1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Công nghệ nhà máy điện hạt nhân Việt Nam (sắp xây dựng) và tính toán dài lâu cho nền quốc phòng quốc

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vannienthanh, 19/09/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165

    Gen một, gen hai, gen 3, gen bốn, toàn gen lừa đảo
    Các nhà bác học chỉ đề nghị 2 bước, là neutron chậm và neutron nhanh, sao lại lắm thế hệ thế ?
    Nga Ca Anh đã hoàn thiện bước 1 với lò kênh, nhờ có 2 nhiệt độ tách rời, mà có tỷ số tái sinh kha khá và điện tốt. Lò kênh là bước tiếp theo của đẳng kỹ thuật trộn đều.
    Mỹ Pháp không thể vượt qua mức kỹ thuật đống trộn đều, liền sử dụng cái phương án mà các nhà bác học phản đối: nước nhẹ, thứ đống trộn siêu đều sơ khai nhất về nguyên lý, ăn vã tương lai, trước đây chỉ được dùng cho quân sự. Nguyên lý nước nhẹ có từ lâu, phát điện tốt, đơn giản, rẻ tiền, chỉ có điều là ăn cắp tương lai, là con đường tự sát. Trước đây, khi kỹ thuật chưa hoàn thiện (chủ yếu là cấu tạo thanh nhiên liệu), thì nước nhẹ nén và sôi đã chạy thử, đã nổ, cũng đã phát điện an toàn từ 1957. Cho đến khi thanh nhiên liệu đã có cấu tạo tốt cuối thập niên 196x, không có thiết kế lò kinh tế nào, Mỹ và nối theo là Pháp bùng phát bằng thứ lò này. Vì xuất phát như thế nên dịch vụ khoa học lõi của khối này đều xuất phát từ đầu con bạch tuộc là mafia quân sự Mỹ. Sau khi nắm được thứ hạt nhân đơn sơ nhưng rửa tiền tinh vi này, Pháp lại xuất khẩu sang tầu. Nhật do thua trận, chậm phát triển hạt nhân, nên theo, họ không có thiết kế lò nào khả thi ngoài đám đó, nhưng cũng nỗ lực khắc phục phần nào những toởm lợm, Đức cũng vậy.
    Nó là đẳng kỹ thuật trộn đều, thậm chí trộn 3 trong 1, người Mèo đốt chưa đến 1/200 nhiên liệu, Pháp chưa đến 1/100 chúng ta biết rồi, ăn vã tương lai, tự sát được báo trước, và có ngày hôm nay, chó điên đi cướp quặng khắp hoàn cầu, nhưng bà con cười bò: siêu cường quân sự này chưa không thua trận nào, đem cái uy ấy đi cướp mỏ.
    Thế là, nước nhẹ nén - biểu tượng của thất bại - được chèn vào. Biểu trưng của thành công, tức các lò kênh Nga Ca Anh bị coi là .... thế hệ 1 ( AGR, CANDU, RBMK ). Không chỉ lò nước nhẹ nén, lò nước nhẹ sôi cực kỳ ăn ắp thiết kế cũng được coi là thế hệ 2, trên đời, Gen II.
    Anh và Canada buộc phải ứng phó với sức cạnh tranh chó dại này. Ca sử dụng việc đóng cửa xuất khẩu, bằng cả thuế và hạn ngạch. Không hạn ngạch, thì người anh em Mèo đốt vã tài sản của họ. Anh thì chứng minh các lò Mỹ Pháp lừa đảo, cấm cửa.
    Nga không như Anh, phải xuất khẩu, phải làm lò nước nhẹ nén cạnh tranh, nhưng kết cấu không bớt xén và có thế hệ kỹ thuật khác đỡ lưng. Nước nhẹ nén ăn vã nhiên liệu được cõng bởi các lò có tỷ số tái sinh cao hơn, làm mọi thuộc địa.
    Đến khi đội mả sống lại, thì nước nhẹ Gen II lại tự phong là Gen III, mà thậm chí không thèm sửa chữa các bớt xén, thậm chí còn nén tởm hơn.
    Cái hài là sau đó, đám Gen III lừa đảo sớm bị nhìn thấy là chết yểu lần nữa, thế là sau 2005, nước sôi, lò kênh kiểu Anh, lò kênh kiểu Canada, lò kênh kiểu Nga, nước nhẹ nén kiểu Nga..... tuốt tuồn tuột xưng là Gen III để hớt bọt cái công nhồi sọ liệt não của nhóm Gen III lừa đảo.
    Quá hài, tởm lợm như nước sôi cũng Gen II, Gen III
    Cũng là VVER, vẫn là Candu, vẫn là AGR, chúng lại tự tấn phong thành Gen III. VVER còn đỡ-chỉ một thành 2, AGR với CANDU đại nhảy vọt từ Gen I sang Gen III. CANDU còn chịu khó đổi cái tên thành ACR (Advanced Candu Reactor). AGR thì đã A một lần rồi (Advanced Gas Reactor), nên nó sỉ nhục cái tem Gen III của chính nó bỏ xiền ra mua (giá rất rẻ), bằng cách giữ nguyên tên gọi. Bóp Areva tí chết khô, VVER được EPR mến thương thân tặng tem Gen III, Gen III+ đàng hoàng, thi dịch cái tên tiếng Nga sang tếng Anh, AES-2006 nay là NPP-2006.
    Thật ra, lò kênh kinh tế Nga chính thức là RBMK, mà trước đây được bọn nước nhẹ đẳng trộn đều tôn vinh là Gen I, cùng với Candu và AGR, như là huân chương kỷ niệm thất bại thảm hại của Mỹ Pháp, cũng chỉ phát điện chính thức vào thập niên 197x, cũng cùng với Candu và AGR. Phiên bản quân sự ADE đắt đỏ không được công bố mới là phiên bản chạy từ 195x, nhưng cũng không thật kinh tế lắm. Trong khi đó, VVER phát điện dân sự từ trước 1964, BN cũng vậy (BN phát điện 1973, trước RBMK chính thức). Như vậy, BN mới là Gen I, VVER là Gen II, RBMK là Gen III ...hài vãi.
    Sau khi có nhóm Gen III lừa đảo, thì BN là Gen IV. Nó vẫn thế, chả phấn đấu gì, mà danh tiếng tước phong cứ tự nhớn. Hài thế, cái đẳng kỹ thuật đống toộn đều, còn dưới cả đống trộn đều tự nhận mình lớn ần laà Gen II, Gen III, những âẫn chửa dám ngẩng mặt trước BN. Vậy nên khi chúng tự tấn phong lên Gen II (mặc dù chúng là Gen 0), thì chúng kính biếu BN cái biển Gen III. Khi chúng đội mồ sống lại, lừa đảo thây ma là Gen III, thì lại phải nộp tô cho BN cái biển Gen IV.
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    http://www.nuclearfaq.ca/cnf_sectionA.htm
    http://www.nuclearfaq.ca/cnf_sectionA.htm
    http://www.nucleartourist.com/type/candu.htm
    Candu là gì. "CANada Deuterium Uranium" = uran và D2 kiểu Canada. Tức lò phản ứng hạt nhân dùng nước nặng Deuterium và uran. Nó là kiểu lò kênh chúng ta biết rồi, nó cũng như lò Nga, Anh, bị bọn chó dại gọi là gen I chúng ta cũng biết rồi, rồi chó dại lại tấn phong nó lên Gen III chũng ta cũng biết rồi. Cấu tạo nó sơ sơ thế nào chúng ta cũng biết rồi. Ở đây, chúng ta đánh giá thêm , thiên về so sánh thôi, thêm chút thôi.
    Chúng ta là mọi thuộc địa, phải dùng nước nhẹ nén khi bắt đầu, Ấn Tầu cũng thế, chúng ta biết rồi, chúng ta sợ và phục Ấn Tầu, nên không lấy làm nhục khi dùng đồ mọi rợ ấy, cái đó cũng thoả thuận rồi. Ngay cả người Nga cũng không tin nhau lắm, bắt các vùng biên thuỳ của họ dùng đồ này, trong đó có đệ nhị kinh thành Peterburg, nên chúng ta càng đỡ nhục.
    Vậy nên chúng ta tham khảo thêm chút về một phương án không tồi cho Ninh Thuận. Candu cùng thế hệ với RBMK và ADE Nga, AGR Anh Quốc, cũng bắt đầu bùng phát trong thập niên 197x, sau một thời gian dài nghiên cứu và thử nghiệm quy mô nhỏ. Thế hệ này nằm trong nhóm các lò neutron chậm, có tỷ số tái sinh chưa đủ, được các nhà bác học khuyên dùng trong khi đợi các lò neutron nhanh được chấp nhận khi cạn mỏ hoặc chúng có kỹ thuật mới rẻ đi.
    Các lò neutron chậm có 2 đẳng, một đẳng là kỹ thuật đống trộn đều, được làm mát chung chất tải nhiệt, nhiên liệu, và chất làm chậm-điều hoà. Đẳng Candu là lò kênh, tách biệt việc làm mát này, nhờ đó, neutron được điều hoà bởi môi trường điều hoà ưu việt có nhiệt độ thấp, thuận lợi cho điều khiển công suất bằng U238, không phải pha phách các chất hấp thụ, là giảm tỷ số tái sinh, trong khi đó hơi vẫn có nhiệt độ cao, hiệu suất nhiệt-công đảm bảo.
    Lò nước nhẹ các loại bao gồm lò nước sôi và lò nước nhẹ nén đều là đống trộn đều, do khó điều khiển công suất bằng U238, nên phải pha phách chất hấp thụ, mà điển hình chính là nước nhẹ, thì mới có nhiệt độ hơi cao, vì vậy mà tỷ số tái sinh lõi CBR sụt giảm, ăn vã tương lai. Không thành công trong bước tiến từ đống trộn lên lò kênh, dòng kỹ thuật Mỹ Pháp đã lấy kiểu nước nhẹ này từ tầu ngầm đem ra bán, buộc các nước khác phải cạnh tranh theo. Tuy vậy, người Nga, Anh, Ca vẫn bảo vệ được tương lai của mình và đợi ngày hôm nay, chúng nhảy sang Mèo xâu xé thịt Mèo, Pháp ọ ẹ kháng cự liền bị sấy khô.
    Chính vì vậy, lò nước nhẹ thật là là biểu tượng của sự thất bại thảm hại trong khoa học và cạnh tranh chó má trên thương trường của Mỹ Pháp và nay là Tầu. Chính vì xuất phát từ nguyên lý sống ấy, chúng đã bớt xén không ngừng kể cả loại nước nhẹ đã quá đơn giản, dễ làm, gọn nhỏ rẻ tiền. Thậm chí bớt đến cả những khâu nguy hiểm nhất như các hệ thống dừng khẩn cấp hay làm mát thụ động sau dừng khẩn cấp. Không một lò nước nhẹ nào của Mỹ Pháp Nhật khắc phục được sự cố mất làm mát khi mất điện bơm hay hỏng các bơm.
    Đã là lò có tái sinh, thì đương nhiên, phải có kỹ thuật tái chế. Cũng vì ăn vã tương lai nên Mỹ Pháp không tái chế hoặc tái chế cực tởm. Và đương nhiên, các đặc tính của CAndu cũng bao gồm tái chế, môn khoa học, ngành kinh tế mà mèo vứt bỏ hoàn toàn cùng với tương lai.
    Lược sử
    Chỉ trong 2 năm 1937-1939, các nhà khoa học Âu đã chứng minh bằng lý thuyết các dạng lò phản ứng hạt nhân điều khiển được, và lên chương trình, xin đầu tư tiến dần từng bước. Các nhà khoa học Anh, Pháp, Thuỵ Điển chung nhau dự án nước nặng, bắt đầu từ nhà máy nước nặng Na Uy. Trong khi đó, Đức Ý tiến theo con đường than chì. Còn nhiều chương trình nữa, nhưng tất cả bỏ châu Âu chạy toé khói hoặc là đình lại vô thời hạn. Thật ra, khi chiến tranh bắt đầu, các nhà bác học mới đang bàn nhau "factor 1", tức duy trì được phản ứng với tỷ số neutron sinh ra lớn hơn hay bằng 1 cung vào, để nghiên cứu đo tính, họ chưa đo được năng lượng hạt nhân, nếu như bác hít mà bác biết được trị đo này, thì có khi ngày nay Berlin là thành phố hoang sau vụ cháy Windscale Pile. Những lò hạt nhân đầu tiên như CP-1 không thèm có vỏ, bom làm từ robot ăn bánh mỳ và nhiên liệu sống, đó là hy sinh cho khoa học.
    Khối lượng năng lượng được tính bằng bút chì trong một quán ăn trưa bên Mèo, sau kết quả đo tính từ các "lò", một tờ giấu lau được dùng làm thư khẩn, có 1 câu: "Cẩn thận, không phòng thí nghiệm bay xa hàng km". Sau đó, song song với chương trình làm bom Mèo, Anh-Pháp liên kết với Canada làm bom theo con đường pluton. Cũng hài. Năm 1943, một chương trình Anh Mỹ Ca được ký, nước nặng được sản xuất thử tại Cominco in Trail, B. C. Người Anh cử sang "nhóm nước nặng", trong đó có những nhà khoa học hạt nhân tiên phong là Halban, Kowarski...
    Nhà máy nước nặng Chalk River được xây dựng, năm 1945, lò ZEEP (Zero Energy Experimental Pile) đạt tới hạn ( critical bắt đầu chạy) lần đầu tiên.
    NRX (National Research Experimental) là lò thử nghiệm, nó đã thật sự là lò phản ứng hạt nhân , chạy 1947. Lò này vẫn chạy thí ngiệm và y tế cho dén 199x.
    Sang thập niên 195x, nỗ lực phóng to lò bắt đầu,
    1951 Khai thác quy mô lớn Beaverlodge, Ontario.
    1954 AEC, Ontario Hydro, Canadian General Electric (GE nhà Ca) ký hợp đồng về chương trình điện hạt nhân dân sự. Điều này đánh dấu sự khác biệt giữ GE VÀ oets hao, trong khi Oét HÁo bắt đầu tổ chức nghiên cứu khoa học nhái và xuất khẩu nhái từ đồ quân sự.
    1957, National Research Universal (NRU) 200 MW . Lò này vẫn chạy cho y tế đến mãi sau này. Đây là lò đánh dấu thời điểm mức kỹ thuật đống trọn đều được phóng to, cũng cùng thời điểm với Magnox bên Anh Quốc và UNGG nhái Magnox của Pháp.
    Trong khi Westinghowse hoàn thiện ký thuật rửa tiền cho khối quân sự Mèo thì GE liên minh với người Canada dân sự hoá lò hạt nhân kiểu này. Người Pháps làm cái FL bắt chước, nhưng khi Liên Xô nổ quả bom A đầu tiên năm 1949 thì Pháp mới có 1 mili gram pluton đầu tiên. Anh Quốc sau đó cũng cải tiến kiểu lò làm mát khí Mèo để làm bom, rồi thành AGR.
    năm 1958, cái tên CANDU xuất hiện cùng với kế hoạch 200MW Douglas Point , Lake Huron .
    Người Canadựa cho đầu tư khá lớn cho việc phát triển , mặc dầu không có khối quân sự đỡ lưng to tướng như Nga Mỹ Anh Pháp Tầu Ân . Những lò to thuộc đẳng đống trộn đều của họ là lò y tế, tay chân sạch bóng nhá. Tuy không có quân sự, họ cũng mạnh ta đầu tư một số hướng thử nghiệm tốn kém, cho đến khi ra lò Candu hoàn chỉnh.
    Nuclear Power Demonstration NPD, lò phát điện thử nghiệm 19,5MW, chạy từ 1962-1967. Lò đã có cấu trúc viên gốm,chưa có thanh nhiên liệu phức tạp. Viên gốm được kết dính bới hợp kim Zr.2 (chủ yếu là Zr, 1,4% thiếc và cỡ 0,1% sắt, chrom, nickel), viên gốm đựng trong các bộ nhiên liệu, được làm từ UO2, uran tự nhiên, tổng số nhiên liệu gần 20 tấn.
    Thanh nhiên liệu chưa chắc chắn nhưng về hình học cũng đã giống hệt như CANDU ngày nay, cũng đút ngang trong kên rồi đẩy nhau chui ra như Windscale Pile. Chỉ có điều, lúc đó chưa hàn dát vỏ Zr vào viên, mà chỉ nhét viên vào tronhg ống Zr rồi hàn 2 đầu. Ống này cũng chưa có khoang cưa bã như Gấu, Candu về sau có khoang, nhưng khoang vẫn nằm trong vùng phản ứng, chỉ tiện tái chế, chứ hiệu ứng Xenon vẫn mạnh, được khắc phục cũng mặt mật độ công suất nhỏ.
    Viên gốm cũng giống như viên ngày nay, được nhét vào trong ống Zr, sau đó điền đầy khí dẫn nhiệt (He) và hàn liền hai đầu. Ống này chưa dính chặt với viên gốm như kiểu dát ngày nay. CÒn việc bó lại thành bó đơn sơ thì Candu ngày nay vẫn thế, đơn giản hơn kết cấu nhiên liệu Nga nhiều, nhưng các lò Canada đều có mật độ công suất nhỏ hơn Gấu, nên ít vỡ nứt và nếu tách biệt máy sinh hơi thì chấp nhận d
    http://www.cna.ca/curriculum/cna_can_nuc_hist/first_generator-eng.asp?bc=Canada%27s%20first%20nuclear%20power%20generator-NPD&pid=Canada%27s%20first%20nuclear%20power%20generator-NPD
    http://www.cns-snc.ca/media/history/npd/npd.html
    http://www.cns-snc.ca/media/history/npd/historical_backgrounder.html
    NPD có cấu tạo còn.... kỹ lưỡng hơn là CANDU sau này. Chất điều hoà moderator được làm mát cẩn thật. Cả nước làm mát và nước điều hoà đều là nước nặng. Nước làm mát thì cũng như ngày nay, chui qua máy sinh hơi, các ly vòng sinh công, điều này sẽ tránh ảnh hưởng khi nhiên liệu nứt vỡ. Cũng là nước nặng, nhưng nước điều hoà được bơm riêng và làm mát bằng một vòng khí dân nhiệt He. Một cơ cấu an toàn hạt nhân thụ đọng khá tốt, khi nước điều hoà quá nóng, nó tự rút đi, làm phản ứng dừng. Điều này về sau được một kiểu lò nước sôi Mỹ Nhật học, có điều lúc đó Mỹ Nhật không làm mát phóng xạ bã, chấp nhận lõi chảy.
    Kết cấu quá phức tạp này giúp các nhà khoa học yên tâm hơn, và cũng có điều kiện thử nghiệm các nhiệt độ, máy móc và nhiên liệu khác nhau . Đồng thời, việc chạy ổn định phát mở đầu bao h cũng là điềm lành, ít ra bịt mõm được khối kẻ nhu nhục, hay quá dũng cảm như ..... con bị xúc phạm.
    Cũng như lò 1955 Liên Xô, cái lò này có nhiệm vụ quan trọng là huấn luyện những đội vận hành các lò hạt nhân sau này.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Viên nhiên liệu đút trong ống, nén khí truyền nhiệt he rồi hàn tự động, nhiều loiaj ống được thử nghiệm, nhiên liệu này chưa hàn dát vỏ ống nên vỏ ống khá dầy. CÚng chưa dùng Zr-Nb, mà dùng Zr.2
    [​IMG]
    Bộ nhiên liệu cũng giống CANdu ngày nay
    [​IMG]
    Douglas Point Nuclear Generating Station phát điện từ 1968-1984, công suất 220MW. Nó được coi là thành công, nhưng kiểu lò này quá đắt.
    http://www.cns-snc.ca/media/history/DouglasPoint/DouglasPoint.html
    Lò điều hoà nước nặng , làm máy nước nhẹ sôi.
    Người CAnada thử nghiệm nhiều biến thể, trong đó có tải nhiệt dầu, dầu có nhiệt độ sôi cao hơn nước nhẹ, nên áp suất nén giảm đi, giảm khả năng thất thoát.
    Một thử nghiệm cho rẻ là lò nước sôi, khoang điều hoà vẫn thế, nhưng lò đặt đứng, nước làm mát sôi , bớt đi máy sinh hơi cách ly, được xây tực tế Gentilly-1 250 MW. Cấu tạo này giống ADE và RBMK Nga CHính lò này nói lên những nhược điểm nhiên liệu của Canada so với Nga. Phát điện từ năm 1973, nhưng trong suốt 7 năm tồn tại, lò chỉ chạy 180 ngay. Do cấu tạo nhiên liệu yếu, nên nó hay vỡ và tràn phóng xạ vào nước sinh công thiếu cách ly. Cái lò này rất đặc sắc, nó có một cửa sổ để khách tham quan quan sát qua nước trong, được bán kỹ thuật cho Anh và Ấn Độ. Lò kiểu này đã trở thành chủ lực tạo ra nhiên nhiên liệu tái sinh để Ấn Độ thử nghiệm chu trình thori độc đáo. Người Anh còn gọi là Steam Generating Heavy Water Reactor (SGHWR)
    http://www.research-sites.com/winfrith-site-operations
    Đên nay, hai dòng nước nén và nước sôi vẫn song song phát triển
    nhậu đã.
  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Quay trở lại câu chuyên CANDU.
    Candu bắt đầu thời đại kinh tế vào nửa sau thập niên 197x, với việc bật điện các lò khởi công từ nửa sau thập niên 196x. Thời điểm này cũng giống RBMK Nga và AGR Anh, muộn hơn lò nước nhẹ Mỹ một chút, khoảng 5 năm. Thật ra, trước thời điểm này thì thế giới chỉ có 2 cụm điện hạt nhân thật sự đáng kể của ADE là Krasnoyarsk và Tomsk, còn đâu, các nhà máy khác đều công suất nhỏ, đề mô và chế bom, hay phục vụ các lò tầu chiến. Sự hoạt động quy mô lớn của ADE với tỷ số tái sinh 1:1, không dùng uran làm giầu và pluton đầu vào, đảm bổ ưu thế quân sự của Liên Xô và tạp vốn liếng cho sự phát triển vượt bậc sau này với dự trữ nhiều trăm tấn pluton.
    Trong chiến dịch đội mồ sống dậy, người Mỹ Pháp Nhật quảng cáo quá đà cho dòng kỹ thuật của họ, nhận là phương Tây. Nhưng thật ra, họ không phải phương Tây, phương Tây có những lò hạt nhân tốt thật sự của Anh và Canada. Để thoát thai từ lò làm bom sang lò phát điện, hệ lò neutron chậm cần tách biệt hai chế độ làm mát chất điều hoà và làm mát nhiên liệu, chuyển từ đẳng cấp đống trộn đều như các lò y tế, nghiên cứu, sang lò kênh. Nhờ vậy, nhiệt độ chất điều hoà thấp, là chạy ưu việt, nhưng nhiệt độ hơi lại cao, sinh công khoẻ.
    Nhận láo là phương Tây, dòng điện hạt nhân Mỹ Nhật Pháp thật ra chưa bao giờ vượt được qua bước đó. GE, công ty lành mạnh hơn Westinghowse đã bỏ Mỹ mà sang Canada. Còn ở Mỹ, người ta lôi lò tầu chiến ra làm điện, đó là lò nước nhẹ đẳng cấp đống trộn siêu đều, loại lò nhỏ, dễ thực hiện, để phát điện quy mô lớn, tự ăn cắp tương lai để có ngày hôm nay, họ đốt sạch nhiên liệu khoáng của họ dự tính dùng trong 1500 năm.
    Lò nước nhẹ có nhiều nhược điểm, để nâng cao nhiệt độ cân bằng của lò, người ta phải làm giầu khá nhiều, nhưng lại trộn các chất hấp thụ để ăn bớt neutron đi, cùng với chất hấp thụ chính là nước nhẹ, các phụ gia như Boron, Gd, Sm, Cd..... vặt đầu vặt đuôi tỷ số tái sính còn không đáng kể.
    Do phải dùng uran làm giầu, nên các lò nước nhẹ vướng vào công nghiệp làm giầu tai tiếng, đầu tư tốn kém, và lệ thuộc con Gấu hung dữ (chiếm 40% thị trường làm giầu thế giới, chủ yếu là khách Mỹ+Nhật). Càng phát triển, các lò nước nhẹ càng làm giầu khẻo và tỷ số tái sinh tỷ lệ nghịch giảm đi. VVER-440 1,5%, VVER-1000 là 2,5%-3,5%, EPR 4,5%-6%. Thêm nữa, do rất khó tạo kết cấu lõi dẹt và rất dẹt, nên các lò nước nhẹ nén không thể làm quá to.
    Chúng ta quay trởlại với Candu. Đây là một trong những chương trình thành công, bất chấp việc Mỹ Pháp Nhật chưa hề vượt đến mức Kênh. Candu có anh em gần gũi với AGR Anh Quốc, dử dụng một số dịch vụ khoa học lõi chung, như cấu tạo thanh nhiên liệu như nhau.
    Đây là loại lò đầu tiên mà các nhà khoa học đề nghị từ trước WW2. Người Ca may mắn hưởng trọn hướng này do Anh+Pháp muốn có một nhánh hạt nhân tương đối ít phụ thuộc vào Mèo, họ đến Ca vì châu Âu đang đánh nhau, Pháp đã mất nước, Úc quá ..... man rợ, thiếu mật độ các kỹ sư bác học để phát triển. Người Anh Pháp cũng chả có gì để góp vốn ngoài mấy nhóm bác học. Người Ca cũng chả có gì góp vốn ngoài quan hệ với Mèo và bắt đầu bằng việc cung cấp dịch vụ chế tạo nước nặng cho Mèo năm 1943. Thập niên 196x thì các thiết ké được thử nghiệm quy mô trung bình. Đến thập niên 197x thì kỹ thuật gia công nhên liệu hoàn thiện bằng hàn tự động, và Candu bùng phát cùng với các dòng khác.
    Đặc trưng của Candu là loại lò phát điện duy nhất trên thế giới có hình bồ câu. Tất cả các dòng khoa học hạt nhân khác đều chui ra từ kho bom, máy đẩy tầu ngầm. Candu ban đầu phát triển nhờ dịch vụ bán chất phóng xạ y tế.
    Sau TMI và Cher, rồi sau sự kiện 1991, cả hai dòng Mỹ Pháp Nhật và Liên Xô-Nga đều điêu đứng. Nhưng chỉ có Candu phát triển rất đều, chưa hề giảm tốc độ xây dựng. Trong thập niên 198x, khi dòng Mỹ Pháp Nhạt ngỏm sau TMI, thì trên thế giỡi chỉ có mỗi Candu và VVER chia nhau thị trường. Candu được chọn là dòng kỹ thuật chính của Ấn Độ và Trưng Quốc, nhưng sau 200x, thì VVER-BN thay chân với số lượng phát triển mạnh mẽ. Nhược điểm của Candu là không tăng vọt tốc độ xây dựng, tranh cướp cơ hội.
    Về cấu tạo. nước nặng là chất điều hoà rất tốt, dễ làm mát, có đồ thị năng lượng neutron thấp và rộng, nhờ đó, xuất hiện nhiều neutron năng lượng cao tham gia phản ứng hấp thụ, điều khiển công suất lò. Nhược điểm duy nhất của nước nặng là nó đắt. Nhiệt độ điều hoà đươc duy trì ở 70-100 độ C, cũng có các máy đo neutron phát hiện chế độ rung như RBMK.
    Candu có nhiều loại lò, cũng có hai kiểu làm mát là làm mát nước nhẹ nén và làm mát nước nhẹ sôi, trước đây có kiểu làm mát nước nặng nén, nhưng sau này do tốn kém nên ít dùng. Một trong những nhược điểm của Candu là cấu tạo thanh nhiên liệu yếu, dó đó, dễ nứt vỡ rò bã, nên phương án nước sôi ít dùng. Gần đây, kiểu cải tiến ACR hy vọng nhập khẩu được kỹ thuật làm thanh nhiên liệu Nga (bằng máy hoàn toàn tự động), nên kiểu nước nhẹ sôi được đề nghị trở lại. Kiểu nước nhẹ nén có các kênh nằm ngang, còn kiểu nước nhẹ sôi có các kênh đặt đứng cũng như RBMK nhà Nga. Tất nhiên, Candu không làm nước sôi vì người Ca lành, còn cũng đẳng kỹ thuật nhiên liệu đó, với mật dộ toả nhiệt cao hơn, Mỹ Pháp Nhật có cả rổ nước sôi, cực kỳ tởm lợm. Chũng ta đã từng biết rất nhiều lò mèo chống lại hạn ngạch rò nước lõi 25 gallon mỗi phút (110 lít), và gần như không lần nào không phát hiện hỏng nhiên liệu khi thay đảo.
    Kiểu nước sôi được bán kỹ thuật cho Anh và Ấn Độ.
    Mỹ Nhật Pháp thường khoe lò của họ, EPR và AP tiết kiệm nhiên liệu, chúng ta biết điều đó là hết sức tầm bậy. Tỷ số tái sinh của Candu khá tốt, là loại lò có tỷ số tái sinh cao nhất trong các lò phát điện dân sự dùng neutron chậm (không tính ADE 1:1 vì ADE vẫn phải bù lỗ bằng tiền bán pluton cho quân sự). Candu có nhược điểm là hiệu suất biến đổi nhiệt công rất thấp do vòng nước nén cách ly. Một cái để tính nữa là giá chi cho làm giầu của Candu là 0, vì vậy, Candu nhìn chung trả tiền nhiên liệu ít hơn các lò nước nhẹ.
    Mật độ phát nhiệt của Candu rất thấp so với hệ Mỹ Pháp Nhật. Thời gian thay đảo là 894 ngày, 2 năm rưỡi, khi thay đảo mất 19 ngày nhưng chỉ 2 ngày phải dừng phát điện. Mật độ phát nhiệt thấp này dẫn đến việc trang bị nhiên liệu lần đầu tốn hơn các lò khác mấy lần. Đây là giải pháp đơn giản để Candu có khả năng tái chế khi thiếu các kỹ thuật quy mô như Liên Xô, cũng như ít bị ảnh hưởng bởi các bã phóng xạ độc như hiệu ứng xenon. Do thời gian sử dụng dài, tương được việc ủ kỹ, nên nhiên liệu dễ dàng được tái chế an toàn, trong khi thiếu kiểu thanh nhiên liệu có cấu tạo phức tạp như Nga. Thêm nữa, Candu có thể dùng luôn các viên nhiên liệu cắt ra từ nhiên liệu dùng rồi của Mỹ chất đầy các kho sau 40 năm, nên chi phí nhiên liệu càng rẻ đi.
    Candu bố trí nhiên liệu thành các bó dài nửa mét, các bó này đẩy nhau trong kênh như Windscale Pile. Nhiên liệu được bọc bởi hợp kim Zrr + 2,5% Nb (Nga là 1%).
    Về cấu tạo nhiên liệu, thanh nhiên liệu dài nửa mét cũng có các viên pin gốm có lỗ tâm, nhưng khoang chứa bã nằm ngay đầu ống. Như vậy, bã phóng xạ vẫn nằm trong vùng phản ứng và xenon có tác dụng mạnh, điều này được khắc phục bởi mật độ công suất trên thanh nhiê liệu thấp, lượng bã ít đi. Mật độ thấp này cũng khắc phục nhược điểm thiếu chắc chắn của bó, do co dãn bởi chênh lệch nhiệt độ trong và ngoài thanh ít, nên ít xảy ra nứt vỡ. Thiếu công nghiệp tự động hoá chuyên dụng quy mô lớn như Nga, các điều kiện làm việc này cho phép Candu thao tác thủ công trong các khâu tái chế và sản xuất nhiên liệu.
    Các thanh nhiên liệu kiểu Nga có khoang tích luỹ bã phóng xạ ở đầu, khi hoạt động, khoang này nằm ngoài vùng phản ứng, thanh cũng nhỏ hơn chút, thuận tiện truyền nhiệt, đặc biệt bó (set) Nga có xương cứng vững chắc, xương này vừa có tác dụng tránh rung động khi hoạt động, vừa có tác dụng làm thao tác tháo lắp đơn giản (như đạn súng máy hoạt động), giảm xác suất hỏng. Chiều dài thanh lớn, cho phép tạo những kiểu lõi khá dầy. Trong tương lai, ACR (Advanced Candu Reactor) rất có thể cộng tác với Nga, lò sử dụng nhiên liệu hơn làm giầu (1%-2%), cũng lại mua dịch vụ Nga. Nhờ nhiệt độ hơi cao, mật độ toả nhiệt cao, nên hiệu suất sinh caao được cải thiện. ACR-1000 là Gen III+.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Điểu khiển và an toàn
    http://www.nuclearfaq.ca/cnf_sectionA.htm#a
    Candu và RBMK (Chernobyl) là hai loại lò an toàn nhất, đáng tiếc như thế các liệt não à. Loại lò tởm nhất quả đất lại là nước nhẹ nén Mỹ Pháp Nhật PWR. Thật ra, các con số VVER cho đến lúc đó chưa được công bố.
    Candu có hệ thống đo tính mật độ neutron, dùng máy tính phát hiện sai lệch công suất từ chế độ rung hay hiệu ứng xenon. Candu -6 có 21 thanh hiệu chỉnh Adjuster Rods là các thanh thép không gỉ hay cobalt, để hiệu chỉnh mật độ neutron .
    Công suất lò được điều chỉnh bằng thay đổi tốc độ làm mát chất điều hoà. Một hệ thống điều khiển làm mát kênh nhiên liệu sẽ đảm bảo tránh các bọt khí xuất hiện, Liquid Zone Controllers.
    Candu có hai hệ thống dừng khẩn cấp là Shutdown System 1 (SDS 1) và 2. SSD-1 là 28 thanh đứng tự rơi khi nóng quá, làm bằng Cadmi tự nhiên. Còn hệ thống SSD -2 là muối gadolinium nitrate tự nhiên, khi van nóng chảy, dung dịch muối này phun vào chất điều hoà có áp lực thấp.
    Có thể dễ dàng so sánh, hệ thống dừng khẩn cấp được thiết kế đầy đủ như các lò Nga, đảm bảo hoạt động dừng khẩn cấp hoàn toàn thụ động và khoá chết lò. Khi hỏng bơm, sự cố mà các lò Mỹ Pháp Nhật chưa từng giải quyết được, thì Candu có mật độ toả nhiệt thấp, sẽ dừng khẩn cấp và đối lưu tự nhiên, nhiệt độ truyền đi bằng cả đường làm mát kênh nhiên liệu và chất điều hoà. Candu cũng không dính dáng các chất dễ ăn mòn.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 16:07 ngày 05/06/2010
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đanh giá chung.
    Candu là loại lò có cấu tạo phức tạp, đắt đỏ. Nó là loại lò kênh thành công nhất trong số các lò kênh (RBMK Nga, AGR Anh và Candu Canada), cho hệ số sử dụng nhiên liệu cao nhất. Cũng cần nhắc là khối Mỹ Pháp Nnật không bao h vượt đến đẳng kỹ thuật lò kênh cả. Lò chạy rất an toàn với nhiệt độ chất điều hoà chỉ 70 độ C, dễ dàng giảm và dừng khi mất làm mát.
    Candu đạt được thành công như thế ở một nước nhỏ, không có lưng quân sự, thiếu thốn mọi nền tảng kỹ thuật hoành tráng như các siêu cường khác. Ví dụ, bằng thủ thuật giảm mật độ toả nhiệt, người Canada đã khắc phục được sự thiếu thốn các máy tự động và sự hay hỏng hóc của kiểu nhiên liệu Mỹ mà họ phải dựa dẫm.
    Người Ca cũng không hề bủn xỉn bớt đi vòng nước lõi cách ly, đề kháng các lỗi vỡ nhiên liệu.
    Bằng giữ nhiệt độ chất điều hoà rất thấp, lò Candu không cần làm giầu, tránh lệ thuộc các siêu cường. Thậm chí, chương trình DUPIC, "Direct Use of PWR fuel in CANDU", cho phép dùng ngay các nhiên liệu dùng rồi của lò nước nhẹ mà không cần tái chế, giá rất rẻ sau 40 năm chất đầy các kho Mỹ. Các viên nhiên liệu gốm được chặt ra từ nhiên liệu dùng rồi dễ dàng phát nhiệt trong ống hàn, do mật độ phát nhiệt thấp.
    http://www.nuclearfaq.ca/brat_fuel.htm
    http://www.nuclearfaq.ca/CANDU_fuel_cycles_Boczar_et_al_2002.pdf
    http://www.nuclearfaq.ca/candu_graphic.jpg
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 21:16 ngày 05/06/2010
  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Rửa quặng.
    hi hi hi Chúng ta biết một sự thật rất đau lòng, đó là, ngành điện hạt nhân được coi là niềm tự hào dân tộc. Vì vậy, nước Pháp chục năm nay nhiều lần bơm tiền cõng cái Areva lỗ chỏng vó. Người ta bơm bằng nhiều lý do, ví như đầu tư mua lại 34% cổ phiếu của chính Areva do Siemens đá đít mụ vợ Areva vừa già vừa ngoa, hay là cho Phần Lan vay, để Phần Lan trả cho Areva khi dự án EPR đầu tiên trên đời lộ vở bẫy cò ke. Thật ra, cái nhà máy này lằng nhằng không minh bạch tí nào hết. Thuỵ Điển cần điện hạt nhân, nhưng vẫn chưa bỏ kết quả trưng cầu dân ý là sẽ đóng dần các nhà máy đang chạy. Thực tế là chúng không những không đóng, mà còn được thay lõi để tăng công suất. (Công ty điện hạt nhân thuỵ điển còn có tên khác là Westinghowse Thuỵ điển, lò nước sôi, thuê Skoda JS gia công). Và EPR Phần Lan thực ra lại do Thuỵ Điển vay tiền một số nước châu Âu mua, cồng ty điện lực Phần Lan chỉ là bung xung. Dĩ nhiên là điều lằng nhằng này tạo thuận tiện cho Areva rửa tiền một cách tinh vi. Nguồn tiền lớn nữa là Sát Cô Dì hô hào châu Âu thành lập ngân hàng cho các nước đang phát triển, tức cho Areva vay để tự mua lò, tuyên vào tháng 3 năm 2010.
    Dần dần, đường dây bơm tiền này chuyển thành giặt tiền tham nhũng, thế là, đem cái giẻ mang tên "tự hào dân tộc" ra lau tiền bẩn. Bọn bác học Canada rất giỏi, chúng nó cũng tận dụng não để thực hiện các khâu làm sạch, chứ ăn chỉ bằng điện hột nhơn thì gầy. Nói chung, kỹ nghệ giặt giũ ở đâu cũng bẫm hơn là các kỹ nghệ "hai tếch".
    Chúng ta đã biết, Candu là kiểu lò thành công nhất trong hệ neutron chậm, đạt tỷ số tái sinh rất cao trong khi vẫn phát điện khoẻ. Thế nhưng, nó chỉ đạt 7000 MWD / tấn uran, rất nhỏ so với 35000 của PWR Mỹ Pháp Nhật. Nghịch lý ?
    Chúng ta cũng biết, Canada không đứng đầu thế giới về quặng, chỉ thứ 2. Nhưng chất lượng quặng Ca cực tốt, mỏ lớn nhất của nó mỗi cân quặng bằng 2 tấn quặng mà Pháp tranh cướp của mọi châu Phi, mỏ lèng phèng mỗi cân quặng cũng bằng 5 tạ quặng Pháp, nó chán chả buồn đào.
    Chúng ta cũng biết, bác Ca có hai ông bạn vàng, tình nghĩa thâm sâu từ thời bập bẹ lập công thức toán lý đầu tiên cho lò, đấy là Mỹ và Pháp. Thế nhưng hai ông bạn vàng ấy mắc bệnh thủng dạ dầy, chuyên đi ăn vã. Người Ca buộc phải bảo vệ thị trường nội địa bằng hạn ngạch và thuế xuất khẩu. Thế là, các bạn đã hiểu cái số quặng Candu kia đi đâu, chúng được hô biến một cách rất bác học sang vũ khí Mèo.
    Chúng ta cũng biết, sau TMI 1979, người Mèo không tái chế dân sự, không có lò tái sinh quy mô lớn như ADE hay BN, SVBR của Lira class.... Dù có hùng cường đến mẫy, thì tổng công suất các lò quân sự cũng chỉ 3-4GW, trong khi không tái chế 110GW dân sự. Vậy hàng ngàn đầu đạn của Mèo lấy đâu ra. Chúng ta đã chứng minh rằng, phần lớn đầu đạn đó không có ngòi thường trực.
    Nhưng dù chúng không đủ ngòi, thì một phần nhỏ trong chúng vẫn phải lắp T3 mà không có cách nào ngăn T3 tự phân rã theo thời gian. Bên Nga, T3 được lấy từ phản ứng boron 10 trong nước nhẹ nén. Nhưng bên Mèo, để cố tránh biểu tình, để đảm bảo các lò đã chót đầu tư được chạy sau TMI, người ta đựng nước lõi lò nước nhẹ trong các thùng phi 200 lít , rồi chờ T3 phân rã trong sa mạc.
    Chúng ta cũng biết, dựa dẫm vào đẳng kỹ thuật còi xương nhà Mèo, nhưng Candu vẫn ít nứt vỡ nhiên liệu và tái chế tốt, vì nó giảm mật độ phản ứng xuống 7-15 lần so với nước nhẹ nén nhà Mèo Tây. Người Ca cũng không ăn bớt cái kho ủ sau nhà lò. Vì vậy, thanh nhiên liệu ốm yếu lỏng lẻo ít nứt vỡ, có nứt vỡ thì đã có vòng nước lõi cách ly, bã phóng xạ cũng ít và phần lớn tái chế thủ công được.
    Chúng ta cũng biết kiểu lò Candu có chi phí nhiên liệu rất thấp, lại mọc lên ở nước thiên đường về nhiên liệu. Thậm chí, nhiên liệu dùng rồi của các lò nước nén Pháp Mỹ chỉ cần chặt nhỏ là đốt được trong Candu, mà cái thứ này tích trứ 40 năm ở các kho đã chật cứng bền Mèo, là tinh hoa còn lại của nửa triệu tấn DU đang phơi sa mạc. Thế nhưng, tỷ lệ đốt trước tái chế của Candu lại rất thấp, chỉ khoảng 30%, trong khi đó ở Pháp Mỹ là 60%.
    Chu trình nhiên liệu của lò nước nhẹ nén , những lò được nén về sau này, kể cả gen III lừa đảo và Gen II thay lõi, là làm giầu 4,5%-6%, bỏ di 0,25% trong DU, rồi dùng đến 0,9%-1,5% thì bỏ, tỷ số tái sinh lõi không đáng kể, nếu không tái chế thì đốt được 2/3 Uran tự nhiên. Nhưng Candu tỷ số dùng rất thấp, lò Candu nguyên thuỷ dùng uran tự nhiên từ 0,72% đến cỡ 0,5% thì bỏ, trong thời gian đó, nó đốt khoảng 0,3% khối lượng nhiên liệu, kể cả uran tự nhiên và pluton mới sinh, hiệu suất biến đổi nhiệt-công thấp nhân vào nữa, làm Candu xời nhiên liệu đầu vào gấp 5 lần Mỹ Pháp.
    Thế mới là nghịch lý, người ta làm giầu trước khi dùng, còn Candu làm giầu sau đó. Thế là,. Đây là dây chuyền buôn lậu của bọn bác học Canada. Cái này được các sức ép chính trị bảo vệ kiên cố, bất chấp hết sức phi lý, vì đó là nguồn pluton và T3 lớn nhất của bom nhà Mèo. Sau khi đốt, nhiên liệu Candu có mật độ công suất thấp, khá dễ dàng tái chế để lấy ra 0,1-0,2% về khối lượng là pluton bằng hoá học. Sau đó, phần uran 235 còn lại lại được bán cho Nga để về Mèo.
    Một chìa khoá quan trọng của bom là T3. T3 sinh ra trong Candu bởi phản ứng D2+N=T3. T3 đọng lại dưới dạng khí H2 trong các khoang chuyên dụng, sau đó được nhà máy xử lý Toronto tách ra và bán cho Mèo, mỗi năm có vài chục kg. Vì đây là chìa khoá không thể thiếu của bom nên người ta nhắm mắt làm ngơ khi bọn bác học buôn lậu quặng. Tritium của Mỹ trước đây được chế tạo bằng He3, sau đó, một lò phản ứng nước nặng đươc xây dựng Savannah River Site, kết hợp với các lò chuyên dùng (cũng giống như lò khoa học, y tế), bằng cả nước nặng và boron, lithi. Việc sản xuất T3 ở Savannah dừng vào năm 1988 và nguồn T3 chỉ còn nhập khẩu từ Canada là đáng kể. Bên Nga, vào thập niên 198x sau bùng phát, thì T3 thoải con gà mái từ lò nước nhẹ nén, đây là câu trả lời tỷ lệ cân đối RBMK và VVER (lithi borua, muỗi của acid boric với lithi được làm giầu hay để tự nhiên, pha trong nước lõi lò nước nhẹ nén, tạo thành phản ứng hấp thụ tăng theo nhiệt độ, cân bằng công suất lò).
    Về sau này, thị trường thế giới rộng mở hơn, thì Candu cũng cải tiến để bỏ cái lỗ buôn lậu uran phi lý đi. Candu mới dùng uran làm giầu 1%-2%, dùng đến khi còn 0,5% thì bỏ, với tỷ lệ tái sinh lõi CBR cỡ 0,6-0,7, thì khi không tái chế, lượng nhiên liệu được đốt đã lớn hơn uran 235 tự nhiên. Đồng thời, lò gọn nhỏ hơn. Chìa khoá của cải tiến này là nhập khẩu kỹ thuật chế tạo thanh nhiên liệu kiểu Nga, cho phép tăng mật độ toả nhiệt.
    Cái lỗ buôn lậu này là câu trả lời nhược điểm khá lớn của Candu, tức là nó không thể tăng tốc độ sản xuất nhanh chóng, lấp các lỗ cơ hội trời cho. Ví dụ, bên tầu, một thời gian dài tầu bị cả Nga lẫn Mỹ cấm vận kỹ thuật cao , liên doanh Pháp Nhật đã xây dựng Tần Sơn với công thức chuyển giao kỹ thuật, Nồi hơi thượng hải bắt đầu từ cơ khí, như Pháp Nhật và dân sự mèo trước đây đã nhái. Tuy nhiên, các tổ máy đầu của Tần Sơn bộc lộ rất nhiều vẫn đề khi chưa mua được toàn bộ kỹ thuật Mỹ, vẫn đứng làm lõi cho khối này. Các tổ máy sau của Tần Sơn là Candu 6, tuy nhiên, sau đó, con đường VVER-BN đã chiếm nhà máy điện hạt nhân lớn nhất nước tầu là Điền Loan.
    Cái lý sự ở đây là, số tiền chi thu xây lò, bán điện, mua nhiên liệu.... không phải là toàn bộ thu chi của đời Candu đó, phần không nhìn thấy có tỷ lệ khá ớn
    Cạnh tranh chơi đẹp.
    Cuối thập niên 199x, thì xu thế chính trị mới bên Nga hình thành, đặc trưng là cái đảng đại đế chế của Putin. Đại khái, đảng này cũng có đoàn, có đội, nhưng cái đặc trưng là đoàn thanh niên của nó được huấn luyện quân sự thường xuyên. Các bạn hình dung ra rằng, cái đoàn thanh niên đại đế chế ấy sử dụng AK không được hoàn hảo, nhưng dùng gạch đá dùi cui hết sức thiện chiến. Chúng sử dụng thái độ tức giận còn thiện chiến hơn, kéo đổ nhà hội đồng Anh và công ty buôn cộng hoà của Mèo. Cái nhà hội đồng Anh cạy cục mãi mới vừa xin được giấy phép mở cửa trở lại, vì cái tội đánh nhau với thanh niên.
    Dĩ nhiên, chúng ta biết, Putin không có xiền tổ chức cho bọn đoàn thanh niên ấy nốc vodka và huấn luyện quân sự. Một trong những nguồn lực quan trọng nhất của Putin là các nhà nước XHCN nho nhỏ, mà các nhà nước đặc trưng nhất là các thành phố cấm, nơi toàn bộ dân chúng chung nhau một công ty làm ăn, mức sống trung bình rất cao, và đương nhiên-vì thế, chúng chung nhau phiếu chính trị, đó là các thành phố hạt nhân ở Tomsk, Krasnoyarsk, Yakut (MS đã đem đĩa cứng về các thiên đường của bồ câu này). Anh em với các nhà nước hạt nhân là các nhà nước AK, Su..... và cả bông vải, cũng như Norilsk chiên nickel.
    Chính vì thế, khi Putin ổn định quyền lực là VVER tính luôn chiện Mỹ Chinh, sau khi đã Âu Chinh thành công, sấy khô Areva chống đối và dựng lên một thế lực hoàn toàn mới mẻ là Siemens.
    Thật ra thì trước Cher 1986 và sau TMI 1979, chỉ có Candu và VVER cạnh tranh nhau trên thị trường xuất khẩu, nên chiện chúng chơi đẹp đã được lên luật từ lâu. Sau khi Gấu ngủ đông 199x, thì Candu độc chiếm toàn cầu. Chúng ta đã biết điều đó, người ta đã biết điện hạt nhân Mỹ Pháp Nhật là ăn vã tương lai, nên đứa nèo xuất khẩu ra khỏi đó thì soi cái gương Tần Sơn, định cạnh tranh nhiên liệu với đế quốc phỏng, nhìn trước sau đi đã. Vậy nên, đương nhiên Candu có một sức cạnh tranh đặc biệt ở Ấn Độ, Trung Quốc, nam Mỹ. Nói đúng đắn nhất là một mình nó bá chủ hoàn cầu. Mỹ Pháp Nhật to, nhưng làm gì dám xuất khẩu, gà quèn văn vã bếp nhà.
    Sau khi Putin đủ xiền mua vodka cho cái đoàn thanh niên đại đế chế, thì Candu và VVER thừa kế luật cạnh tranh lành mạnh từ trước. Hoàn toàn không có chiện chúng thuê biểu tình chó dại như Areva chơi đẹp kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Tầu và Ấn, Candu một ao, VVER một giếng, không xâm phạm nhau. Trong thị trường Đông Nam Á, trong khi VVER khảo sát địa chất Ninh Thuận thì Candu lập dự án khả thi ở Indonexia. Dĩ nhiên, các dự án xuất khẩu của Candu khá khác nội địa, do thiếu khâu rửa quặng. Đồng thời, các dự án này đều ký kèm việc dùng nhiên liệu Canada -> được Mèo ủng hộ cả 6 chi (để tăng nguồn buôn lậu khâu tái chế và quặng).
    Tóm lại, hai chú này là hai chú thành công duy nhất trong xuất khẩu. Người Anh thành công chế lò, nhưng sớm có Windscale Pile, vẫn chửa thoát nạn khủng hoảng thiếu nhân công, rất nhiều khâu kỹ thuật lõi ăn đậu ở nhờ Mỹ và Ca, nên không xuất khẩu được tấm món đủ tính. Một thời gian dài, chúng là hai đứa vừa cạnh tranh, vừa cùng đường duy nhát trên hoàn cầu, nên sớm hiểu nhau và chia sẻ luật chơi đẹp.
    Chó dại cướp mồi.
    Ấy nhưng VVER nhường Candu không can thiệp Indonexia, thế mà, chỉ sau vài năm, OPR Nam Cao Ly đã thôn tính dự án này. Candu trước đã quan hệ lâu đời với Saudi (khai thác uran cho Mỹ), thế nhưng Areva cướp, rồi thiếu vốn, Areva lui để OPR thắng trắng .....
    Các ngành kỹ thuật hạt nhân lành mạnh không bao giờ sợ nhau và ngại thị trường văn minh Âu Mỹ. Cái chúng sợ nhất là đàn chó dại mới mọc, bùng phát không thèm nhìn lịch sử TMI, bao gồm OPR, APR Nam Cao Ly và CPR tầu.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 15:35 ngày 06/06/2010
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Nga Pháp ký hợp đồng hạt nhân dân sự mới, thay thế văn bản cua 2000 và 1993. Rosatom head Sergei Kiriyenko and chairman of the French Atomic Energy Commission Bernard Bigot, Đầm Khô Anne không được dự bàn.
    Bài báo cũng nói rõ Pháp luôn chọc phá Gấu về xuất khẩu.
    Hai mặt quan trọng là Gấu chuyển giao kỹ thuật MOX và .... cứu Super Phenix, được máy dịch tự động chuyển là high-speed reactors.
    Thôi, thế là Ninh Thuận yên ổn rồi, các ông Tây bà Đầm ở Areva cũng nhe răng ra rồi, chưa biết thế là cười hay không, nhìn thấy răng là vui rồi.
  7. catcher

    catcher Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    42
    Đã được thích:
    0
    Lâu không thấy ai post bài, up lên một cái!
    Tiện thể bác HP cho hỏi, lò Việt Nam như bác nói là có tái sinh. Vậy thì:
    - Tỉ lệ tái sinh là bao nhiêu?
    - Phần tái sinh đó được sử dụng như thế nào? Việt Nam sẽ chịu sự giám sát của ai để sử dụng lại nó?
    - Vấn đề mua U của Việt Nam?
    P/S: Nếu đã có câu trả lời trong topic cho em xin đường link
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    - Tỉ lệ tái sinh là bao nhiêu?
    Lò VVER ở Ninh Thuận, theo công bố của Rosatom, là kiểu lò giống nhà máy Kudankulam/ Ând Độ giai đoạn đầu, công suất 950MW-1000MW. Như vậy đây là loại lò nước nhẹ nén ít nén mật độ phản ứng, có tỷ số tái sinh cao gần nhất trong các lò nước nhẹ nén. Nhưng lò nước nhẹ nén nói chung là những lò có tỷ số tái sinh thấp nhất, vì bản chất là dùng H1 thay U238 để tận dụng đồ thị hấp thụ đặc trưng của H1 ở cận 300 độ C, dễ điều khiển và chế tạo, nhỏ rẻ. CBR của kiểu này là 0,6=rất cao so với nước nhẹ nén. EPR nói CBR=0,6 là láo, đó là mô đi phê từ tỷ số tái sinh pluton, mà nó dùng MOX 50, suy ra con số trên là 0,3.
    Mặt khác, loại lò này có chu kỳ thay đảo 1 năm, hơi ngắn, nhưng tạo thuận lợi cho việc ngăn pluton cháy bớt đi. Có nhiều chế độ nhiên liệu cho loại lò này, nhưng cả Mỹ Pháp Nhật Nga đều thích Ninh Thuận sẽ dùng kiểu làm giầu 2,5%-3,5%, khi đó công suất giảm đi một chút so với MOX 4,5%. Một kiểu nữa là uran 4,5% nhưng giá nhiên liệu cao. Với kiểu đầu, khả năng thu hồi pluton (tức tỷ số tái sinh thực tế) đạt từ 0,2-0,5.
    Nhiên liệu được đặt trong lò , sau khi hoạt động ổn định, tức là sau hoạt động liên tục 3 năm, sẽ ở trong lò 3-5 năm, đến lúc đó bắt đầu thu hồi nhiên liệu. Nhiên liệu phát nhiện mạnh trong năm đầu, sau dó nó được chuyển dần ra ngoài, giảm phát nhiệt và giảm bã phóng xạ, để chở đi và tái chế an toàn. Sau khi về trungt âm tái chế, nó tiếp tục được ủ trong nước vài năm rồi mới chế. Như vậy, yên tâm là còn lẩu còn lâu sau mới chẳng may biết tin chúng.
    Nếu là RBMK, AGR, Candu... thì người ta thu hồi pluton nhanh hơn bằng cách cắm các thanh DU hay nhiên liệu cũ của lò kiểu khác vào và lấy ra với tấn số cao hơn thay đảo nhiên liệu, trong khi nhiên liệu làm giầu mức cao, cái này tăng giá thành phát điện lên nhưng lại được bù lỗ bởi quân sự, hay dùng hồi chiến tranh lạnh.
    - Phần tái sinh đó được sử dụng như thế nào? Việt Nam sẽ chịu sự giám sát của ai để sử dụng lại nó?
    Đương nhiên của IAEA là thứ nhất, thứ 2 là chính ta, thứ 3 là nhà thầu. Tiếp đến , thông qua IAEA, là những nước cứng đầu không chịu khuất phục Vịt như Tầu , và đến khách hàng ăn Pluton kiểu vừa mua vừa cướp là Pháp Mỹ.
    Phần đó đương nhiên là nhà thầu khâu tái chế sử dụng, ta chỉ có quyền duy nhất là thông báo cho những ai là.... bạn ta cần thông tin. Vì có nhiều người giám sát nên cái quyền đó khí rẻ mạt. Phần tái chế của nhà máy 1 được chuyển về những trung tâm tái chế ở Tomsk, Krasnoyarsk và sau đó được dự trữ ở Krasnoyarsk trước khi chuyển sang dự trữ nhiên liệu đã chế biến ở Yakut, lúc đó thì hàng nhà ta đã là nước hoà vào biển.
    Nếu nhà máy 2 có ai đó thắng thầu tái chế, thì sẽ chuyển về những trung tâm tái chế khác, như Idaho Mỹ, La Haye (đặt tại Normandie) Pháp, Bắc Nhật Bản, Toronto Canada. Người mua pluton lớn nhất là Mỹ, sau đó là Pháp Nhật.
    - Vấn đề mua U của Việt Nam?
    Do nhà thầu cung cấp món này , nhà máy 1 là Rosatom. Trước đây đám đốt đít cỡn lên là ta có uran, chẳng qua não chúng bé quá, uran nhà ta không ép thành than tổ ong được, tốt nhất là bảo ngu dân tham nhũng bán cho tầu. Uran mỏ sau khi khai thac tinh chế, thì rất ít nước chế tạo được thanh nhiên liệu: Mỹ, Pháp, Nhật, Tầu (mới đây, 2009), Canada , Anh (biết làm nhưng không làm), Ấn, Nga và vài nước linh tinh....
    Nhiên liệu Nga làm chủ yếu là uran Nga, một Nga nhập từ Canada, châu Phi, Ấn Độ, Mông Cổ, Kazacstan, ucraina..... theo các hợp đồng khai thác tài nguyên, trao đổi nhiên liệu, tái chế nhiên liệu, làm giầu thuê (Nga chiếm 40% sản lượng làm giầu toàn cầu, hiện đang chịu thuế bán phá giá bên Mỹ).....
    VN chưa khảo sát kỹ, nhưng là vùng đất ngèo uran, mới tạo thành từ đáy biển về sau này, các vùng đất giầu uran là các vùng trung tâm lục địa cổ có tên Đại Lục Đia. Thêm nữa, các sa khoáng có thể có uran đã bị đào vàng đãi titan từ tám kiếp, cũng chả tiếc nhiều, vì thật ra không đáng kể. Ở Phú Thọ thì từ lâu, cái gã bợm nhậu lấy **** về làm vợ đã bán đến những vỉa quặng chỉ bằng cái chiếu cho Tầu, cha này ăn bẩn được vì ô dù to vãi.
    http://www.laodong.com.vn/Home/Dau-co-hoang-mang/20069/3115.laodong
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    - Tỉ lệ tái sinh là bao nhiêu?
    Lò VVER ở Ninh Thuận, theo công bố của Rosatom, là kiểu lò giống nhà máy Kudankulam/ Ând Độ giai đoạn đầu, công suất 950MW-1000MW. Như vậy đây là loại lò nước nhẹ nén ít nén mật độ phản ứng, có tỷ số tái sinh cao gần nhất trong các lò nước nhẹ nén. Nhưng lò nước nhẹ nén nói chung là những lò có tỷ số tái sinh thấp nhất, vì bản chất là dùng H1 thay U238 để tận dụng đồ thị hấp thụ đặc trưng của H1 ở cận 300 độ C, dễ điều khiển và chế tạo, nhỏ rẻ. CBR của kiểu này là 0,6=rất cao so với nước nhẹ nén. EPR nói CBR=0,6 là láo, đó là mô đi phê từ tỷ số tái sinh pluton, mà nó dùng MOX 50, suy ra con số trên là 0,3.
    Mặt khác, loại lò này có chu kỳ thay đảo 1 năm, hơi ngắn, nhưng tạo thuận lợi cho việc ngăn pluton cháy bớt đi. Có nhiều chế độ nhiên liệu cho loại lò này, nhưng cả Mỹ Pháp Nhật Nga đều thích Ninh Thuận sẽ dùng kiểu làm giầu 2,5%-3,5%, khi đó công suất giảm đi một chút so với MOX 4,5%. Một kiểu nữa là uran 4,5% nhưng giá nhiên liệu cao. Với kiểu đầu, khả năng thu hồi pluton (tức tỷ số tái sinh thực tế) đạt từ 0,2-0,5.
    Nhiên liệu được đặt trong lò , sau khi hoạt động ổn định, tức là sau hoạt động liên tục 3 năm, sẽ ở trong lò 3-5 năm, đến lúc đó bắt đầu thu hồi nhiên liệu. Nhiên liệu phát nhiện mạnh trong năm đầu, sau dó nó được chuyển dần ra ngoài, giảm phát nhiệt và giảm bã phóng xạ, để chở đi và tái chế an toàn. Sau khi về trungt âm tái chế, nó tiếp tục được ủ trong nước vài năm rồi mới chế. Như vậy, yên tâm là còn lẩu còn lâu sau mới chẳng may biết tin chúng.
    Nếu là RBMK, AGR, Candu... thì người ta thu hồi pluton nhanh hơn bằng cách cắm các thanh DU hay nhiên liệu cũ của lò kiểu khác vào và lấy ra với tấn số cao hơn thay đảo nhiên liệu, trong khi nhiên liệu làm giầu mức cao, cái này tăng giá thành phát điện lên nhưng lại được bù lỗ bởi quân sự, hay dùng hồi chiến tranh lạnh.
    - Phần tái sinh đó được sử dụng như thế nào? Việt Nam sẽ chịu sự giám sát của ai để sử dụng lại nó?
    Đương nhiên của IAEA là thứ nhất, thứ 2 là chính ta, thứ 3 là nhà thầu. Tiếp đến , thông qua IAEA, là những nước cứng đầu không chịu khuất phục Vịt như Tầu , và đến khách hàng ăn Pluton kiểu vừa mua vừa cướp là Pháp Mỹ.
    Phần đó đương nhiên là nhà thầu khâu tái chế sử dụng, ta chỉ có quyền duy nhất là thông báo cho những ai là.... bạn ta cần thông tin. Vì có nhiều người giám sát nên cái quyền đó khí rẻ mạt. Phần tái chế của nhà máy 1 được chuyển về những trung tâm tái chế ở Tomsk, Krasnoyarsk và sau đó được dự trữ ở Krasnoyarsk trước khi chuyển sang dự trữ nhiên liệu đã chế biến ở Yakut, lúc đó thì hàng nhà ta đã là nước hoà vào biển.
    Nếu nhà máy 2 có ai đó thắng thầu tái chế, thì sẽ chuyển về những trung tâm tái chế khác, như Idaho Mỹ, La Haye (đặt tại Normandie) Pháp, Bắc Nhật Bản, Toronto Canada. Người mua pluton lớn nhất là Mỹ, sau đó là Pháp Nhật.
    - Vấn đề mua U của Việt Nam?
    Do nhà thầu cung cấp món này , nhà máy 1 là Rosatom. Trước đây đám đốt đít cỡn lên là ta có uran, chẳng qua não chúng bé quá, uran nhà ta không ép thành than tổ ong được, tốt nhất là bảo ngu dân tham nhũng bán cho tầu. Uran mỏ sau khi khai thac tinh chế, thì rất ít nước chế tạo được thanh nhiên liệu: Mỹ, Pháp, Nhật, Tầu (mới đây, 2009), Canada , Anh (biết làm nhưng không làm), Ấn, Nga và vài nước linh tinh....
    Nhiên liệu Nga làm chủ yếu là uran Nga, một Nga nhập từ Canada, châu Phi, Ấn Độ, Mông Cổ, Kazacstan, ucraina..... theo các hợp đồng khai thác tài nguyên, trao đổi nhiên liệu, tái chế nhiên liệu, làm giầu thuê (Nga chiếm 40% sản lượng làm giầu toàn cầu, hiện đang chịu thuế bán phá giá bên Mỹ).....
    VN chưa khảo sát kỹ, nhưng là vùng đất ngèo uran, mới tạo thành từ đáy biển về sau này, các vùng đất giầu uran là các vùng trung tâm lục địa cổ có tên Đại Lục Đia. Thêm nữa, các sa khoáng có thể có uran đã bị đào vàng đãi titan từ tám kiếp, cũng chả tiếc nhiều, vì thật ra không đáng kể. Ở Phú Thọ thì từ lâu, cái gã bợm nhậu lấy **** về làm vợ đã bán đến những vỉa quặng chỉ bằng cái chiếu cho Tầu, cha này ăn bẩn được vì ô dù to vãi.
    http://www.laodong.com.vn/Home/Dau-co-hoang-mang/20069/3115.laodong
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    - Tỉ lệ tái sinh là bao nhiêu?
    Lò VVER ở Ninh Thuận, theo công bố của Rosatom, là kiểu lò giống nhà máy Kudankulam/ Ând Độ giai đoạn đầu, công suất 950MW-1000MW. Như vậy đây là loại lò nước nhẹ nén ít nén mật độ phản ứng, có tỷ số tái sinh cao gần nhất trong các lò nước nhẹ nén. Nhưng lò nước nhẹ nén nói chung là những lò có tỷ số tái sinh thấp nhất, vì bản chất là dùng H1 thay U238 để tận dụng đồ thị hấp thụ đặc trưng của H1 ở cận 300 độ C, dễ điều khiển và chế tạo, nhỏ rẻ. CBR của kiểu này là 0,6=rất cao so với nước nhẹ nén. EPR nói CBR=0,6 là láo, đó là mô đi phê từ tỷ số tái sinh pluton, mà nó dùng MOX 50, suy ra con số trên là 0,3.
    Mặt khác, loại lò này có chu kỳ thay đảo 1 năm, hơi ngắn, nhưng tạo thuận lợi cho việc ngăn pluton cháy bớt đi. Có nhiều chế độ nhiên liệu cho loại lò này, nhưng cả Mỹ Pháp Nhật Nga đều thích Ninh Thuận sẽ dùng kiểu làm giầu 2,5%-3,5%, khi đó công suất giảm đi một chút so với MOX 4,5%. Một kiểu nữa là uran 4,5% nhưng giá nhiên liệu cao. Với kiểu đầu, khả năng thu hồi pluton (tức tỷ số tái sinh thực tế) đạt từ 0,2-0,5.
    Nhiên liệu được đặt trong lò , sau khi hoạt động ổn định, tức là sau hoạt động liên tục 3 năm, sẽ ở trong lò 3-5 năm, đến lúc đó bắt đầu thu hồi nhiên liệu. Nhiên liệu phát nhiện mạnh trong năm đầu, sau dó nó được chuyển dần ra ngoài, giảm phát nhiệt và giảm bã phóng xạ, để chở đi và tái chế an toàn. Sau khi về trungt âm tái chế, nó tiếp tục được ủ trong nước vài năm rồi mới chế. Như vậy, yên tâm là còn lẩu còn lâu sau mới chẳng may biết tin chúng.
    Nếu là RBMK, AGR, Candu... thì người ta thu hồi pluton nhanh hơn bằng cách cắm các thanh DU hay nhiên liệu cũ của lò kiểu khác vào và lấy ra với tấn số cao hơn thay đảo nhiên liệu, trong khi nhiên liệu làm giầu mức cao, cái này tăng giá thành phát điện lên nhưng lại được bù lỗ bởi quân sự, hay dùng hồi chiến tranh lạnh.
    - Phần tái sinh đó được sử dụng như thế nào? Việt Nam sẽ chịu sự giám sát của ai để sử dụng lại nó?
    Đương nhiên của IAEA là thứ nhất, thứ 2 là chính ta, thứ 3 là nhà thầu. Tiếp đến , thông qua IAEA, là những nước cứng đầu không chịu khuất phục Vịt như Tầu , và đến khách hàng ăn Pluton kiểu vừa mua vừa cướp là Pháp Mỹ.
    Phần đó đương nhiên là nhà thầu khâu tái chế sử dụng, ta chỉ có quyền duy nhất là thông báo cho những ai là.... bạn ta cần thông tin. Vì có nhiều người giám sát nên cái quyền đó khí rẻ mạt. Phần tái chế của nhà máy 1 được chuyển về những trung tâm tái chế ở Tomsk, Krasnoyarsk và sau đó được dự trữ ở Krasnoyarsk trước khi chuyển sang dự trữ nhiên liệu đã chế biến ở Yakut, lúc đó thì hàng nhà ta đã là nước hoà vào biển.
    Nếu nhà máy 2 có ai đó thắng thầu tái chế, thì sẽ chuyển về những trung tâm tái chế khác, như Idaho Mỹ, La Haye (đặt tại Normandie) Pháp, Bắc Nhật Bản, Toronto Canada. Người mua pluton lớn nhất là Mỹ, sau đó là Pháp Nhật.
    - Vấn đề mua U của Việt Nam?
    Do nhà thầu cung cấp món này , nhà máy 1 là Rosatom. Trước đây đám đốt đít cỡn lên là ta có uran, chẳng qua não chúng bé quá, uran nhà ta không ép thành than tổ ong được, tốt nhất là bảo ngu dân tham nhũng bán cho tầu. Uran mỏ sau khi khai thac tinh chế, thì rất ít nước chế tạo được thanh nhiên liệu: Mỹ, Pháp, Nhật, Tầu (mới đây, 2009), Canada , Anh (biết làm nhưng không làm), Ấn, Nga và vài nước linh tinh....
    Nhiên liệu Nga làm chủ yếu là uran Nga, một Nga nhập từ Canada, châu Phi, Ấn Độ, Mông Cổ, Kazacstan, ucraina..... theo các hợp đồng khai thác tài nguyên, trao đổi nhiên liệu, tái chế nhiên liệu, làm giầu thuê (Nga chiếm 40% sản lượng làm giầu toàn cầu, hiện đang chịu thuế bán phá giá bên Mỹ).....
    VN chưa khảo sát kỹ, nhưng là vùng đất ngèo uran, mới tạo thành từ đáy biển về sau này, các vùng đất giầu uran là các vùng trung tâm lục địa cổ có tên Đại Lục Đia. Thêm nữa, các sa khoáng có thể có uran đã bị đào vàng đãi titan từ tám kiếp, cũng chả tiếc nhiều, vì thật ra không đáng kể. Ở Phú Thọ thì từ lâu, cái gã bợm nhậu lấy **** về làm vợ đã bán đến những vỉa quặng chỉ bằng cái chiếu cho Tầu, cha này ăn bẩn được vì ô dù to vãi.
    http://www.laodong.com.vn/Home/Dau-co-hoang-mang/20069/3115.laodong

Chia sẻ trang này