Đã làm việc tại: Canađa, Bỉ, Pháp.
    Kinh nghiệm chuyên môn:
    · Phân tích các phép thử không phá huỷ và phá huỷ.
    · Phân tích an toàn đối với vận chuyển sản phẩm công nghiệp phóng xạ và nguy hiểm.
    · Phân tích an toàn đối với các thùng lò chịu áp lực của lò phản ứng hạt nhân.
    · Thanh tra giám sát trong NMĐHN và nhà máy sản xuất nhiên liệu hạt nhân.
    · Thành viên của Nhóm công tác về an toàn giữa IPSN, Pháp và?GRS-TUV/Đức: Đánh giá an toàn đối với VVER-440 và VVER-1000.
    · Hội viên chính thức của BNEN (Bureau de Normalisation des Equipements Nucléaires), Nhóm đánh giá các tiêu chuẩn AFNOR và ISO.
    KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY:
    · Sản xuất nhiên liệu hạt nhân, Phân tích an toàn và thuỷ nhiệt vùng hoạt lò phản ứng (Pháp, Thái Lan,Trung Quốc).
    · Bảo đảm chất lượng (ISO-9000), Thái Lan, Trung Quốc.
    · Thiết kế tàu ngầm hạt nhân và các khía cạnh an toàn, Trung Quốc.
    Đốt đít cho ai
    hiện đang sống tại Pháp, vừa qua đã về Việt Nam theo lời mời của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (Bộ KH&CN) để giảng dạy cho cán bộ của Cục và trao đổi các vấn đề liên quan phục vụ cho mục tiêu thẩm định công nghệ ĐHN.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 19:28 ngày 16/05/2010
  5. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72

    http://www.areva-td.com/profile/US_57_About+Us.html
    Chán, nhìn vào trang đó, chả thấy gì là hột nhơn hột nhẹo, bỏ nghề rùi.
    http://www.areva.com/
    Đùa chút thôi, cái nghề kia chưa hoàn toàn là Areva chuyên nghiệp, nhưng cũng lớn lắm rồi. Ôi trời, từ nhà sản xuất hạt nhân, nay thành bà bán hàng, rồi mua lò phát điện, thế thì làm thợ điện chuyên nghiệp rồi.
    Areva vuốt đuôi. Chiện này bạn SSX đã post rồi, nhưng mải vui quá, MM chưa tám. Chúng ta đều đã biết, toàn biết hệ thống Gen III chỉ là lừa đảo, nó là một bảng son phấn để vẽ lên rất nhiều loại giá cả khác nhau, thuận lợi cho đấu thầu. Nhiều điểm người ta không tiện nói ra, nhưng riêng các thanh điều khiển thì Anh Pháp, Ca, Phần Lan đã tế, và Anh Ca cấm cửa. Sau khi Siemens sang Rosatom 2009, thì liên doanh này vẫn tận dụng khả năng tiếp thị.... nôm na là rửa tiền, của Areva. Trong hệ thống điều khiển của Gen III EPR, thì có phần +, là phần mềm và máy tính của Siemens, chúng thu thập thông tin , đánh giá một cách tin cậy và quăng lên mạng rộng cho bà con chạy khi có báo động, cũng như cho phép bàn dân thiên hạ theo dõi đúng đắn những lò trang bị + này, điều này khui ra một đống thứ ở Mỹ-đến mức có chú rò 20 gallon nước mỗi phút vẫn chạy, nên Pháp chả dám trang bị cho các lò cũ của họ, Nhật cũng rứa.
    Cái + đó có giá trị, Gấu cũng có, điều này được nó đề nghị và phát triển từ lâu, áp dụng cho cả các RBMK cổ đã chạy từ lâu tân trang lại. Nhưng Siemens giành được "tiêu chuẩn châu Âu" cùng Areva, nên Gấu sau này dùng đồ + của Siemens AG trong các hợp đồng xuất khẩu, bao gồm thiết kế, soft của Siemens và phần điện tử của Phần Lan.
    Một trong những ăn theo của Areva là "tiêu chuẩn châu Âu" phần xẩu cơ khí, tức các cán thanh điều khiển cho hệ thống trên, được Siemens lẳng cho, không lẳng thì Areva chả còn gì làm ngoài lê la giặt tiền. Lợi dụng vị thế là nhà làm lò lớn nhất thị trường Tây Âu, và Tầu trước đây, Areva đưa cái đó làm "tiêu chuẩn châu Âu". VVER Điền Loan vì thế mà dùng, xâm nhập thị trường Tầu vốn đang do Framaton - tiền thân của Areva lúc đó cầm trịch. CHính vì vậy, các VVER xuất vào EU đều dùng cái này, trong khi đó, các VVER của nội địa Nga, sau 2009 có Siemens, thì dùng + của Siemens AG, mà lại không dùng cái cán thanh của Areva.
    Cái thiết kế của Areva ngăn trở việc sử dụng một kết cấu đặc biệt cuả AES-91/92 và các BN, SVBR, BREST...., đó là một hệ thống đảm bảo an toàn hạt nhân thụ động có tên "khối lượng và kích thước liên quan". Ở VVER (từ phiên bản AES-91/92) là khối lượng liên quan, còn BREST là kích thước liên quan. Đại khái, chúng ta có thể hiểu, dù máy tính có bị nhồi phần mềm láo hay nhân viên bị mua, thì không có chỗ để máy điều khiển rút điều khiển ra quá mức tối thiểu, khi đã tối thiểu, muốn rút thêm thanh nào, thì phải hạ thanh khác xuống một lượng tương xứng.
    Quá ? Đây là nguyên nhân dẫn đến Cher nổ, sau khi vận hành thiếu một hệ thống bơm khá lâu, trong thời gian đó, lò ở chế độ rung, tích luỹ khá nhiều điểm làm rối điều khiển, mà điểm làm rối lớn nhất là biên độ chế độ rung tăng dần, chênh lệch giữa nhiệt độ điều hoà (moderator) và làm mát quá lớn, điều hoà nóng ngăn trở lò tái khởi động (neutron tưởng là lò đang hoạt dộng mạnh, trong khi nó lại đang hoạt động rất yếu và có lúc gần như tắt, do moderator quá nóng), người ra rút ra quá nhiều, đến khi điều hoà nguội thì tốc độ tăng phản ứng không kiểm soát được. Khác với AES-91 của ĐIền Loan, AES-91/92 của Ấn Độ có hệ thống khối lượng liên quan này và đương nhiên, vì thế, không có mặt cái cán điều khiển của Areva.
    Trước khi có Siemens, thì Rosatom và toàn thế giới hạt nhân đã nắm được chỗ chết của EPR. Để thay thế trong thị trường Âu, cướp trắng công nhồi sọ liệt não, Rosatom đăng ký tiêu chuẩn châu Âu cho NPP-2006, loại VVER-91/2006 có sử dụng Gen III+ nguyên thuỷ, chính hãng Areva-Siemens, cùng đợt với các lò ABWR Nhật, AGR Anh, Candu-1000 Canada. Tất nhiên, khi bán chúng vào EU, thì các lò trên phải mang cái cán thanh Areva.
    Sau khi Siemens về Rosatom, thì đương nhiên là tiêu chuẩn châu Âu cũng về Rosatom Các dự án VVER đã ký trước đó trong EU vẫn như Điền Loan đợt đầu, là AES-91 không có khối lượng liên quan, mà lắp cán thanh Areva. Còn trước khi "cưới nhau", thì hai hãng đã ve vãn chung chạ chán ra, tất nhiên điểm quan trọng nhất là cái + Siemens lắp cho "hệ thống khối lượng liên quan", được lắp trên các VVER từ đời 92 đổ đi. Giai đoạn sau của ĐIền Loan cũng ném mịe Areva đi, chưa có + Siemens, nhưng lắp AES "khối lượng liên quan" như Ấn Độ.
    Tất nhiên, NPP-2006 cũng như Gen III, để đổ bộ vào thị trường đút lót, tham nhũng, diều không thể thiếu thời nay, và cũng có bản son phấn và các phương án vẽ đủ kiểu tranh, để quát giá thế nèo cũng được. Thằng mua lò tham nhũng bảo gửi 10 đồng vào giá, mà thằng mua lò bác học bảo phải an toàn thế này. OK, xong liền, vẽ luôn. Cùng một lò, 10 giá khác nhau thì được vẽ 10 kiểu, không ai kiện ai. Theo giá khởi công ngay đầu năm nay, hoàn thành trả hết tiền, VVER-1000 (cũng là NPP-2006 1200, thực công suất như nhau), được bán với các giá từ 1,5B $ cho đến 5 B $.
    Và tất nhiên, NPP-2006 cũng có 2 option, là cán thanh Areva và hệ thống khối lượng liên quan, đều là Gen III+. Thật ra, NPP-2006 là VVER-1000 tích luỹ một lô các thiết bị được phát triển từ sau AES-91, của Nga cũng như nhập khẩu them đặt hàng thiết kế, ví dụ, cái cán thanh điều khiển Areva.
    NPP-2006 khá đắt so với VVER-1000 trước đó. Nó có 4 nồi hơi, 4 bơm, thay cho 1 hoặc 2 trước đó, mà vẫn là loại nồi hơi ống đúc dầy như cũ. Thêm nữa, nó có hệ thống cẩu điện tử lấy cái lõi chảy ra, theu yêu cầu Gen III lừa đảo để vào thị trường Âu, cái này thì nhiều nơi không lắp vì quá hài hước. Khi đã sôi hết nước, chảy lõi như TMI, thì cái lõi chảy quá nhỏ bé, việc quan tâm là sơ tán hàng triệu người trên hướng gió, và viecj quan tâm nhất là đừng để điều đó xảy ra.
    Như vậy, là Areva sẽ chỉ còn , nếu có cơ hội, bán dược cái cán thanh điều khiển. Khổ cho Areva Ấn Độ (AES-91/92), đoạn sau Điền Loan (AES-91/92 thay cho AES-91 dùng cán Areva), Thổ NHĩ Kỳ (NPP-2006 giá 5 B $ / 1GW). Đau nhất là Thổ, Areva cố đấm ăn xôi, ngay từ 2007, 2008, người Thổ đã tuyên Areva nên biến đi, nhưng Areva tung đòn chó chét nhát là huy động biểu tình, cuối cùng thì đoàn biểu tình quay lại anti-EPR, tấn công Normandie. Đến nước cuối (đầu 2010), Thổ vẫn dùng cán Areva, nhưng vùa ký chi tiết (5-2010), đã tiêu rồi, dùng hệ thống khối lượng liên quan.
    Bi h chúng ta xem, cái lão tiến sỹ này rao bán cán thanh điều khiển Areva. Lão này là lão thất nghiệp triền miên , nghĩa đen là như thế.
    Đi làm việc vặt cho mọi .... thân chủ. Bạn SSX đã pót link này mà mình mải vui quá chưa tám.
    http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=3496
    Ở đây, nhân cơ hội này, chúng ra vạch rõ cái gọi là an toàn hạt nhân thụ động theo tiêu chuẩn Gen III và EU. Cái lão này đi bán với cán thanh điều khiển , được thua chả bít, chỉ bít rõ là hắn lôi theo một đống tiêu chuẩn để chúng ta tám.

    TS Trần Đại Phúc: Quy trình PSA được sử dụng trong việc tăng cường an toàn khi thiết kế và vận hành NMĐHN. PSA được áp dụng khi quyết định lựa chọn kỹ thuật hoặc thiết kế nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn ở mức cao đối với NMĐHN được thiết kế mới.
    Đối với những NMĐHN đang vận hành, các kết quả của PSA được dùng để:
    - Thẩm định hiệu quả của thiết kế được cải tiến mới;
    - Hoàn thiện việc thử nghiệm định kỳ của hệ thống an toàn;
    - Đề xuất quy trình vận hành áp dụng khi có tai nạn ngoài dự kiến của thiết kế (Beyond-the-Design Basis Accidents - BDBA).
    Muốn vận hành an toàn NMĐHN, nhà vận hành phải dựa trên 3 căn cứ chính sau đây:
    - Đặc điểm kỹ thuật vận hành (Operating Technical Specifications);
    - Quy trình vận hành an toàn (Safety Operating Procedures) khi có bất thường, khi có sự cố và khi có tai nạn;
    - Phản hồi kinh nghiệm thực tiễn vận hành (Operating Experimental Feedback).
    Hoạt động của NMĐHN được chia thành ba cấp độ: Cung cấp điện liên tục cho lưới điện cao thế; ngừng tạm thời để thay nhiên liệu; ngừng để sửa chữa...
    Năm 1990, các nhà vận hành trên thế giới đã thống nhất về sáu trạng thái cơ bản của NMĐHN, trong đó mỗi trạng thái có yêu cầu về quy trình vận hành riêng và rất chặt chẽ. Sáu trạng thái vận hành cơ bản đó được mô tả như sau:
    1. Vận hành bình thường: Trong trạng thái này, vùng hoạt lò đã đạt ?otới hạn? hoặc đang tiến dần tới trạng thái ?otới hạn?; vùng hoạt lò được làm mát bởi hệ thống nước vòng một ở áp suất 155 bar.
    2. Dừng bình thường qua hệ thống bình sinh hơi: Trong trạng thái này, vùng hoạt chưa ?otới hạn?, được làm mát bởi hệ thống nước vòng một. Mức dưới tới hạn của vùng hoạt được giữ bởi hàm lượng thích hợp axit boric. Nhiệt độ của hệ thống nước vòng một từ 1600C (mức thấp) tới 286 hoặc 2970C+ 30C (mức cao) tùy theo loại NMĐHN. Áp suất của hệ thống nước vòng một phải từ 27 cho đến 155 bar và nhiệt độ của nước phải thấp hơn ?ođiểm bão hòa? (water saturation point) ít nhất 300C.
    3. Dừng bình thường qua hệ thống thải nhiệt dư thừa (RHRS - Residual Heat Removal System): Trong trạng thái này, hệ thống nước vòng một sẽ được làm mát bởi hệ thống phụ (hệ thống RHRS), hàm lượng axit boric nhiều hơn hay bằng hàm lượng axit boric trong trạng thái tắt lò ?olạnh?, áp suất và nhiệt độ thông thường ở trong giới hạn tương ứng 5-21 bar và 10-1800C.
    4. Dừng bình thường để sửa chữa: Trong trạng thái này, hệ thống nước vòng một luôn được làm mát bởi hệ thống RHRS, nhưng mực nước trong vùng hoạt cao hơn mức nước theo quy định thông thường, nhiệt độ của hệ thống nước vòng một từ 10 đến 600C và hàm lượng của axit boric nhiều hơn hay bằng 2.000 ppm hoặc 2.400 ppm (tùy theo loại lò và chu trình nhiên liệu).
    5. Dừng bình thường để nạp nhiên liệu vào lò phản ứng: Trong trạng thái này, nắp thùng lò đã được mở ra, và trong thùng lò đang có ít nhất một bó nhiên liệu: Hàm lượng của axit boric phải lớn hơn hoặc bằng 2.000 ppm hoặc 2.400 ppm.
    6. Dừng bình thường khi tất cả nhiên liệu đã được lấy ra và chuyển sang bể chứa nhiên liệu đã cháy: Trong trạng thái này, các bó nhiên liệu phải được làm mát, mực nước và hàm lượng axit boric phải được kiểm soát, nhiệt độ của bể chứa phải từ 10 đến 500C.
    Nhà vận hành phải quan tâm đặc biệt đến hai trạng thái cuối chỉ ra ở trên vì đó là khi tai nạn nghiêm trọng có thể xảy ra như: Khả năng đạt ?otới hạn bất ngờ? của vùng hoạt hoặc bể chứa nhiên liệu đã cháy do hàm lượng axit boric (2.000 đến 2.400 ppm) trong nước của hệ thống nước vòng một hoặc nước trong bể chứa nhiên liệu đã cháy có thể bị pha loãng bất ngờ (mà khi đó các thanh điều khiển đã bị rút ra khỏi vùng hoạt của lò phản ứng).

    Lý lịch. Chúng ta đã biết, các nhà khoa học hạt nhân thật sự là những người được bảo vệ rất cẩn mật. Dù ông ta không tham gia chế lò, thì cũng nắm được nhiều số liệu về vũ khí, hay các nguồn tin gián tiếp để đánh giá vũ khí, như việc vận hành các lò dân sự==nguồn cung T3 và P239. Hay ở các nước lạc hậu, cũng là người nắm giữ sinh mạng hàng triệu người. Một nhà khoa hoạc hạt nhân lang thang == một người thất nghiệp, vô công rồi nghề, chuyên bồi lưỡi bồi mõm và là thành viên cả cái đám nhậu nhẹt sủa thuê IAEA, nuôi bằng tiền ăn cắp, và tạo thành cái mớ "Văn hoá an toàn hạt nhân".
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-41.ttvn#16373972
    Một người thiết kế tầu ngầm hạt nhân Pháp ?? được lang thang ở Bỉ, Ca, và Vịt ? chả lẽ nhà Vịt không tóm sống, cho quay điện như thực dân ngày xưa, : thiết kế tầu ngầm Pháp thế nào, đánh nó thế nào .... Ca giầu hơn ? làm ngay cái bẫy cò ke ông này.... lỡ tay giết người, hay đi chơi.... phố đèn đỏ, quay phim, chụp ảnh.... ròi cò ke: chúng ta thương lượng. Ít ra cũng khui được dăm chỗ của EPR để.... Candu oánh.
    TRẦN ĐẠI PHÚC
    Tiến sỹ về KH&CN hạt nhân
    Đã làm việc tại: Canađa, Bỉ, Pháp.
    Kinh nghiệm chuyên môn:
    · Phân tích các phép thử không phá huỷ và phá huỷ.
    · Phân tích an toàn đối với vận chuyển sản phẩm công nghiệp phóng xạ và nguy hiểm.
    · Phân tích an toàn đối với các thùng lò chịu áp lực của lò phản ứng hạt nhân.
    · Thanh tra giám sát trong NMĐHN và nhà máy sản xuất nhiên liệu hạt nhân.
    · Thành viên của Nhóm công tác về an toàn giữa IPSN, Pháp và?GRS-TUV/Đức: Đánh giá an toàn đối với VVER-440 và VVER-1000.
    · Hội viên chính thức của BNEN (Bureau de Normalisation des Equipements Nucléaires), Nhóm đánh giá các tiêu chuẩn AFNOR và ISO.
    KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY:
    · Sản xuất nhiên liệu hạt nhân, Phân tích an toàn và thuỷ nhiệt vùng hoạt lò phản ứng (Pháp, Thái Lan,Trung Quốc).
    · Bảo đảm chất lượng (ISO-9000), Thái Lan, Trung Quốc.
    · Thiết kế tàu ngầm hạt nhân và các khía cạnh an toàn, Trung Quốc.
    Đốt đít cho ai
    hiện đang sống tại Pháp, vừa qua đã về Việt Nam theo lời mời của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (Bộ KH&CN) để giảng dạy cho cán bộ của Cục và trao đổi các vấn đề liên quan phục vụ cho mục tiêu thẩm định công nghệ ĐHN.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 19:28 ngày 16/05/2010
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    MM có lý, những bồi mõm bồi lưỡi dạng này chỉ chuyên nghề đốt đít thuê, tức là tung ra những đám làm nhảm , liệt não nghe thì thấy giống khoa học, còn người hiểu biết thì nhổ toẹt cái đám làm nhảm đó. Chúng ta quá biết khoa học lảm nhảm dùng để làm gì và do ai truyền bá. Bản chất của việc truyền bá làm nhảm là ngu dân nhồi sọ liệt não trên các phương diện. Và mục tiêu là mafia hạt nhân bán lò lởm giá cao, giết người hàng loạt không cần biết ngày mai.
    Năm 1990, các nhà vận hành trên thế giới đã thống nhất về sáu trạng thái cơ bản của NMĐHN, trong đó mỗi trạng thái có yêu cầu về quy trình vận hành riêng và rất chặt chẽ. Sáu trạng thái vận hành cơ bản đó được mô tả như sau
    À, vậy chúng ta xem loại nhà máy điện hạt nhân (NPP== nuclear power plan) nào, nó phục vụ ai ? và nó phục vụ thế nào .
    1. Vận hành bình thường: Trong trạng thái này, vùng hoạt lò đã đạt ?otới hạn? hoặc đang tiến dần tới trạng thái ?otới hạn?; vùng hoạt lò được làm mát bởi hệ thống nước vòng một ở áp suất 155 bar
    À, như vậy là lò nước sôi không có vòng 1, không có 155 bar. Lò khí Anh Quốc ARG không có nước nén. loại lò tiên tiến natri BN không có nước nén, loại lò tương lai chì SVBR và BREST không có nước nén. Đáng tiếc là cả Super Phenix cũng không có nước nén, cõ lẽ vì thế mà Phenix chết thảm ư, có vẻ đúng lắm, đây là thời điểm siêu đại bàng đang tung cánh tự hào, mới ốm chưa tẻo hẳn. Hoá ra lão TS Trần Đại Phúc này chính là người đã tham gia hội nghị quốc tế nào đó biểu quyết cho Super Phenix chết thảm chước khi nó thảm thế.
    2. Dừng bình thường qua hệ thống bình sinh hơi: Trong trạng thái này, vùng hoạt chưa ?otới hạn?, được làm mát bởi hệ thống nước vòng một. Mức dưới tới hạn của vùng hoạt được giữ bởi hàm lượng thích hợp axit boric. Nhiệt độ của hệ thống nước vòng một từ 1600C (mức thấp) tới 286 hoặc 2970C+ 30C (mức cao) tùy theo loại NMĐHN. Áp suất của hệ thống nước vòng một phải từ 27 cho đến 155 bar và nhiệt độ của nước phải thấp hơn ?ođiểm bão hòa? (water saturation point) ít nhất 300C.
    Vẫn thế, trong vòng pháp luật của lão này chỉ có lò làm mát nước. Mà lại chỉ làm mát bằng nước pha axit boric ở vòng một. Vậy là trong vòng pháp luật chỉ có hệ lò TMI kinh tởm, mà lại chỉ bao gồm các lò nước nhẹ nén Mỹ Nhật Pháp dùng axit boric, thứ đã ăn thủng thùng lò lỗ như quả bóng và mới được hưởng phiếu phạt 35 triệu.
    Mà sao lão căn thù nước sôi lạc hậu, lò khí Anh Quốc AGR, BN của +sản căn thù được, chứ Super Phenix oai hùng kia có lỗi lầm gì mà lão cũng vứt ra ngoài vòng pháp luật. Hay là Super Phenix có nước làm mát vòng 1, có axit boric, nén đến 27 bar ....
    3. Dừng bình thường qua hệ thống thải nhiệt dư thừa (RHRS - Residual Heat Removal System): Trong trạng thái này, hệ thống nước vòng một sẽ được làm mát bởi hệ thống phụ (hệ thống RHRS), hàm lượng axit boric nhiều hơn hay bằng hàm lượng axit boric trong trạng thái tắt lò ?olạnh?, áp suất và nhiệt độ thông thường ở trong giới hạn tương ứng 5-21 bar và 10-1800C.
    Thôi chết, cùng là nước nhẹ nén VVER cũng bị lão vứt ra ngoài vòng pháp luật. Khi tải nhiệt dư (chủ yếu do phóng xạ dư của sản phẩm phân rã, duy trì dữ dội đến 3 ngày), VVER vẫn có áp suất cao hàng trăm bar, đảm bảo nước không sôi dù có hỏng bơm, nhiệt độ nước không sôi cao sẽ đẩy dòng đối lưu tự nhiên, đủ để tải nhiệt kể cả khi hỏng bơm.
    Thế ra cái hội nghị quốc tế của lão này ủng hộ lò nước nhẹ nén sôi thật mạnh vì giảm van điều áp xuống nhiệt độ sôi còn dưới 180 độ, thay cho 700-800 độ. À, dúng, hậu duệ TMI phải ủng hộ TMI xì hơi.
    4. Dừng bình thường để sửa chữa: Trong trạng thái này, hệ thống nước vòng một luôn được làm mát bởi hệ thống RHRS, nhưng mực nước trong vùng hoạt cao hơn mức nước theo quy định thông thường, nhiệt độ của hệ thống nước vòng một từ 10 đến 600C và hàm lượng của axit boric nhiều hơn hay bằng 2.000 ppm hoặc 2.400 ppm (tùy theo loại lò và chu trình nhiên liệu).
    Uẩy. Skoda sản xuất lõi lò thay thế cho Pháp và Thuỵ Điển, có cả nước nhẹ nén PWR và nước sôi BWR. Thế thay lõi bọn này vẫn đựng nước ở trong ngập nhiên liệu
    vỡ bụng cái con lợn tiến sỹ này.
    Ngoài lề chút, Skoda hoành tráng không, hoá ra mọi loại lò hiện nay, tiên tiến nhất của Tây Phương đều làm ở nhà máy cũ của VVER này: Nước nhẹ nén cũ PWR, Gen III nguyên thuỷ EPR, nước sôi cũ BWR, nước sôi Gen III tân thời WBWR..... Thế Areva nay làm nghề gì ?? Ờ này, lại có cả mấy thiết bị mà Areva tự hào Gen III bày: Hydrogen recombiner mà cái lão tiễn sỹ lợn đang nói này. Hoá ra Areva làm được cái tem dán vỏ
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-pwr-and-bwr-nuclear-power-plants/pwr-and-bwr-reactor-internal-parts.shtml
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-pwr-and-bwr-nuclear-power-plants/flange-joint-stud-tensioner.shtml
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-pwr-and-bwr-nuclear-power-plants/special-constructions.shtml
    5. Dừng bình thường để nạp nhiên liệu vào lò phản ứng: Trong trạng thái này, nắp thùng lò đã được mở ra, và trong thùng lò đang có ít nhất một bó nhiên liệu: Hàm lượng của axit boric phải lớn hơn hoặc bằng 2.000 ppm hoặc 2.400 ppm.
    Lại phải có đủ axit boric mới được luật pháp nhà phúc lợn công nhận. Ngoài BN, Phenix chả có tí nèo, thì các lò hàng hiệu dùng Li3BO3, không ăn mòn hoá học cũng được đặt ra ngoài vòng pháp luật ?? Khổ thân AGR, nó không có dính dáng gì đến axit boric cả đời, hoá ra, AGR nó là thằng mọi không phải người, cả đời không được pháp luật công nhận. Candu cũng không axit boric, nước sôi cũng không axit boric. Nước nhẹ nén thì đấy, chỉ đồ lởm lỗ vuông với axit boric 100% Bo.
    Mà cho dù cùng hàng lỗ vuông, dùng Bo10 làm giầu 60 %, gấp 3 tự nhiên đi, thì Phúc lợn tính thế nèo nhể. ? Đường cười, bồi mõm bồi lưỡi thường đá phải những đoạn lảm nhảm ấy, vì não nát bét, ngoài phân vịt thì có gì đâu.
    6. Dừng bình thường khi tất cả nhiên liệu đã được lấy ra và chuyển sang bể chứa nhiên liệu đã cháy: Trong trạng thái này, các bó nhiên liệu phải được làm mát, mực nước và hàm lượng axit boric phải được kiểm soát, nhiệt độ của bể chứa phải từ 10 đến 500C.
    BN đặt nhiên liệu đã cháy 1-2 năm ngay trong lò, lấy ra ngoài thì ...... VVER, RBMK cũng thế. Candu và AGR cũng vậy, lúc lấy ra thì nhiên liệu đã giảm xạ phần lớn, gần như không toả nhiệt và được băng tải chuyển vào hầm kín.
    Có mỗi loại lò ăn cắp nào lấy nhiên liệu nóng ra, chở về Normandie, hỏng bơm bể ngâm sôi liền 3 tiếng ở trung tâm xử lý La Hay năm 1997. Phúc lợn ơi, trên đời chỉ đúng loại lò nước nhẹ nén nén mật độ phản ứng, cắp trộm hết các thiết bị mới chở sống nhiên liệu đi như thế thôi.
    Tớ cũng tên Phúc đây, nhưng tớ biết ấy đốt đít cho cái gì rùi nhé, để tớ đúc tượng phúc ấy này
  7. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Nói chung điện hột nhơn thì mình chảquan tâm.
    Có điều đọc báo cáo của IAEA thì bảo các nạn nhân Chéc chịu phóng xạ gấp 400 lần nạn nhân 2 vụ bom nguyên tử.
    Đọc báo cáo WHO thì bảo các nạn nhân hai vụ nổ bom được khảo sát còn sống lâu hơn các bác không dính bom.
    Kết luận: trình em là chịu.
    Được gabeo2010 sửa chữa / chuyển vào 14:34 ngày 17/05/2010
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Cái rối rắm của ngu dân nhồi sọ liệt não. Bom nguyên tử là nhà Mèo, nên nó là nhâm sâm. Những nó cũng là phóng xạ, nên Cher là 400 củ sâm.
    Phú lừng danh với việc cho con em chính lò vào lò để xem sống chết thế nèo, có đau không. chúng nó chẳng qua chỉ là ăn sâm thôi.
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Bực mình, hôm qua thấy cái post bên vũ trụ biến mất mà không có báo trong msg. Hôm nay lạu lại mấy cái link đò thị này của MM (trang 42), cũng mất, cũng không có dấu vết ai sửa và không báo trong msg. Ăn cắp post à ? Vào phôtobucket của HP lại out band width ?? Nghe có vẻ giống cái vụ đại lien 12,7mm bên quân sử nhể, cùng một kịch bản.
    Thôi, không chấp.
    http://uk.reuters.com/business/quotes/chart?symbol=CEPFi.PA
    MM đã post tình hình giá chứng khoán của Areva. Sau 2005, nó đội mồ sống lại khi chúng vốn với Siemens bán EPR, nhưng bị vạch mặt lừa đảo, nó cùn đời làm bẫy cò ke ở Phần Lan. Năm 2009, Siemens đá đít. Giá trị của Areva sụt thê thảm sau đó. Lúc Siemens đá đít, thì giá trị chỉ còn được 2,95B EUR / 34% cổ phần, sau đó sụt nữa. Thê thảm cái lịch sử hoành tráng của Framaton, đã từng bán số lò mà ngày nay có giá 300-400 B$.
    Đến tháng 4 năm 2010, nhờ tin tức mà bạn Bò thông báo, 4 lò Ý kỹ biên bản ghi nhớ, giá trị Areva lại ngóc lên tí chút. Thăng 5, liền sau đó, lại sụt thê thảm.
    Bạn bò ơi, vụ đó đứt rồi. MM đã nói, đó là việc vay vốn tự mua là. Đến cả cái EPR cũng được gia công cơ khí phần giá trị nhắt ở Skoda, nhà máy cũ của VVER, còn ruột hạt nhân thì toàn Rosatom, còn gì đáng kể của Areva đâu. Chính vì thế, Areva dùng cái lò EPR tởm lợm ấy, chỉ là sự lừa đảo tạm bợ, sống láy lắt trước mắt để Rosatom và Siemens nó chờ khô dần.
    Tin về 4 lò Ý đây này. Đã về Rosatom. Vậy nên giá cổ phiếu Areva tháng 5 mới sụt. Hai hợp đồng lớn nhất của EPR là Ấn và Ý đã văng, vậy làm, toàn bộ sự nghiệp Areva chỉ bán được đúng 4 lò EPR: Phàn Lan, Normandie, 2 Đài Sơn nhà Tầu mà thực chất là Hồng Công mua.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Thật ra, đúng mức, thì Gấu có thể vẫn để Areva bán EPR ở đây để vượt qua trưng cầu dân ý, nếu như tình hình anti-EPR có biến đổi. Nhưng dễ hiểu luôn là ruột của Gấu và Skoda, nên nó nắm thóp và ký thẳng tiền bán cái ruột đó không qua Areva. Trước đây, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Ý đã trưng cầu dân ý dỡ lò hạt nhân, nhưng về sau chỉ Ý và Đan Mạch thực hiện, Thuỵ Điển thiếu nhiên liệu vẫn chạy.
    Như vậy, việc ý dùng Areva chỉ là nhiệm vụ vay tiền đầu tư, tức Areva là người mua lò bán điện, còn Gấu và Skoda mới là bán lò và duy trì dịch vụ khoa học hạt nhân.
    Và như thế, thì việc Areva vay tiền mua VVER mới là .... không hài hước. Nhưng rõ ràng là trong kinh tế, người ta không cướp trắng của nhau ngay tức khắc, mà siết cổ và đợi địch nhân khô dần. Chúng ta đang ở thời điểm giữa 2 cuộc khủng hoảng như 33-36, đăc trưng là dùng các thế lực chính trị để bảo hộ kỹ thuật kinh tế lạc hậu, giúp kẻ sắp chết hồi dương tí chút trước khi chết hẳn trong 36-39. Việc mấy ông háo sắc Sác Cô Dì, Béo Lút Cô Ni..... chung chạ với đầm khô madame non Anne cũng là cực chẳng đã.
    http://www.bsc.com.vn/News/2010/4/27/90963.aspx
    Ngày 26/4, Thủ tướng Italy Silvio Berlusconi đã có cuộc hội đàm với Thủ tướng Nga Vladimir Putin tại dinh thự riêng gần thành phố Milan nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác về kinh tế và năng lượng giữa hai bên.
    Tại cuộc hội đàm, lãnh đạo hai nước hy vọng hợp tác thương mại giữa hai bên sẽ sớm phục hồi sau cuộc khủng hoảng vốn khiến kim ngạch thương mại song phương bị giảm 30% trong năm qua.
    Về hợp tác trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, Thủ tướng Putin cho biết Nga sẵn sàng hỗ trợ về vốn và công nghệ, cung cấp nhiên liệu và xử lý rác thải hạt nhân, giúp Italy thực hiện mục tiêu tự xây dựng lò phản ứng để sản xuất năng lượng hạt nhân.
    Trong khi đó, ông Berlusconi tỏ ý tin tưởng kế hoạch xây dựng lò phản ứng hạt nhân ở Italy sẽ vượt qua cuộc trưng cầu ý dân để việc xây dựng lò phản ứng hạt nhân đầu tiên của nước này có thể được tiến hành trong vòng ba năm tới.
    Thủ tướng hai nước cũng cam kết tăng cường hợp tác giữa tập đoàn dầu mỏ Gazprom của Nga và công ty dầu mỏ Eni của Italy, theo đó hai công ty sẽ cùng tham gia dự án "Dòng chảy phương Nam."/.
  10. SSX999

    SSX999 Guest

    Có tin là Gasprom và ENI nhường 20% cổ phần Dòng chảy Phương Nam cho Electricite de France. Nếu đúng thế thì là vừa đổi chác 4 cái lò vừa chiêu hồi đệ tử.
    http://en.rian.ru/world/20100427/158759865.html

Chia sẻ trang này