1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Công nghệ nhà máy điện hạt nhân Việt Nam (sắp xây dựng) và tính toán dài lâu cho nền quốc phòng quốc

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vannienthanh, 19/09/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. SSX109

    SSX109 Guest

    Đánh mất bom-H
    Có những thứ bị mất đi. Như người ta đã biết. Ngay cả ở Lầu Năm Góc, báo cáo của thanh tra nói rằng sổ sách kế toán của quân đội đã làm thất lạc một tàu khu trục, một số xe tăng và xe bọc thép, hàng trăm súng máy, đạn dược, súng phóng lựu và một số tên lửa đất-đối-không. Tất cả gần 8 tỷ USD vũ khí đã bị biến mất.
    Những kỳ dị này là chưa đủ tồi tệ. Cái mà người ta thấy ớn lạnh là một thực tế Lầu Năm Góc đã làm mất mẹ của tất cả các loại vũ khí-một quả bom H. Vũ khí nhiệt hạch, được thiết kế để đốt Moscow ra tro, đã nằm ở đâu đó ngoài khơi Savannah, bang Georgia 40 năm qua.
    Không quân Mỹ đã đi đến chỗ cuối cùng phải giấu giếm vụ đánh mất này hơn là tìm kiếm xác định vị trí quả bom và thu hồi nó một cách an toàn.
    Vào đêm 5 tháng 2 năm 1958 một chiếc máy bay ném bom B-47 Stratojet mang theo một quả bom H trên một chuyến bay huấn luyện đêm ngoài khơi bờ biển Gruzia đã va chạm với một chiếc F-86 Saberjet ở độ cao hơn 10000m. Vụ va chạm đã phá hủy chiếc F-86 và làm hư hỏng nặng cánh chiếc B-47, làm vỡ một phần động cơ. Phi công máy bay ném bom, Thiếu tá Howard Richardson, được hướng dẫn vứt bỏ quả bom H trước khi hạ cánh. Richardson đã thả bỏ bom vào vùng nước nông Warsaw Sound, gần cửa sông Savannah, cách thành phố đảo Tybee vài dặm, ông ta tin rằng quả bom sẽ được nhanh chóng tìm thấy.
    Lầu Năm Góc đã báo cáo tai nạn trong một bản ghi nhớ tối mật gửi chủ tịch Ủy ban Năng lượng nguyên tử Mỹ (AEC). Bản ghi nhớ này đã được giải mật một phần: "Một chiếc máy bay B-47 với [đoạn bị biên soạn] vũ khí hạt nhân trên khoang đã bị hư hại trong một vụ va chạm với một chiếc F-86 gần Sylvania, Georgia, ngày 05 tháng 2 năm 1958. Chiếc B-47 đã cố gắng hạ cánh 3 lần không thành công với bom trong khoang. Bom đã được vứt nhìn thấy rơi trên vùng nước cửa sông Savannah. Không quan sát thấy có vụ nổ."
    Ngay sau đó, đội tìm kiếm cứu hộ đã đến hiện trường. Một vòng vây bí hiểm đã được USAF dựng lên quanh Warsaw Sound. Trong vòng 6 tuần, họ đã tìm kiếm quả bom nhưng không thấy. Các thợ lặn sục tìm dưới sâu, các toán quân càn quét các cánh đồng lầy ngập nước gần đó, các quả khinh khí cầu treo lơ lửng trên vùng, cố gắng tìm rs một cái lỗ hay một cái hố trên bờ biển và các đồng lầy. Một tháng sau đó nữa, cuộc tìm kiếm bất ngờ bị dừng lại. Binh lính USAF lại phải đến Florence, Nam Carolina, nơi một quả bom H-đã vô tình bị rơi bởi một chiếc B-47 khác. Quả bom chứa gần 100 kg TNT đã nổ, phát tán phóng xạ ra mặt đất, gây thiệt hại lớn tài sản và một số thương vong trên mặt đất. Đấy là may mắn, chỉ có phần thuốc nổ thường phát nổ làm vung vãi lõi phóng xạ ra khắp nơi chứ nó không kích hoạt phản ứng hạt nhân.
    Các đội tìm kiếm đã không quay lại Tybee Island, và vụ việc mất tích bom H đã được kín đáo giấu đi. Việc chấm dứt tìm kiếm cũng được ghi lại trong bản ghi nhớ của Lầu Năm Góc gửi AEC đã giải mật. Trong đó USAF lễ độ yêu cầu cấp một quả bom H mới để thay thế quả đã mất. "Việc tìm kiếm vũ khí này đã ngừng ngày 4-16-58 và vũ khí được coi là mất vĩnh viễn. Điều đó cần một [cụm từ bị biên soạn] vũ khí thay thế để trình DOD."
    Dĩ nhiên, có một vấn đề lớn, và Lầu Năm Góc biết điều đó. Chỉ nội trong ba tháng đầu năm 1958, USAF đã dính 4 vụ tai nạn nghiêm trọng với bom H. (Kể từ năm 1945, Mỹ đã đánh mất 11 quả bom hạt nhân). Quả bom bị mất ở đảo Tybee vẫn là một mối đe dọa, như AEC thừa nhận trong một bản ghi nhớ mật đề ngày 10 tháng 6 năm 1958 gửi Quốc hội: "Tồn tại khả năng có thể tình cờ phát hiện vũ khí không được thu hồi qua việc nạo vét hoặc xây dựng trong khu vực sự cố. ... DOD đã yêu cầu giám sát tất cả các hoạt động nạo vét và xây dựng."
    Nhưng phép lạ của trận chiến thiện ác này cho thấy nó có ít vấn đề về khía cạnh an toàn, an ninh và sinh thái, hơn là một thảm hoạ liên quan đến dân chúng khi mà mà nó có thể biến những cư dân hoảng sợ thành những kẻ chống đối dữ dội những dự án hạt nhân đầy tham vọng. Lầu Năm Góc và AEC đã cố gắng đè bẹp mối quan tâm của giới truyền thông về vấn đề này bằng cách cung cấp nhỏ giọt từng mẩu "sự thật thà" trong vô số những luận điệu ru ngủ. Trong một tuyên bố chung cho báo chí, DOD và AEC thừa nhận rằng phóng xạ có thể bị "phát tán" bởi vụ nổ của vật liệu nổ mạnh trong bom H. Nhưng chữ nghĩa đã hạ thấp khả năng có thể xảy ra: "Khả năng một vụ tai nạn đặc thù liên quan đến vũ khí hạt nhân là vô cùng hạn chế."
  2. SSX109

    SSX109 Guest

    Đánh mất bom-H
    Trong thực tế, một kịch bản như đã xảy ra sẽ lại xảy ra một lần nữa.
    Đó là nơi mà vấn đề đã tồn tại trong hơn 4 chục năm cho đến khi một công ty cứu hộ biển sâu, điều hành bởi cựu không quân và CIA, tiết lộ sự tồn tại của quả bom và được cung cấp $1 triệu đô la để định vị nó. Cùng với các tài liệu giải mật gần đây, tiết lộ đã gây ra sợ hãi và tức giận trong số các cư dân ven biển và họ đã kêu gọi QH mở một cuộc điều tra vụ tai nạn và tại sao Lầu Năm Góc đã ngừng tìm kiếm quả bom mất tích. Đại diện đảng CH Jack Kingston, bang Georgia nói: "Chúng tôi đang kinh hoàng vì một số thông tin đã bị che giấu trong nhiều năm qua."
    Tuy thế, việc che đậy vẫn tiếp tục. USAF nói với cư dân địa phương và phái đoàn quốc hội rằng không có gì phải lo lắng. "Chúng tôi đã xem xét vấn đề đặc biệt này từ mọi góc độ và chúng tôi rất hài lòng", ông tướng tướng Franklin J. "Judd" Blaisdell, Phó tham mưu trưởng hoạt động không trung và vũ trụ USAF có trụ sở tại Washington nói. "Mối quan tâm lớn nhất của chúng tôi là xác định ô nhiễm kim loại nặng."!!!???
    Không quân thậm chí đã gợi ý rằng quả bom tự nó không được trang bị ngòi kích hoạt plutonium. Nhưng luận điệu này gây tranh cãi bởi một số yếu tố. Howard Dixon, cựu trung sĩ chuyên lắp bom hạt nhân lên máy bay, cho biết trong 31 năm kinh nghiệm của mình ông không bao giờ một lần nhớ có một quả bom được lắp trên máy bay mà không được trang bị đầy đủ. Hơn nữa, tài liệu năm 1966 có lời khai trước quốc hội của WJ Howard, lúc đó là trợ lý thư ký quốc phòng vừa được giải mật, mô tả quả bom ở Tybee Island bom là một "vũ khí hoàn thiện, một quả bom với bộ phận hạt nhân." Howard cho biết, quả bom Tybee Island là một trong hai quả bom bị mất cho đến lúc đó (1966) có ngòi kích hoạt bằng plutonium.
    Các tài liệu giải mật gần đây cho thấy, quả bom bị vứt bỏ ở Tybee là loại bom H Mk-15, Mod O, nặng 4 tấn, sức mạnh lớn hơn quả ném xuống Hiroshima 100 lần. Đây là bom nhiệt hạch đầu tiên USAF trang bị và có đặc điểm thiết kế tương đối thô sơ của "thiên tài ác quỉ" Edward Teller. Cơ cấu an toàn duy nhất của nó chỉ là vỏ con nhộng ngăn cách vật lý khối plutonium.
    Ngoài vỏ hạt nhân con nhộng chứa ngòi nổ chính, quả bom còn có một ngòi nổ hạt nhân khác hay sparkplug (bugi), được thiết kế để kích hoạt phản ứng nhiệt hạch. Đây là một cái ống rỗng cỡ 1 inch đường kính làm bằng plutonium hoặc uranium độ giàu cao (Lầu Năm Góc đã không bao giờ nói tới nó), xung quanh đổ đầy vật liệu nhiệt hạch, có thể là lithium-6 deuteride. Lithium phản ứng rất mạnh với nước. Plutomuin trong bom được sản xuất tại các căn cứ hạt nhân Hanford ở bang Washington và là căn cứ hạt nhân lâu đời nhất của Mỹ. Ngoài ra, quả bom còn chứa vật liệu phóng xạ khác, chẳng hạn như uranium và berilium.
    Quả bom rất có thể đã bị chôn vùi trong bùn cát, năm tháng trôi qua, những vật liệu có thể đã bị nứt và bong tróc, giòn và nhạy cảm, từ từ rò rỉ phóng xạ vào đất và nước vùng Warsaw Sound. Cư dân ven biển muốn người ta tìm và đưa nó đi. Pam O''Brien, một người thuộc tổ chức chống nuke từ Douglassville, Georgia nói: "Plutoni là một cơn ác mộng và dân chúng tự họ biết điều đó."
    Tình hình gợi nhớ lại sự cố Palomares. Ngày 16 tháng 1 năm 1966, một máy bay ném bom B-52, mang theo bốn quả bom H, đã bị rơi khi đang cố gắng tiếp nhiên liệu giữa không trung trên bờ biển Tây Ban Nha. Ba quả đã rơi xuống gần làng nông ven biển Palomares. Một quả rơi xuống con lạch cạn và tìm lại được trong tình trạng còn tương đối nguyên vẹn. Nhưng thuốc nổ mồi TNT trong 2 quả bom kia đã phát nổ, đào thành những cái lỗ lớn trên 3m ở mặt đất. Hậu quả là uranium và plutonium vung vãi ra một diện tích rộng lớn. Trong 3 tháng sau đó, hơn 1400 tấn đất nhiễm phóng xạ và thảm thực vật được đặt trong thùng kín và mang đi. Thật mỉa mai đủ, chúng được vận chuyển trở lại phòng thí nghiệm hạt nhân sông Savannah và vẫn còn đó. Cánh đồng cà chua gần miệng hố được đốt và chôn lấp. Nhưng không nghi ngờ gì, gió mạnh và nhiều yếu tố khác đã phát tán ô nhiễm đi xa và người ta đã bỏ lại ô nhiễm trong vùng. "Mức độ phát tán tổng thể sẽ không bao giờ được biết đến", đó là kết luận từ một báo cáo năm 1975 của Cơ quan hạt nhân quốc phòng Mỹ.
    Việc dọn dẹp là hoạt động chung giữa Không quân và các thành viên bảo vệ dân sự Tây Ban Nha. Dù sao các nhân viên Mỹ cũng được mặc quần áo bảo hộ và được theo dõi phơi nhiễm phóng xạ, nhưng biện pháp phòng ngừa tương tự đã không được đưa ra cho các đối tác Tây Ban Nha. "Không quân đã không cung cấp đầy đủ thiết bị giám sát và phát hiện phóng xạ cho nhân viên khi tai nạn máy bay xảy ra liên quan đến vũ khí plutonium trong khu vực xa xôi của nước ngoài", chỉ huy Không quân chịu trách nhiệm dọn dẹp vụ này sau đó xác nhận trước Quốc hội.
    Quả bom thứ tư rơi 8 dặm ngoài khơi và bị mất tích trong nhiều tháng. Cuối cùng, nó được một tàu ngầm mini phát hiện ở sâu hơn 800 m dưới mặt nước, và vẫn còn nằm đó cho đến ngày nay. Không rõ lý do tại sao họ không trục vớt nó lên.
    Hai năm sau, vào ngày 21 Tháng một năm 1968, một tai nạn tương tự lại xảy ra khi một chiếc B-52 bốc cháy trong khi đang ở trên Greenland và rơi đâm vào băng tại vịnh North Star gần căn cứ không quân Thule. Tác động cú va chạm đã kích nổ các vật liệu nổ thường trong cả 4 quả bom H mà máy bay mang theo, Hậu quả, uranium, triti và plutonium đã phát tán rộng với bán kính 600m. Ngọn lửa dữ dội làm tan chảy tạo một cái lỗ lớn trong băng, sau đó nó đông cứng lại, đóng kín nhiều mảnh vỡ, chôn vùi nhiều vật liệu phóng xạ từ những quả bom. Các hoạt động cứu hộ, được thực hiện trong bóng tối ở nhiệt độ âm gần -70 độ, được gọi là Dự án Crested Ice. Nhưng các nhân viên gọi nó là "Tiến sĩ yêu đông cứng."
    Hơn 10000 tấn tuyết và băng đã được cắt, đưa vào thùng chứa và vận chuyển đến sông Savannah và Oak Ridge để xử lý. Các mảnh vỡ nhiễm phóng xạ khác thì đơn giản là bỏ lại hiện trường, để tan chảy vào vịnh khi mùa xuân tuyết tan. Hơn 3000 nhân viên đã nỗ lực khắc phục hậu quả ở Thule, rất nhiều người trong họ là lính Đan Mạch. Cũng như tại Palomares, hầu hết các nhân viên Mỹ được cung cấp một số thiết bị bảo vệ, nhưng không phải là người Đan Mạch, những người Đan Mạch đã làm nhiều công việc nguy hiểm nhất, bao gồm đặt các mảnh vỡ vào các thùng chứa, thường là bằng tay. Các biện pháp khử nhiễm xạ, có thể nói là cổ lỗ nhất. Báo cáo của USAF ghi nhận rằng họ đã được làm sạch "đơn giản là quét tuyết bám trên quần áo và xe cộ."
    Mặc dù hơn 38 tàu hải quân được gọi đến để hỗ trợ các hoạt động phục hồi, và có một bí mật công khai rằng các quả bom đã mất, thì Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục nói dối về tình hình. Trong một trao đổi gây tranh cãi với báo chí, phát ngôn viên Lầu Năm Góc thốt lên một chút kinh điển của cái sự 2 mặt Mỹ: "Tôi không biết về bất kỳ quả bom mất tích nào, cũng như chúng tôi chẳng hề tích cực xác định những gì tôi nghĩ là anh bạn đang tìm kiếm."
    Khi những nhân viên người Đan Mạch tại Thule bắt đầu mắc bệnh ốm yếu nghiêm trọng, từ ung thư hiếm đến các rối loạn máu, Lầu Năm Góc từ chối giúp đỡ họ. Ngay cả sau khi đã có một nghiên cứu dịch tễ học năm 1987 bởi một viện y tế Đan Mạch cho thấy nhân viên ở Thule mắc ung thư nhiều hơn các quân nhân Đan mạch ở nơi khác 50%, Lầu Năm Góc vẫn từ chối hợp tác. Cuối năm đó, 200 người đã kiện Mỹ theo Đạo luật quân sự nước ngoài. Vụ kiện này đã bị bác bỏ, nhưng sau đó đã phát hiện hàng ngàn trang tài liệu bí mật về vụ tai nạn, bao gồm cả cái thực tế là nhân viên USAF làm việc tại hiện trường, không giống như Đan Mạch, đã không hề được áp dụng biện pháp theo dõi sức khỏe lâu dài. Mặc dù vậy, Lầu Năm Góc tiếp tục giữ hầu hết các tài liệu về tai nạn bom H ở Thule trong bí mật, bao gồm bất kỳ thông tin nào về mức độ phóng xạ (và các chất độc hại) đã bị phát tán và ô nhiễm.
    Những nỗ lực khắc phục hậu quả không tạo được mấy sự tin tưởng. Như quả bom ở đảo Tybee vẫn còn nguyên đó cho dù có vẻ đã chạm được vào nó. Sự có mặt của lithium deuteride kém ổn định và các vật liệu nổ mạnh, làm cho việc thu hồi bom trở thành nghề rất nguy hiểm - quá nguy hiểm đến nỗi trên thực tế ngay cả một số nhà hoạt động môi trường và chống nuke thậm chí còn tranh cãi rằng để nó ở đó còn ít nguy hiểm hơn là di dời nó đi.
    Trước mắt, không có câu trả lời nào là dễ dàng. Vấn đề càng bị làm trầm trọng thêm bởi sự thất bại của Lầu Năm Góc khi tiến hành phân tích đánh giá toàn diện về tình hình và họ chỉ miễn cưỡng tiết lộ đầy đủ những gì họ biết sau này. Don Moniak, chuyên gia hạt nhân bảo vệ môi trường Blue Ridge nói: "Tôi tin rằng có vỏ nhộng plutonium trong quả bom, nhưng một vụ nổ hạt nhân là không thể xảy ra bởi vì bộ tạo neutron được sử dụng ngược bởi hấp phụ polonium-berilium, chúng có tuổi rất ngắn. Nếu không có neutron, ngòi plutonium sẽ không nổ. Tuy nhiên, có thể có phản ứng phân hạch hoặc trường hợp tới hạn nếu khối plutonium bằng cách nào đó bị đặt trong một cấu hình không chính xác. Có thể sẽ là một địa ngục khổng lồ nếu vật liệu nổ mạnh phát nổ và khối lithium deuteride phản ứng như trông đợi. Hoặc chỉ là một vụ nổ thường phát tán uranium và plutonium rải rác trên khắp địa ngục."
    Rất tiếc, bạn có thể được nhiễm xạ.
    Đó không phải là những năm tháng dễ dàng cho Bộ năng lượng (DOE): công nhân bị nhiễm phóng xạ, các thanh nhiên liệu hạt nhân bị thất lạc (hay mất tích), ở Hanford tiếp tục rò rỉ chất độc khó phân huỷ vào sông Columbia, nhà khoa học hạt nhân Wen Ho Lee làm việc cho phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos bị kết tội đánh cắp công nghệ hạt nhân cho Trung Quốc. Nhà máy vũ khí hạt nhân Rocky Flat ở Colorado nhiễm xạ nặng nhưng bị CQ Mỹ giấu giếm, những bê bối tài chính, các nhà thầu bòn rút mọi thứ, sống như vua chúa rồi lần lượt tuyên bố phá sản, rồi thì CQ Bush tuyên bố những to tát từ nhà máy điện hạt nhân mới cho đến nối lại một chuỗi thử vũ khí hạt nhân ngầm dưới lòng đất. Như thế là đủ cả những hào hoa tao nhã hạt nhân!
    Là một phần của chiến dịch tiếp thị công chúng mới, DOE cho phép công chúng và báo giới tiếp cận những nơi mà trước đây bị cấm như Area 51. Nhưng khi bí mật hạt nhân sông Savannah được công khai mở cửa cho du lịch, mọi thứ hoá ra không giống như đã lên kế hoạch.
    Savannah, ở Nam Carolina, một bãi thải/tổ hợp vũ khí hạt nhân khổng lồ cũng là vấn đề, kể cả việc đã làm tràn ồ ạt nước phóng xạ hoạt tính cao tritium vào sông Savannah năm 1991. Giới quản lý nhà máy đang cố gắng để giảm bớt sự lo lắng của dân chúng đủ để DOE có thể đi tiếp với kế hoạch thời Clinton xây dựng nhà máy chế tạo hỗn hợp nhiên liệu oxide (với AREVA), một chương trình nguy hiểm lố bịch có liên quan đến việc tái chế của 36 tấn plutonium cấp độ vũ khí thành nhiên liệu cho các lò phản ứng hạt nhân thương mại.
    Tour du lịch 25 người gồm các phóng viên, nhà môi trường và hàng xóm đến nhà máy. Tour này được tổ chức để làm nổi bật các hoạt động của DOE vừa được thắt chặt qui củ. Nhưng thật hài hước khi nó để lộ ra những cẩu thả nguy hiểm như thế nào thì vẫn còn nguyên đó. Sau khi nhóm tour rời vùng F-Area, gọi lóng là "trang trại thùng chứa" nơi mà các chất thải phóng xạ mạnh nhất được đóng thùng chôn ngầm dưới đất, nhân viên của Savannah đã quên không kiểm tra theo dõi phóng xạ nhóm tour tiếp xúc với bức xạ, một thủ tục bắt buộc phải có. "Đây là một vi phạm đáng sợ các tiêu chuẩn an toàn." Ông Tom Clements, lãnh đạo Viện kiểm soát hạt nhân, người có mặt trong đoàn tour nói.
    Các nhà quản lý Savannah thừa nhận sai lầm, nhưng họ đổ lỗi kẻ khác. Rick Ford, phát ngôn viên DOE nói: "Chúng tôi không bao giờ có ý định cho họ được xuống xe ở đó."
    Ý ông Rick Ford là ông cấm cửa luôn đám này cho tiện. Đó là lời ngay thẳng thật thà, nhưng còn xa mới làm người ta yên tâm.
    theo Jeffrey St Clair
    http://www.commondreams.org/views01/0803-08.htm
    http://wondersofpakistan.wordpress.com/2009/05/29/the-case-of-the-missing-h-bomb/
    http://www.google.com/search?q=The+Case+of+the+Missing+H%2DBomb
  3. SSX109

    SSX109 Guest

    Giám đốc CIA Leon Panetta: Iran dường như có đủ uranium làm giàu mức thấp cho 2 quả bom, nhưng có thể sẽ mất 2 năm để làm bom.
    http://www.cbsnews.com/stories/2010/06/27/ap/cabstatepent/main6623633.shtml
    Cái tin kiểu này đã được lăng xê đâu độ 5, 6 lần. Làm bom bằng U235 20%? Làm giàu từ 20% lên 85% đủ để làm bom sẽ rất khó khăn. Cũng như người Mỹ tách 0,25% U235 cuối cùng ra khỏi DU rất khó khăn và đành vứt bỏ.
    Chỉ có thể nói một điều: Chàng Yankee ạ, anh thì ngu si lắm lắm.... lắm rồi!!!
    Mới đây, bác HP đã chỉ ra cách làm bom chẳng mấy tốn kém. Nếu có tiền, xây hẳn nhà máy to tự động. Nếu không có tiền như BTT, xây lò gạch và bắt phu tù vận hành. http://ttvnol.com/forum/quansu/1247502/trang-4.ttvn#16457073
    Được SSX109 sửa chữa / chuyển vào 12:32 ngày 28/06/2010
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    To gà béo và bác phoi.
    PLC là thiết bị hay dùng trong ngành điện, nó là một cái máy tính, chưa có phần mềm. Còn ASU là một hệ thống hoàn chỉnh có đủ chức năng, và thật ra cái lò nó ít dùng PLC. Thật ra, điều không thể tránh trong đấu thầu là những bảng mầu để vẽ giá, thực chất là rửa tiền giúp bên mua. Cũng như các ngành khác, phần điện tử là "phầm mềm" dễ son phấn nhất. Do đó, tiêu chuẩn EU có ngòm củ tòi cũng cố bám cái này.
    Cho dù chúng chỉ là chi tiết, thì thiết bị điện tử lõi của lò hạt nhân cũng là loại thô, rất tin cậy, transito thì thô cỡ ngày nay là vài micron, to gấp hàng ngàn lần CPU của PC, chạy khá chậm, được bọc vỏ cẩn thật, giá đương nhiên là rất đắt và chỉ dùng trong vũ trụ , vũ khí và hạt nhân. Chúng được thử thách kỹ, có tuổi thọ cao. Cái cỡ độ điện dân dụng hỏng với con số % trong năm thì có mà nổ sớm.
    Một tính chất tin cậy trong ngành hạt nhân đẩy giá ASU chuyên dùng lên cao là chế độ đa kênh song song. Có ít nhất 3 phần trung tâm (SVBU). Các cơ cấu chấp hành và đo đạc được kết nói với các máy tính chức năng PTS và sau đó các PTS kết nối với các SVBU. Các cơ cấu chấp hành với trung tâm có protocol khá phức tạp. Mỗi cơ cấu chấp hành chỉ tuân theo những mệnh lệnh mà nó đã kiểm tra là đúng. Vì có ít nhất 3 trung tâm nên khi báo hỏng sửa 1 còn ít nhất 2, vẫn an toàn tuyệt đối. Do có nhiều cơ cấu chấp hành cùng làm một nhiệm vụ, như điều khiển, khoá và dừng khẩn, bơm, van.... nên điều này làm trung tâm theo dõi dược và bù hoạt động của các cơ cấu tạm thời trục trặc bằng các cơ cấu khác.
    Ta có thẻ hiểu , mỗi cái PC có 1 não không thể cắt đầu thay đầu. Nhưng ASU-TP AES có thể tắt một tủ máy đi, bê tủ khác vào, cài cắm kiểm tra chu đáo, bật nó lên, nó sẽ đọc các coder=hỏi đáp với chân tay "tớ mới được phong chức đồng xếp", bao giờ tơ hét OK là các cậu nhận lệnh của tớ, dĩ nhiên việc của các cậu vẫn là đọc, kiểm tra rùi mới nghe lời..
    Để phục vụ cho các báo cáo, người Nga phát triển hệ thống coder riêng. Coder của các máy công cụ chỉ là vị trí của cơ cấu chấp hành hay ID của các sensor. Nhưng coder của hệ thống giám sát bao gồm cả các IC nhớ, mã hoá bằng hình dáng cơ học (mã vạch). Ví dụ, bó nhiên liệu hoạt động như băng đạn, nó đi qua nhiều khâu ở nhiều xe cộ và nhà máy, khi các máy công cụ thao tác với nó đều update lý lịch (được gi trong hê thống quốc gia) cho nó, thông qua mã hiệu vạch trên chính cán thanh. Thiết bị tương tự nhưng làm nửa cơ nửa điện tử là súng đạn tăng T-72 , khi nạp đạn, phần điện tử trong đầu đạn được cấp nguồn và kết nối với xe, máy tính trên xe không chỉ nhận biết serial, phân loại..... không thể tính nhầm hay nạp nhầm liều, mà còn ghi lại kết quả phát bắn, thời gian tình huống bắn....
    Như vậy, một hệ thống điện tử trong lò là một mạng phức tạp gồm nhiều thiết bị có ID độc lập, ví dụ các cơ cấu chấp hành và các trung tâm. Mạng này có đủ các chức năng điều khiển, thu thập, tất nhiên là bảo mật tuyệt đối và có đường gate way lên cấp trên để truyền đi ngay lập tức thông tin về hoạt động lò. Thông tin này được sử dụng như thế nào là còn tuỳ khoa học và luật pháp. Nhưng đứng về góc độ máy tính, cái mạng lò đó là ASU-TP, cũng như cái internet có TCP-IP. Cái protocol này chạy trên nhiều lớp vật lý, cả không dây và có dây. Hệ thống có tên gắn bó với lò, vì dụ, ASU TP AES-2006 là của NPP2006.
    http://www.authorstream.com/Presentation/aSGuest51411-425839-asu-tp-aes-npp-2-kruglyystolniiis-entertainment-ppt-powerpoint/
    cái chức năng tương tự như gate way có thể làm bằng đường truyền thông thường hay qua vệ tinh.
    Cũng chưa hết, những phần cơ của cơ cấu chấp hành tin cậy nhất chỉ chạy khi phần điện của nó đúng. Ví dụ về kỹ thuật này là hệ thóng bi như của ổ khoá, khi phần điện chỉ thị đúng dãy 01 theo bi, thì cơ mới được mở khoá và hoạt động. Nếu phần điện không mở khoá được phần cơ theo "mã số" mà nó lưu giữ, nó sẽ được báo hỏng cho hệ thống và hệ thống sẽ căn cứ vào vị trí của nó để bù bằng những phần khác. Phương thức này là một phần của coder, và do nó tin cậy nên coi như một thiết bị khoá không thụ động, không thể tháo nó ra khỏi vị trí khoá nếu như chưa có tối thiểu hai hệ thống trung tâm khởi động ra lệnh đúng.
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-vver-and-rbmk-nuclear-power-plants/control-rod-drive-mechanisms.shtml
    Đó là cấu tạo cụ thể , còn về phần điện tử thì quan trọng nhất là tính năng mà nó bao quát được, ngoài việc chỉ thị cho các thanh điều khiển lên xuống hay đọc xem các khe khắc trên thanh nhiên liệu.
    Sau 198x thì ngành hạt nhân có tiến bộ vượt bậc về điện tử. Đó là máy tính theo dõi, tổng hợp và mô phỏng hoạt động của lò, điều trước đây máy tính không thể làm được. Nhờ vậy, nhiều vẫn đề xảy ra trong tương lai như hiệu ứng Xenon được tiên đoán trước. Xenon 135 có khả năng hấp thụ neutron với diện tích hàng triệu barn, chỉ cần lượng rất nhỏ cũng hãm lò lại, nếu như rút quá nhiều thanh điều khiển lúc đó để chạy thì tương lai có thể nổ. Xenon 135 có chu kỳ phân rã ngắn 9,2h- nhưng nó là sản phẩm phân rã từ I135 có chu kuf 6-7 h, nên lượng Xe135 trong lò tăng sau khi lò chạy chứ không tăng ngay, và lại giảm rất nhanh theo một đồ thị lên xuống phức tạp trước khi ổn định, bất cứ hoạt động thay dổi cong suất nào cũng dẫn đến những thất thường của lượng xenon 135 diễn ra sau đó vài giờ.
    Lò RBMK có đường thoát bã dạng khí như I135 qua khí trơ, còn VVER, BN, BREST có khoang ở đầu thanh-thật ra là nằm ngoài vùng phản ứng, không lo Xe135 lắm, nhưng việc mô phỏng và đoán trước tương lai, cảnh báo các mệnh lệnh nguy hiểm vẫn quan trọng. Thêm nữa, hệ thống số có khả năng tự phát hiện lỗi trong các mệnh lệnh và do đó đánh giá đúng hơn các sensor, đặc biệt quan trọng là nhiệt độ và neutron plux (mật độ và năng lượng neutron, lúc nào ta trở lại cái máy này sau). Windscale Pile cháy cũng chỉ do sensor hỏng.
    Một mức điện tử nữa được áp dụng nhanh, chính là chức năng cái + của Siemens mà các lò Nga trang bị đồng loạt 199x. Ngày nay, Pháp Mỹ Nhật cố lươn lẹo không dùng. Đó là hệ thống "quản lý sự cố", ví dụ, nó phải quản lý từng thanh nhiên liệu, lên "lý lịch" của thanh đó, để có báo cáo, quản lý sự nứt vỡ và nước nhiễm xạ theo nứt vỡ đó, lý lịch này chỉ đông và lưu lại khi thanh đã ủ xong đem tái chế xong. Phần quan trọng hơn là các kênh thông tin đại chúng biết rõ tình hình của lò, rò rỉ dù nhỏ. Ví dụ về cái khả năng phát hiện rò nước lõi do hao dần là khá đắt, bác Nhật rò 55 tấn mới phát hiện ra, đáng ra chỉ cần chút nhiễm xạ hơi là phải biết rồi. Bác Mỹ có chế tạo từng phần cái này theo biểu tình và thi đua xin bỏ phiếu gia hạn (đã lâu không có xây mới nên chỉ có xin gia hạn và rút ruột nén để tăng công suất), nhưng luật từng bang phức tạp, lại còn theo thế của chủ lò, và thật ra, cái đám hàng chục vạn tấn nhiên liệu vẫn ở dạng thanh của mấy chục năm dân sự, trong đó phần lớn là đem chôn, thì không thể kiểm soát chặt chẽ, bảo vệ bằng quân đội nghiêm mật như nhà máy và là nguy cơ khủng bố hạt nhân lớn nhất , rất kinh tởm, bất chấp các bác có gào khản hay làm choè như con dòi. Bạn có dám cam đoan là mấy chục năm qua, mấy bác lính thú xa nhà chưa từng say rượt lỡ tay giết người, hay bị uống thuốc ******** lên cơn hiếp dâm, hay đơn giản là thua bạc.... rồi giả vờ ngủ khi khủng bố tráo nhiên liệu, mấy chục năm qua có ai kiểm tra đâu .
    Phần vỏ ngoài của hệt thống điện tử là các máy tính mà chúng ta thấy nhân viên vận hành lò sử dụng. Chúng cũng khá đặc biệt, nếu bê ra xa khỏi lò, mất tín hiệu radio khoá, thì chỉ còn nước đập đi lấy linh kiện. Chúng cũng chỉ là interface có cấu tạo khá giống PC thường, chỉ khác là đắt hơn chút và cắm card mạng ASU-TP.
    Cho dù thiết bị điện tử có tinh vi đến mấy thì việc nó vị nhồi phần mềm láo hay xếp lò cố ý tự tử vẫn có khả năng xảy ra. Ta mua lò tầu, nó gài phầm mềm đểu, nghe thấy lệnh từ Bắc Kinh là nổ. Còn chuyện phi công tự sát giết mấy trăm mạng thì nhiều rồi. Cái này lại cần phát triển hệ thống thụ động. Hệ thống thụ động chống nhân viên và máy tính rút quá đà thanh điều khiển được đặt hàng sau Cher nô bưl. Ở Cher, lò bị hãm không khởi động được do điều hoà quá nóng, điều hoà quá nóng do bị tháo bột hệ thống bơm và chạy suốt một ngày. Nhưng ban an toàn khi thấy lò không khởi động đã ký cho phép rút ra quá nhiều. Khi ít thhanh hấp thụ Bo, thì tốc độ tăng công suất lò vọt lên rất cao mà có thể các cơ cấu phản ứng nhanh như dừng khẩn cấp và khoá không kịp. Thật ra, chính SL-1 nổ 1961 ở Idaho là do nguyên nhân đó, nhưng người ta chưa đầu tư khắc phục. Ở VVER, thì tổng số phần các thanh hấp thụ trong lò không ít hơn quá một con số tối thiểu do vướng nhau, bắt đầu từ AES-92 mà 4 lò đầu của ĐIều Loan không có, nhưng có trong các lò Ấn Độ.
    Thật ra, VVER theo tiêu chuẩn EU và IAEA là để thâm nhập các thị trường "kiên cố" như Tây Âu, Mỹ, Nhật.... Chứ các tiêu chuẩn đó hạ mức an toàn so với Nga nhiều. Bù lại, người Nga cũng ra sức nén để xuất khẩu mà chả phải đỏ mẹt tí teo, vì vẫn nén ít hơn các bác sôi cả nước ngâm nhiên liệu dùng rồi. Nhưng không thể vì thế mà quên đi quá nhiều an toàn. Cái vấn đề VVER hy sinh chút an toàn do EU thì ta bàn sau.
    Nga dùng rhodium cho sensor đo neutron (neutron plux ), dùng cho chức năng in-core measurement channels (KNI). Chức năng này đo mật độ, phổ năng lượng và phân bố neutron trong lõi lò. Một số nước khác dùng Cd113 làm giầu. Rn ổn định hơn, do nó ít hấp thụ hơn, nguyên tắc cũng là emitter. Phần chấp hành chính là các cán thanh điều khiển thì VVER là steping, thanh điều khiển tiến từng bước và thông báo vị trí của nó về bởi coder, stepping khi xuống thực hiện bằng các răng trên cán thanh và nhảy bởi cơ cấu như quả lắc đồng hồ xả cót ra, chứ không phải bằng các step motor quay. Cái Rh và steping này thì dễ thoả thuận 2 bên nên đẻ ra việc, Siemens và Rosatom phải hợp tác và mát không ít thời gian để sửa lại phần mềm theo sensor, nhưng cũng vì thế mà khác xa dồ Siemens thiết kế hợp tác với Areva.
    Ngoài Siemens, thì Skoda cũng sản xuất các thiết bị điện tử và chấp hành, cũng rao bán nguyên lò VVER-1000 nhưng có nhiều linh kiện Rosatom. Nhưng do nhà máy này kém cạnh tranh mặt đó, lại giầu to khi gia công thuê lõi lò cho Areva và Westinghowse, nên dần dần thị phần bé đi.
    Về đại thể, cấu trúc ASU-TP AES-2006 vẫn là thiết kế Nga, nhưng linh kiện và lắp ráp phần cứng do Siemens và một công ty Phần Lan làm-như mô hình dự án Phần Lan. Các lò trong nội địa Nga thì không có nhiều kinh phí thử nghiệm nên dùng IC Siemens nhưng do Nga làm. IC thì hiện tại các nước làm khá giống nhau, cũng không quan trọng và thực chất giá thành không nhiều. Phần mềm dĩ nhiên vẫn do Rosatom giữ tuyệt mật mà vẫn có tiêu chuẩn EU.
    Chuyện Đại Phúc bụng to cài đồ Areva là nhảm nhí ngu hơn lợn, theo mô hình 4 lò đầu lai căng của Điền Loan mà chính Tầu đã bỏ, Rosatom bi h cũng không bán. Những chuyện ngu hơn lợn này chỉ có ở xứ Vịt, ai mời Đại Phúc Lợn sang và nói những chiện gì, mõm chó cắm đầu lợn ra sao thì còn cả trong các link đã dẫn.
  5. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Theo
    http://www.atomstroyexport.ru/press/announcements/?id=92
    Thì té ra cái AES 2006 sinh ra do anh Tàu ở Tần sơn đòi Nga phải dùng đồ Siemens cho các trang bị điều khiển, Nga thì tất nhiên phải biết anh Tàu muốn qua sự phối hợp giữa thiết bị điều khiển phương Tây và thiết bị lò, bơm phía Nga sẽ phải đưa ra các thông số về chế độ vận hành lò hạt nhân, là những bí quyết người Nga đã phải trả bằng máu.
    Thế là hệ AES 2006 có phần máy tính điều khiển cho nhân viên toàn dùng đồ pentium và điều hành windows, các bus cũng theo đúng chuẩn High Ethernet, các thiết bị của Siemens cũng sẽ được dùng trong hệ, nhưng có hai cái người Nga tự làm:
    -Thiết bị lưu trữ+Time Server ATS-1:
    [​IMG]
    Т.ХН~Ч.Сs~. ХАРАsТ.Р~СТ~s~ АТС-1 АТС-1s
    Тип библио,еки магни,ооп,и?еская лен,о?ная
    .мкос,O библио,еки, "бай, 82 3200
    С?ок .?анения данн<. на сSемн<. носи,еля., ле, 50 30
    Совмес,имос,O с zС:
    ? Linux
    да да
    ? Windows
    да да
    ? OpenVMS
    не, не,
    ~н,е?"ейс SCSI 2 SCSI 3
    '?емя ?або,< п?и п?опадании вне^него пи,ания, мин не менее 20 не менее 20
    oо?нос,O по,?ебления, 'А 400 1500
    oасса, кг 400 400
    "аба?и,<, '.Ш.", мм 2050.610.810 2050.610.810
    'иблио,ека подклZ?ае,ся по SCSI ин,е?"ейсf, допfскаZ?емf пе?еда?f ин"о?ма?ии на ?асс,ояние до 10 м.

    - Máy chủ trung tâm USU-1, USU-2:
    [​IMG]
    Т.ХН~Ч.Сs~. ХАРАsТ.Р~СТ~s~ УСУ-2 УСУ-3
    Тип ?ен,?алOного п?о?ессо?а Alpha Alpha
    sоли?ес,во п?о?ессо?н<. модfлей, ^,. 2 2
    Так,овая ?ас,о,а п?о?ессо?а, o"? 1250 1000
    zбSем кэ^- памя,и 2-го f?овня, oбай, 16 8
    zбS'м z-У, "бай, 2 2
    zбS'м памя,и на ж'с,ки. диска. (Ultra 3 SCSI), "бай, 72 72
    ~н,е?"ейс<, ^,.:
    ? Ultra 2 SCSI
    1 -
    ? Ultra 3 SCSI
    2 1
    ? RS-232
    2 2
    ? 10/100BaseT/TX
    6 3
    ? 10/100/1000BaseT/TX
    - 1
    ? 100BaseFX
    4 2
    Тип CD-п?ивода DVD/CD-RW СD-ROM
    zбSем кассе,< внf,?еннего лен,о?ного fс,?ойс,ва, "бай, 20/40 20/40
    '?емя ?або,< п?и п?опадании вне^него пи,ания, мин не менее 20 не менее 20
    oо?нос,O по,?ебления, 'А 2000 2000
    "аба?и,н<е ?азме?<, '.Ш.", мм 1700.600.1070 1700.600.1070
    oасса, кг 250 250
    Nhận xét: như vậy người Nga vẫn nắm phần lưu trữ số liệu và máy tính chủ trung tâm do Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật đo lường mang tên Sedakov (Niis) sản xuất.
    Trong hai server trên có các linh kiện ngoại nhập nhưng Nga sẽ kiểm soát về cấu trúc máy tính và phần mềm hệ điều hành, USU không thấy công bố dùng hệ điều hành gì.
    Chưa nói các cảm biến đo thông số lò thế nào Nga cũng phải làm.
  6. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Như vậy về phần SVBU -giao diện người máy người Nga nắm chắc phần data và hệ điều hành server chính.
    Về lớp dưới-lớp Scada người Nga cũng chế tạo được hệ thống Scada riêng -MasterScada, lịc sử của nó có thể xem ở đây:
    http://www.masterscada.ru/?ad***ional_section_id=28
    Để phục vụ MasterScada, Nga đã có một loạt hãng chế tạo các PLC có thể xem ở đây:
    http://www.insat.ru/products/?category=20
    Có khá nhiều như Segnetics, Tekon, Oven....
    Về chất lượng thì chưa dùng chưa biết, nhưng về tinh thần vươn lên làm chủ công nghệ thì đã rõ.
  7. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Nga đang thực hiên đề án AES thế hệ 4 nhưng bây giờ mới đưa ra AES thế hệ 3+ với lò phản ứng EVVR thế hệ mới gọi là AES-2006.TQ cũng đang đàm phán làm 3 tổ máy
    Khi có AES-2006 thì mois nói đến ASU TP AES-2006
    Development of nuclear energy in Russia
    The technical efficiency of our nuclear power plants and the high professionalism of their personnel guarantee the safe and faultless functioning of such a complex technological organism as the nuclear industry of Russia.
    The development prospects of the nuclear industry of Russia are specified by the federal target program "Development of Nuclear Industry of Russia in 2007-2010 and -2015" and other documents.
    This program says that by 2025 the share of nuclear power plants in the total electricity production in Russia should be increased from 16% to 25% and that 26 new reactors should be built during the period.
    The following projects are underway for the moment:
    Rostov NPP, 2nd unit, to be launched in 2009;
    Kalinin NPP, 4th unit, 2011;
    Beloyarsk NPP, 4 th unit (BN-800), 2012;
    Novovoronezh NPP-2, 1 st ad 2nd units, 2012 and 2013, respectively;
    Leningrad NPP-2, 1st and 2nd units, 2013 and 2014, respectively.
    The process of selection of sites for Seversk NPP (Tomsk region), Central NPP (Kostroma region), Baltic NPP (Kaliningrad region), South Ural NPP (Chelyabinsk region) is near completion.
    Among the scientific-technical achievements of Energoatom Concern is at least two projects of strategic importance: NPP-2006 and floating NPP.
    Floating NPP ?" floating nuclear power plant is a flush decked non-self-propelled ship with two KLT-40S reactors manufactured by Nizhniy Novgorod Machine Building Plant. The length of the vessel is 144 meters, the width ?" 30 meters, the tonnage ?" 21,500 tons.
    Floating NPP can be used for production of electric and thermal energy and can desalinate water (from 40,000 to 240,000 cubic meters of fresh water).
    The electric capacity of each reactor is 35MW, thermal capacity is 140 Gcal. The service life is 38 years (3 12-year cycles with repairs in between). Floating NPPs are good for remote regions where it is economically inexpedient to build power transmission lines, deliver organic fuel or build big NPPs.
    The construction of the first such plant was started in Severodvonsk. In the summer 2008 the construction was transferred to Baltiyskiy Zavod in St.Petersburg. The reactors for the plant are being designed by Afrikantov OKBM. The first plants will be stationed in Pevek (Chukotka) and Viluchinsk (Kamchatka). The first NPP is to be launched in 2011. Presently, Energoatom Concern are working on new generation of floating NPPs with a capacity of 300-400MW.
    NPP-2006 project ?" experts say that it will be an evolutionary step in the history of Russia?Ts nuclear industry. The goal of the project is economic efficiency and guaranteed safety. NPP-2006 is based on the best national experience of reactor building. It combines active and passive safety systems based on innovative technologies. The core of the project is WWER-1000 (water-water energy reactor, pressurized water reactor, 1000 MW), which has been successfully operated for two decades in Russia, Ukraine and some other countries. The new technical solutions applied under this project are supposed to enhance the efficiency and capacity of the reactor. The electric capacity of this reactor is 1150MW, which means that it will be able to produce 15% more energy than WWWER-1000, the service life is 50 years. The new reactors will be built at Novovoronezh NPP-2 and Leningrad NPP-2. The first NPP-2006 reactor is to be launched in 2012.
    NPP-2006
    NPP-2006 is a model project of Russian nuclear power plant of new generation "3+" with improved technical-economic parameters. The goal is to attain enhanced safety and efficiency with optimized capital investments. The capacity of the reactor is 1150MW (with possibility of raise to 1200MW), the capacity factor is 92%, the period between refuelings is 24 months.
    In terms of safety, the project complies with all national scientific-technical criteria and IAEA recommendations. The key peculiarity of the project is use of passive safety systems in ad***ion to tra***ional active systems. The reactor can stand strong earthquake, tsunami, hurricane, falling plane. The key improvements are double containment, trap for melted core, passive afterheat removal system. The project is based on WWER-type reactor, which has long proved its efficiency and safety.
    Several working groups are taking part in the project: representatives of Gidropress, Afrikantov OKBM, Kurchatov Institute, Energoatom Concern, Atomstroyexpiort, Moscow, St.Petersburg and Nizhniy Novgorod Atomenergoproekts, VNIIAES. They are applying the best practices and solutions of the previous projects (NPP U-87, NPP-91, NPP-92, U-87/92), Tianwan NPP (China) and Kudankulam NPP (India).
    The project is already underway: Novovoronezh NPP-2 (general designer is Atomenergoproekt Moscow) and Leningrad NPP-2 (general designer is Atomenergoproekt St.Petersburg). Competitive approach is supposed to produce optimal solutions.
    Các bạn xem về mô hình AES-92



  8. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Sau AES-2006 nga tiến tới AES-2006M và Super VVER.... các bạn xem báo Nga nói về AES-2006 đang xây
    http://www.pravda-nn.ru/archive/number:649/article:10322/
  9. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Bây giờ các tổ máy điện nguyên tử mới xây ở nga và nước ngoài do nga giúp đều đồng ý xây theo AES-2006.sau đây là so sánh AES-2006 ở Trung Quốc và Ấn Độ
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đúng rồi.
    Phần điện tử cuả lò thì cũng như phần điện tử của cái máy tiện, lớp trên cùng, interface thì không quan trọng. Tầu có muốn cũng chả được. Về mô phỏng hoạt động lò thì công khai, lò nào cũng thế, đó là bắt buộc, vậy nên phần interface người-máy của SVBU thật ra là công khai. Còn phần "người máy" dưới đó thì không, mà cũng cần giữ cái đó thôi. Các viện nghiên cứu Nga cũng không thể một mình thằng nào cho được, vì mỗi thằng chỉ thiết kế một góc IC. Mô phỏng hoạt động lò ví như cái IVV-9, dó là loại lò nghiên cứu chỉ có mỗi một cái được chế tạo, chính là cái Dà Lạt. Tận dụng thùng nhôm, kênh neutron và gương phản xạ than chì cũ, IVV9 lắp cái lõi mới có 1 phần gương là Be vào trong, vừa lắp vừa đo neutron để xác định con số chưa từng được thử nghiệm cho loại lò chỉ có 1 cái duy nhất, chính là ngưỡng tới hạn.
    Việc tầu nhái VVER có được hay không ? chả khác gì nhái PWR của TMI thành CPR cả. Có điều, có hai mặt rất nguy hiểm. Một là các kỹ thật nó dùng chưa được chứng minh và chắc chắn sẽ bớt xén, ví như không thể kiểm chứng các sản phẩm đơn chiếc hay số lượng nhỏ.... về ứng suất hàn-đúc trong phôi lớn, đừng nói là những thứ ghê hơn như nhiên liệu hay điều khiển. Hai là, nó chưa có những thứ dự phòng, như bom Bo ném xuống Cher chẳng hạn. Và Tầu chắc chắn không nghĩ đến chiện nhái VVER, chỉ tranh những mặt nó làm được như một số gia công cơ khí, điện tử, đổ bê tông.... đơn giản vì những khâu như làm giầu chẳng hạn, nó không làm rẻ được hơn Nga.
    http://www-ns.iaea.org/downloads/rw/projects/r2d2/workshop2/national-reports/vietnam/Vietnam.pdf
    Còn dưới đó, thì Đức Nhật Pháp nào dám động vào đồ Nga. Thứ nhất là hoạt động của lò nhiều cái người tây không hiểu, muốn hiểu lại cãi nhau vài trăm năm nữa chủ yếu là ai đúng hơn, mà đúng theo Pháp là sang, rất nhảm nhí. Rồi những đoạn Nga giữ tuyệt mật, không chỉ người Nga với nước ngoài, mà những viện nghiên cứu cũng muốn giữ tuyệt mật các phần của riêng mình trong các mạch họ làm. Và cuối cùng, dù có cho cũng thằng nèo dám động vào đấy, nổ lò chết cả đám. Vậy nên cái lão thất nghiệp lang thang Ts Trần Đại Phúc quảng cáo cho "hệ thống điều khiển Areva" và hét sức ngu si nhảm nhí. Cái chính chúng ta bàn là, tại sao những ngu si nhảm nhí đến như thế nhưng khối quan chức và cơ quan khoa học nhà ta mời hắn đến, dân Vịt đã ngu si như thế rùi seo, ít ra có tớ không muốn dân Vịt nhục nhã vì teo não đến thế.
    Một lão thất nghiệp lang thang, la liếm những điều ngu đến mức không vào đầu nổi một HS tốt nghiệp phổ thông, như "hệ thống điều khiển do Areva chế tạo".... được rất nhiều quan chức và cơ quan Vịt trịnh trọng mời đến liếm mút
    http://www.vietnamplus.vn/Home/Chia-se-kinh-nghiem-dao-tao-nhan-luc-dien-hat-nhan/200912/27723.vnplus
    http://ineep.hut.edu.vn/index.php/vi/tin-tuc-hat-nhan/tin-trong-nuoc/92-bo-truong-hoang-van-phong-tiep-tien-sy-tran-dai-phuc
    Cái Interface chỉ phục vụ giao diện, lưu trữ, truyền đi.... và các vấn đề luật pháp, có thể mua bất cứ loại máy tính nào. Người Nga đã sản xuất card hard ware, frirm ware, API, và cả soft ware cho những máy tính thông dụng. Thật ra, việc mượn danh Sienens để lấy tiêu chuẩn EU và lấn sân thị trường Tây Âu là vì thế. Bác Siemens được cung cấp các API cả hard và soft, bác thích chọn loại máy nèo thì bác đặt hàng, bác thuê Phần Lan làm chân tay về điện tử, ví dụ lắp đặt các máy tính, chế tạo bàn điều khiển, chế tạo lắp đặt bảng hiện hình khổ lớn..... Quá dễ để giao tiếp với ASU-TP, ví dụ, ASU-TP đã có sẵn các hộp convert mạng ra các tiêu chuẩn thông dụng, kể cả ethernet, đủ API, chỉ cần viết soft, đặt hàng mua PC, workstation, server, UPS, modem... với vài cái lioa là có tiêu chuẩn EU, dĩ nhiên là cái cần nhất là license của tiêu chuẩn đó.
    Thế Areva làm j` ? đến cái lò của chính nó là EPR với PWR, BWR.... mà còn thuê Rosaton và Skoda JS (công ty cũ của điện hạt nhân Đông Âu, tham gia làm RBMK và VVER). Thật ra, Areva làm sao có thể động vào cán thanh điều khiển, vì đó là license Rosatom và dù Rosatom có cấp license thì Areva cũng không dám làm và làm không cạnh tranh. Làm không cạnh tranh vì Areva do đầm khô Anne lãnh đạo, lâu ngày quen õng ẹo son phấn bán hàng bằng....xyz rùi, động vào cắt gọt một chút là ruồi đậu mũi không đuổi. Không dám làm vì người ta đã thử nghiệm công nghệ lâu đời, mấy chục năm sau nổ lò chết oan à. Không làm vì cái đó cũng đang giá mấy đâu.
    Cán thanh điều khiển VVER, sensor neutron được chế tạo trọn bộ ở Skoda JS như link đã dẫn. Skoda có license hoàn chỉnh của phiên bản xuất khẩu VVER-440 và nó có riêng phiên bản lắp lẫn đồ Nga VVER-1000, nhưng hệ thống điều khiển về cơ bản là Skoda JS không phát triển nữa. Areva là gì ? mỗi trách nhiệm ưỡn ẹo đứng bán lò, Interface tiêu chuẩn EU và IAEA đơn giản chỉ là các báo cáo và đường truyền về các mạng của hai hệ thống này, hết.
    Ts Trần Đại Phúc rao bán "hệ thống điều khiển do Areva chế tạo", ngu si nhảm nhí như thế, nhưng , ít ra, lão thất nghiệp lang thang này vẫn bán được lời sủa của lão, bán vào những chố rất sang, thế mới nhục cho những người biết tiếng Vịt.
    Đây là cán thanh điều khiển VVER-440 mà Skoda JS làm, được Skoda phát triển thành một phiên bản VVER-1000 của riêng-vẫn lắp lẫn dồ Nga, nhưng không bán được. Đương nhiên là hồi này Skoda cũng lụt việc vì Areva và Westinghowse thuê làm lõi lò rút ruột thay cũ cũng như mới, nên nó cũng chả cần đầu tư mặt thầu khoán tổng thành vô vọng ấy.
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-vver-and-rbmk-nuclear-power-plants/control-rod-drive-mechanisms.shtml
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-vver-and-rbmk-nuclear-power-plants/index.shtml
    Phần điện tử lò thì đương nhiên chẳng thằng nào dám động đến qua lớp da. Mình vẫn nói Areva bán cán thanh điều khiển là nói ngắn cho vui, thật ra, cái tối đa mà Areva tham gia làm là bàn để máy tính, còn trên Areva, phần điện tử thô của dự án Phần Lan, phần Interface là Phần Lan làm, còn thiết kế (viết soft và đặt hàng mua máy tính), là Siemens. Cái giá trị của tiêu chuẩn EU chỉ là các báo cáo theo format của họ và dùng đường truyền của họ, khi thâm nhập thị trường của họ thì đường nhiên phải theo, và cách theo nhanh nhất là VVER mua sẵn, Areva chỉ son phấn đứng đường bán hàng thị trường của chính mình. Thật ra, cái interface ấy không hề làm lò tăng giảm tính an toàn tí teo, nó chỉ là báo cáo và đường truyền, Phàn Lan cũng không chuyên làm, nhưng do Siemens mới đội mồ sống dậy, không có lực lượng sản xuất và tổ chức lực lượng ấy ở nước Đức lương cao là khá nặng nề, nên đi thuê. Chính vì thế, nhà máy Kaliningrad và Leningrad chỉ còn dùng vi mạch (IC) của Siemens, mọi thứ Nga nó làm lấy theo trao đổi license. Tại sao Kaliningrad và Leningrad lại thế, vì chúng xuất khẩu điện vào EU, thậm chí Kaliningrad được làm cho chuyên mục tiêu đó, Nga dể 40% vốn-cổ phiếu cho EU. Có bọn Bò nói sai, IC đó không còn liên quan gì đến Areva nữa, Areva có thị trường, son phấn mà đứng đường, chỗ này thì cấm hành nghề.... ấy.
    IC thì hiện nay các nước sản xuất như nhau. Interface, tức cái tiêu chuẩn EU trong điện tử, là máy tính thường, nên IC thường, có thể hiểu ở đây là các converter, modem, switch, và máy tính Siemens. Còn lõi ASU thì cũng như ngành hạt nhân của các nước khác, là loại IC đặc biệt , thô và rất tin cậy, được giữ tuyệt mật, do nhiều hãng Nga thiết kế, mỗi hãng một phần. Thiết kế logic thì riêng, nhưng thể hiện vật lý trên silic và đóng vỏ thì chung, các máy đó giống nhau trên thị trường thế giới.
    "hệ thống điện tử do Areva chế tạo" là gì
    Thật là ngớ ngẩn khi nói người Nga dùng não Tây. Xe tăng máy bay Nga có thể mua một vài sensor, IC, CPU, ram.... nhưng không thể là não tây, chỉ là đeo kính cận Tây, lắp răng giả Tây cho hợp thời trang tây, hay đeo găng tây để bắn đạn tây-&gt; xuất khẩu cho những nước có dùng đạn Tây như Ấn Độ.
    Hồi Gấu ngủ đông , thì các lò ĐÔng ÂU vẫn phải thay phụ tùng, nhiên liệu, và vào EU. Lúc dó, nhiên liệu thì Westinghowse và Areva bán bạn SSX đã đăng kết quả rồi, hầu như lần nào cũng có nứt vỡ nhiễm xạ nặng. CÒn phụ tùng , trong đó có máy tính, điện tử, cán thanh điều khiển và sensor neutron (neutron flux measurement channel), đều do Areva và Westinghowse thuê Skoda JS, một công ty của Slovakia.... làm, kể cả các chi tiết lõi lò. Phần điện tử, hầu hết các loại sensor, và chính cái thân thanh điều khiển thì phải về Nga. Đổi lại, Areva và Westinghowse mất nhiều hơn khi Skoda chiếm và giữ cho đến nay thế độc quyền gia công cùi lò cho họ, bán lại gia công lõi cho Rostatom, tất nhiên câu này không nói VVER và RBMK truyền thống Đông Âu, mà các lò do Pháp Mỹ thiết kế. Areva còn làm được mỗi cái vỏ thùng, mà rồi cũng bị Siemens đá đít nốt.
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-pwr-and-bwr-nuclear-power-plants/index.shtml
    Vì các dự án trọn gói hay từng phần , từ nạp nhiên liệu đến bảo trì ngắn, bảo trì lớn.... đều do Westinghowse và Areva tung hoành ở Đông Âu trong thời gian Gấu ngủ đông, nên mới sinh ra cái "hệ thống điều khiển do Areva chế tạo". Bên Tầu cũng vậy, do Mỹ Nga đều cấm vận công nghệ cao nên Nhật Pháp độc quyền, thông qua Areva, Framatom và Westinghowse Nhật. CHính vì thế, khi VVER mới nhảy vào thì Tầu đã chọn phương án con lai biến dị này.
    Mình nhắc lại là, cái phần tiêu chuẩn điện tử EU và IAEA này chỉ là đường truyền mà bọn họ bán với format các báo cáo, chấm hết. Giá nó rất đắt, đắt ở license, và chỉ có giá trị trong EU. Nó không làm lò tốt hơn hay tồi đi, chỉ là điều bắt buộc ở EU vì luạt EU như thế. CÒn việc VVER giảm chút an toàn do cái "bắt giữ lõi lò chảy" cũng là tiêu chuẩn EU nhưng không phải là điện tử, nó làm giảm chút tính an toàn của VVER, chúng ta quay lại sau.
    Còn 4 lò Điền Loan đầu tiên của Tầu dùng AES-91 do AES-92 chưa có phiên bản lai căng này, do đó, quyết định này của Tầu đã tự lột mất khả năng phòng chống thụ động việc máy tính hay con người cố ý rút ra quá nhiều điều khiển, gây nổ như SL-1 năm 1961 ở Ihado hay là Chernobyl. Đây là thể hiện cái chế độ vô vương vô pháp, trăm hoa đua nở, ai cũng có phần như cái chuồng lợn bên tầu. Đây cũng là đặc sản biến dị quái thai không ai có, rất độc đáo. Sau này, khi AES tiến thành NPP 2006 dành riêng cho EU có lai, nhưng Siemens giữ license và Nga làm, như 4 lò Thổ Nhĩ Kỳ, và cũng chỉ dành riêng cho thị trường EU, đây là vẫn đề luật pháp bắt buộc.
    ASU-TP AES có yêu cầu cao hơn nhiều tất cả các phần khác của thế giới, bất kể là Nhật Mỹ Pháp, EU hay IAEA, ở đoạn này chỉ nói đến báo cáo. Thứ nhất, Gấu cũng như Nhật không thể chấp nhận kiểu rò 25 galloon mỗi phút (110 lít), cành không thể chấp nhận nước lõi đó gần như luôn luôn nhiễm xạ nặng, kể cả lò nước sôi không pha phách, do hầu như lần nào cũng có thanh nhiên liệu nứt vỡ phòi bã ra. Gấu hơn Nhật ở chỗ bắt buộc các hãng lò đều báo cáo chi tiết một cách tự động, không chỉ trị đo các sensor phóng xạ trong nhà lò, mà cả các kết quả bảo trì, kiểm tra, đánh giá đến từng thanh nhiên liệu, và cả nước ngầm. Gấu kiểm tra nước ngầm qua nhà máy diện rộng, chi tiết, bằng các lỗ khoan thường trực chứ không như Mèo chỉ có vấn đề mới khoan.
    Chúng ta biết rằng, Nhật đến cả Gen III cũng không dám báo cáo như Gen III+. Pháp Nhật Mỹ đều không dám đặt tiêu chuẩn đúng và báo cáo các lò PWR và BWR cũ. Cái này để thừa kế ưu thế của TMI, tức chỉ bị trị tội huỷ tài liệu mà thôi. Ví dụ, các lần dâng phóng xạ, thậm chí đến 3900 lần ở bãi biển Normandie hay toàn châu Âu tăng 10 lần, thì đến nay hoàn toàn không có giải thích. Còn với việc lần nào cũng xuất hiện nứt vỡ phòi bã, thì chắc chắn các lò nước sôi xả đều đều.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 19:12 ngày 29/06/2010

Chia sẻ trang này