1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Công nghệ nhà máy điện hạt nhân Việt Nam (sắp xây dựng) và tính toán dài lâu cho nền quốc phòng quốc

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vannienthanh, 19/09/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. SSX109

    SSX109 Guest

    AP-1000 - thế đứng một chân trong những sắc màu Trung Hoa
    Như ta biết, Westinghouse đã chen chân vào thị trường Trung Quốc bằng 4 lò AP-1000 từ năm 2006. Bước tiến đầu tiên đã mang lại thất vọng đầu tiên. Niềm hăng hái mê say khi nói về viển cảnh bán cho Trung Quốc 100 lò AP-1000 giờ đã biến thành lời kể khiêm nhường về tình bạn 10 năm. Giá cả AP-1000 đã tăng cao hơn nhiều dự tính từ những tờ rơi quảng cáo, còn nỗ lực để hoàn thành đúng tiến độ ngay cả trong điều kiện của China đã phải trả giá bằng những sinh mạng đầu tiên.
    China wants 100 Westinghouse AP1000 operating or under construction by 2020
    http://nextbigfuture.com/2008/07/china-wants-100-westinghouse-ap1000.html
    4 lò AP-1000 đã ký với Trung Quốc được xây ở phía nam, 2 tại nhà máy Sanmen thuộc tỉnh Zhejiang và 2 tại nhà máy Hayan tỉnh Shandong. 3 lò đã được chính thức khởi công.
    [​IMG]
    Ngay sau tuyên bố Trung Quốc chọn Westinghouse, niềm lạc quan đã lan toả ở cả 2 phía. Các ngôn từ to tát rằng AP-1000 sẽ trở thành nòng cốt điện hạt nhân Trung Quốc, rằng từ nay đến 2020, sẽ xây 100 lò AP, như Eris Kandris lãnh đạo cấp cao Westinghouse tuyên bố trên báo Pittsburgh. Năm 2008, thậm chí kế hoạch xây 12-16 lò đã được bàn, 3 địa điểm xây nhà máy đã được chọn.
    Người khó chịu với tuyên bố này dĩ nhiên là EU và Pháp, họ cảnh báo đối tác Trung Quốc rằng việc dựa dẫm quá đáng vào Westinghouse sẽ dẫn đến rắc rối. Một chính khách cấp cao EU phát biểu trên tờ Forbes năm 2007: ?oCông nghệ AP-1000 không được dùng ngay cả ở Mỹ. Tôi đơn giản là không hiểu tại sao Trung Quốc lại liều lĩnh. Tôi cho rằng, lựa chọn công nghệ Mỹ này có những nguyên do chính trị.? Nhưng ở EU, theo một lẽ tự nhiên, chẳng mấy ai để ý vấn đề này, ít nhất là khi, AP-1000 Trung Quốc vẫn còn chưa chạy.
    Có thể là EU dèm pha ganh tỵ, nhưng ít nhất thì họ cũng nói đúng. Lò 1 của Sanmen đã chậm tiến độ 2 năm, còn giá thì đội 50%. Tuy nhiên phía Trung Quốc đã giấu kín tất cả các thông tin, những gì lọt ra ngoài là từ báo giới Trung Quốc khai thác từ các nhân công trên công trường. Rắc rối đến ngay từ ngày khởi công không phải là tình cờ, nó là cả chủ quan và khách quan. Các kỹ sư Mỹ tham gia vào dự án thừa nhận, rất nhiều giải pháp kỹ thuật trong dự án AP-1000 chứng tỏ vô tác dụng, và chỉ có sự ?othân mật? với các giám sát người Trung Quốc mới cứu vãn được thanh danh của dự án khỏi những cuộc tranh cãi công khai rất khó chịu.
    Thêm vào nữa là nguyên nhân khách quan, Đối với người Mỹ, tổ máy 1 Sanmen cũng là tổ máy đầu tiên họ xây sau hàng chục năm. Thiếu kinh nghiệm thực tế và vấn đề chuyên môn của con người không đáp ứng được công việc đã tạo ra sự hỗn loạn ngay từ đầu.
    Các tài liệu thiết kế và tiêu chuẩn của AP-1000 cuối cùng hoá ra là không được chuẩn bị sẵn, lại thường xuyên phải thay đổi và sửa chữa. Mỗi lần như thế lại tốn kém tiền bạc và thời gian. Còn tiền thì, phải nói thẳng là kẻ dẫn lối đưa đường được tôn thờ của các nhà quản lý hạt nhân Trung Quốc.
    Và bây giờ, người Trung Quốc phải đối mặt với sự lựa chọn khó khăn: hoặc là trả thêm nhiều và nhiều tiền để sửa chữa và đẩy dự án tiến lên phía trước, hoặc là làm ngơ trước tất cả các vấn đề mới nảy sinh về hiệu quả, về chất lượng công việc, về an toàn của mỗi bộ phận trong hệ thống.
    Báo cáo lên cấp cao ở Bắc Kinh năm 2009 thì toàn quả quyết vui mừng phấn khởi rằng mọi thứ ở Sanmen thật hoàn hảo. Nhưng sự thật bị che đậy cuối cùng đã lộ ra. Một số lãnh đạo đảng và CP Trung Quốc đã cho phát hành các tài liệu mà trong đó có các đánh giá như sau: Thời hạn hoàn thành tổ máy Sanmen-1 đã bị lùi 2 năm. Giá của 2 tổ máy thay vì là 40 tỷ yuan đã đội lên 60 tỷ yuan (từ $5,9 tỷ lên $8,85 tỷ theo thời giá hiện nay) hay tăng từ $3000 lên $3500 mỗi KW, tính như thế là đã bao gồm giá nhân công Trung Quốc rẻ hơn nhiều ở EU.
    Tình cảnh ở nhà máy thứ 2, Hayan thậm chí còn bi đát hơn. Tổ máy đầu tiên đang phải vật lộn để kịp tiến độ đã đề ra, nhà thầu Trung Quốc tham gia vào xây dựng thì từ chối không chịu tuân thủ sự giám sát an toàn.
    Hậu quả đến liền, 8 ngày sau lễ khởi công hoành tráng, một dàn gỗ đổ sập làm chết 5 người, 21 người bị thương nặng. Ở Hayan cứ lặp lại như bị tẩy não rằng công việc đang trong tiến độ, cùng những hứa hẹn làm mọi thứ có thể để không ai bị chết. Nhưng việc tuân thủ tiến độ và dự toán hoá ra lại luôn trong tình trạng mà không thể tái diễn ở EU hay nhìn chung những quốc gia có hiệp hội nghề nghiệp lành mạnh.
    Lương công nhân xây dựng Trung Quốc ở Hayan-1 khoảng $300/tháng. Không có ngày nghỉ cuối tuần. Các viên quản lý tiết kiệm mọi thứ, kể cả đi lại của công nhân, phần lớn công nhân đi bộ đến chỗ làm. Còn điều kiện sống của họ thì, không có gì để mà nói.
    Dường như, Bắc Kinh bắt đầu thấy rõ, họ chọn công nghệ Mỹ là không hề hiệu quả, thậm chí là rủi ro và mang mầu sắc chính trị với nhiều dấu hiệu rõ ràng của những cuộc vận động hành lang.
    Thế đứng một chân của Westinghouse khiến kỳ vọng 100 lò AP-1000 tại Trung Quốc chẳng còn thấy đâu nữa. Ngay lập tức, viễn cảnh sáng láng bị giáng xuống thành hứa hẹn 16 và đúng hơn là 12 lò cùng cái giá phải trả là chuyển giao công nghệ rất sâu, thứ mà Westinghouse đã phải nhượng bộ khi vào thầu. Công ty Trung Quốc SNTPC đã giành ưu thế kỹ thuật từ AP-1000 và nhanh chóng hình thành CAP-1400 (nén lò) và tiếp theo là CAP-1700 với hy vọng tăng công suất trên cùng một mức đầu tư.
    Các dấu hiệu cho thấy, Trung Quốc sau khi không thành công với mối tình Westinghouse, sẽ quay lại với chính sách đã từng áp dụng trong thực tế trước kia mang tên ?otrăm hoa đua nở?, họ sẽ quay lại với người Pháp và tiếp tục cộng tác với người Nga giai đoạn 2 nhà máy Điền Loan và xây dựng lò neutron nhanh.
    Cuộc vạn lý trường trinh vĩ đại AP-1000 tại Trung Quốc để lại cho người ta những bài học. Chủ nhân công nghệ của một thế hệ hạt nhân mới, phải luôn luôn khôn ngoan và lường trước những rủi ro, phân tích đánh giá và thu nhận những kinh nghiệm thực tiễn công nghệ mà các nhà cung cấp khác nhau giới thiệu. Sẽ là ngạc nhiên, nếu người Trung Quốc đã quên bài học năm 2007. Nhưng sẽ chẳng có gì ngạc nhiên, khi họ nhớ ngày hôm nay, sau một năm làm việc cùng nhau với công nghệ Mỹ.
    http://www.atominfo.ru/news2/b0342.htm
    Được SSX109 sửa chữa / chuyển vào 01:02 ngày 01/07/2010
  2. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Bác có nói đến Super VVER. Đây là chương trình bắt đầu tuyên bố công khai chính thức từ 1995. Hiện nay đã có thiết kế 640 MW được bảo vệ, công trường đầu tiên dự kiến-nếu như chương trình còn tiếp tục, là sau 2020. Nhưng theo em, điều này khá phi thực tế và chương trình coi như đã chết trong thời gian thiếu tiền quá dài.
    ----------------------------------
    lại một mảng khoa học thông tin dài đấy-Super VVER đã xong về luận chứng khoa học kỹ thuật từ 4/2010 và sẽ làm vào 2016 và đưa vào sử dụng 2020/2021..nó chính là AES-2010 với nhiều kiểu lò phản ứng VVR-SKD...thế hệ 4 khác nhau và làm theo kiểu Mô đun để lắp đặt nhanh hơn và dùng ít nguyên liệu hơn nhiều theo chu trình khép kín và cũng tối ưu và an toàn hơn với công nghệ IT hiện đại theo ngôn ngữ bây giờ.Mình cũng có thể rỗi làm một chút về AES-2010 Super VVER
  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Tin này được các bồi lưỡi bồi mõm nhiệt tình tung hố mấy năm trước, tất nhiên với não ngu si. Ngu si đến mức la liếm "Trung Hoa Vĩ Đại xây dựng lò phản ứng hạt nhân thế hệ III đầu tiên của thế giới", sau công trường Phần Lan đã khởi công EPR 2005. La liếm Tầu Khựa đến mức ngu si như thế có lẽ chỉ có ở Vịt, có lẽ Tầu cũng ngượng mồm khi nói về mình như thế, không ngờ giống Vịt ngu thật.
    http://www.toquoc.gov.vn/Thongtin/Bien-Doi-Quanh-Ta/Trung-Quoc-Xay-Lo-Phan-Ung-Dien-Hat-Nhan-The-He-Ba.html
    http://www.varans.gov.vn/ShowItems.asp?actType=23&ItemID=2623&TypeGrp=1&menuid=103120&menulink=100000&menuup=103000
    Chúng ta đã tiên đoán số phận của đám này rồi. Bản thân toàn bộ nhóm Gen III+ đầu tiên, bao gồm EPR, AP-1000, OPR đều là lừa đảo để đội mồ sống lại sau cái chết tức tưởi TMI 30 năm. Lò của những người đã không xây lò 30 năm !!! và Westinghowse đăng ký lò này (2005) chưa được lâu thì phá sản, bị Toshiba thôn tính, Toshiba thôn tính Westinghowse đương nhiên là để Mỹ Chinh, và bán vội cái phế phảm lỗ vốn này càng nhanh càng tốt.
    Về mặt kỹ thuật, toàn bộ đám này không khác gì TMI, trừ phần điện tử đương nhiên phải hiện đại hoá sau 30 năm cách mạng điện tử. Cái ăn cắp lớn nhất của chúng là nén mật độ công suất lại gấp rưới TMI=nén mật độ nguy hiểm, và đương nhiên là càng ngày càng nguy hiểm với loss of coolant accident = cái lỗi đã làm nổ TMI. Giải pháp cho điều này không khó, VVER đã mang ngay từ thủa sơ khai 196x, nhưng càng ngày càng bớt xén. Bớt xén đến cả nhập 3 hệ thống dừng (điều khiển, dừng khẩn và khoá lò) vào làm 1, ANh và Ca cấm cửa, Phần Lan tố lừa đảo, đến 2007 thì cả anh em một nhà EDF cũng tố EPR lừa đâo.
    Về mặt giá thành, lò cùng AP-1000 với EPR, OPR nhập khẩu vào Tầu thời giá dầu lên đến $140 đánh quỵ nước Mỹ, nước Tầu đói điện triền miên, VVER Điền Loan không thể tăng vọt công suất chế tạo và xây dựng-bản tính lừ đừ có kế hoạch nhà Gấu. Trong khi đó, các hệ lò lừa đảo này dễ dàng chấp nhận những kiểu xây dựng khủng khiếp, thậm chí Westinghowse và Areva thuê những nhà máy cũ của điện hạt nhân Đông Âu làm lõi làm cùi.
    http://www.tuanvietnam.net/2009-11-12-cau-tha-nguyen-tu-
    http://www.skoda-js.cz/en/products-and-services/equipment-for-the-type-pwr-and-bwr-nuclear-power-plants/pwr-and-bwr-reactor-internal-parts.shtml
    Sau khi về Toshiba, thì chi nhánh Westinghowse châu Âu tách rời, AP-1000 phần lớn được chế tạo ở Nhật. Nhưng cái khâu trả giá cho khoa học lõi=license và sản phẩm thực tế của nhiên liệu, điều khiển... vẫn là cái tim chung, khối quân sự Mỹ. Ôm cái thây ma đội mồ sống lại sau 30 năm, vừa phá sản.... mà không có vẫn đề gì mới là.... ma.
    Trong số những lò lừa đảo trên, Westinghowse AP-1000 dược bảo vệ khoa học chu đáo nhất, ít những đặc điểm lừa đảo lớn và sử dụng kỹ thuật gia công kim loại tin cậy của Nhật Bản. Tuy vậy, giá của nó không vững vàng, và vì vẫn bám vào cái lõi khoa học hạt nhân kiểu mafia bên Mỹ, nên giá nó tăng thất thường là chuyện dễ hiểu. Thêm nữa, ngay sau khi Tầu kỹ cái này, thì ANh Quốc, EU, và chính anh em một nhà EDF, Phần Lan... tố Gen III lừa đảo, Anh Quốc cũng cấm cửa luôn AP-1000 cùng EPR đến 2015. Tiếp sau Anh Quốc là Canada. Sau đợt kiện này, EPR bị đình lại ở Phần Lan, rồi nứt mối hàn, và giá tăng vọt. AP-1000 cũng vậy. Hai vở kịch y hệt như nhau, đều mang tính bẫy cò ke. Nhưng thật ra, Phần Lan là do một số nước EU đầu tư để bán điện cho Thuỵ Điển, nơi không xin được phép xây lò mới, còn AP-1000 thì Tầu Khựa lãnh đủ.
    Liệu nó có sang vả bồi lưới bồi mõm Vịt không nhể ? có khi do la liếm mà đen ra thế.
    ====================
    Báo chí vừa đăng tin mới. Nhà máy điện hạt nhân nổi vừa được hạ thuỷ. Akademik Lomonosov = Viện Sỹ Mikhail Lomonosov.
    http://en.rian.ru/analysis/20070417/63813162.html
    http://www.nuclear.com/n-plants/index-Floating_N-plants.html
    http://en.portnews.ru/news/22977/
    http://www.sikunews.com/News/Russia/7758
    http://dantri.com.vn/c36/s36-406076/muc-kich-tram-dien-hat-nhan-noi-dau-tien-cua-the-gioi.htm
    Thế là giấc mơ hoang "Modul NPP" như HT-9 đã thành sự thật. Thật ra, Floating NPP Akademik Lomonosov chưa thành công hoàn toàn. Sau một thời gian dài thiếu tiền nghiên cứu, người Nga đã chọn phương án lò cũ KLT-40S dùng cho tầu phá băng. Đây là loại lò VVER như truyền thống, kích thước nhỏ, mật độ làm giầu rất cao HEU, sau khi ký các hiệp định về HEU dân xự với Mèo, thì lò chuyển sang dùng LEU dưới 20%. Cấu tạo lò không khác gì nhiều so với các VVER to, nó có 4 nồi hơi, 4 bơm vòng 1 và cũng có các phương án tình huống thụ động làm mát. Cái khác biệt là nó dùng nồi hơi đứng cho gọn.
    Người Nga vội vàng vì có đơn đặt hàng tới tấp. Cái số 1 hoặc số 2 sẽ phục vụ ở Tầu, hợp đồng ký 2005 và liều sau đó khởi công.
    http://www.nuclear.com/n-plants/index-Floating_N-plants.html
    Thật ra, báo chí đăng Floating NPP is finished
    http://www.sikunews.com/News/Russia/7758
    Là không đúng. Đây chỉ là hạ thuỷ, trạm diện dự tính hoạt động 2012 và finished vào 2011.
    http://www.maritime-connector.com/NewsDetails/8670/lang/English/Floating-NPP-to-be-set-afloat.wshtml
    Xem lại những dự kiến này
    https://energy.wesrch.com/User_images/Pdf/7TE_1215930225.pdf
    http://www.computare.org/Support%20documents/Guests/Computare%20PDF%20Western%20Focus%20Seminar/Presentations/WF3/5%20-%20Veshnyakov%20Shipbuilding%2009_06_02.pdf
    http://www.iaea.org/NuclearPower/Downloads/SMR/CRPI25001/2007_new/YR2dedul.pdf
    Như vậy, sử dụng KLT-40S chỉ là một bước đệm khẩn cấp theo nhu cầu xuất khẩu. Theo kế hoạch, thì lò đầu tiên sẽ phục vụ ở Bắc Băng Dương, lò 2 hoặc 3 sẽ cho Tầu-> rất có thể thứ tự lộn lại. Đơn đặt hàng kiểu này trên thế giới có rất nhiều, nhưng Lomonosov dùng KLT-40S không đáp ứng được nhiều vị trí. Nếu như nói sơ qua về Lomonosov , thì nó có 2 lò, có các tác dụng phá bù hoặc cung cấp chính, công suất điện mỗi lò 40-70MW (tăng vọt lên khi phát bù các nhà máy khác tạm dừng). Lò có khả năng cung cấp nhiệt hoặc tách muối làm nước ngọt. Tuy chưa đạt được việc thay đảo lâu, thay đảo ở nhà, đóng kín hoàn toàn.... nhưng đã đáp ứng được đầy đủ các tính năng về năng lượng. Nó ra đời vội vàng cũng dễ hiểu, quá đông khách. Chúng ta có thể tưởng tượng ra việc phát điện cho các thị trấn nhỏ của Bắc Băng Dương-Nam Cực xa xôi, các hòn đảo du lịch nổi tiếng giữa đại dương, hay là đảo dân sinh thường như Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ (tất nhiên nếu chúng không ở Vịt Xác), bán hoặc cho thuê các cơ quan cứu hộ động đất sóng thần, cho thuê bù các nhà máy trục trặc bất ngờ, khởi động tiến trình khai hoang như Viễn Đông ..... Mèo thèm lắm, EU cũng thèm cho sân bay vũ trụ Guyana, Nam Phi cũng đặt hàng.... Giá theo công suất lại rẻ, bằng VVER-1000. Giá này rẻ một phần vì lò kiểu cũ rồi, không cần mất công nghiên cứu thử nghiệm và mua rượu thịt cho IAEA.
    Bạn Gà Béo có nói đến liên lạc vệ tinh, các tầu phá băng và lò nổi này sẽ có thể có báo cáo theo hệ thống Nga, EU, IAEA bằng đường này, cũng vẫn dùng điện thoại thường được. Tuy vậy, do thay đảo và dự trữ nhiên liệu ngay trên trạm như VVER to, nên Lomonosov dùng KLT-40S sẽ không bán được rộng như các lò sau. Tuy vậy, các cường quốc đủ sức khinh rẻ IAEA như Tầu, Ấn, EU, Mèo, đến cả Nam Phi.... vẫn thừa đơn hàng, chạy vắt chân lên cổ không kịp. Thật ra với 80M năm 2005, thì những nước chỉ khá hơn Vịt một tẹo sẵn sàng mua cho Bạch Long Vĩ hay Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm... Dạng như Thuỵ Điển muốn xây lò hạt nhân mới ở vùng băng giá thì quá tuyệt, KLT-40S nổi sẽ đến mở đường, phát điện cho công trường.
    KLT-40S là lò nước nhẹ nén bình thường, có tuổi thọ 40 năm, công suất từ cỡ 38MW-70MW. Công suất tổng của nhiệt cỡ 150 MW, mỗi trạm kiểu Lomonosov có 2 lò. Lò đã được dùng từ giữ thập niên 197x nên tin cậy. Nhưng mặt khác, kỹ thuật của nó không có gì mới. Báo dân trí đưa tin lò thay nhiên liệu ở cảng gốc là sai, đó là các lò sau. KLT-40S có chu kỳ thay đảo 3 năm, thực hiện ngay trên NPP nổi, hầm chứa nhiên liệu ngay cạnh lò như trong hình dưới.
    Thật ra, nếu không vội vàng như thế thì có 2 bước tiến về nước nhẹ khác cần được nghiên cứu đầy đủ, rồi sau đó là kim loại nóng chảy-khá đắt. Thật ra, SVBR=chì-bismuth chạy trước KLT-40S ở Lira class, nó có nhiều ưu việt, nhưng đắt. Toàn bộ bước tiến của lò nhỏ cho NPP nổi như thế này. KLT-40S (nước nhẹ nén thường) -> RITM-200 (nước nhẹ nén thay đảo lâu) -> ABV-6M (nước nhẹ sôi đóng kín vòng 1 thay đảo lâu) -> SVBR (kim loại nóng chảy thay đảo lâu). Trong đó, SVBR dự định phục vụ sau 2020.
    RITM-200 (nước nhẹ nén thay đảo lâu)
    nước nhẹ nén thay đảo lâu, thay đảo lâu = INTEGRAL. Tính năng này của SVBR trên Lira class là thứ mà những giấc mơ hoang HT-9 đang tưởng bở. RITM-200 có chu kỳ 8 năm. Vì vẫn là nước nhẹ, nên việc thay đảo lâu mà vẫn không tăng giảm công suất được thực hiện bằng các thanh điều khiển công suất làm giảm khả năng tái sinh rất nhiều. Rất may đối với lò nhỏ điều đó không cần lắm.
    RITM-200 cũng như các lò INTEGRAL khác có tính chất thay đảo ở quê cho an toàn như Dân Trí tưởng bở ( cho Lomonosov dùng KLT-40S ). Người ta cho một NPP nổi ra thay rồi tèn ten chuyển cái cần thay đảo về quê. Điều này tránh được việc thay đảo lưu trữ ở lò nhỏ, mất an ninh như IAEA yêu cầu, và được bán rộng khắp, cỡ hèn như Vịt mua thả cửa miễn có xiền. Việc thay đảo ở quê nhà cho phép dùng máy móc-nhà xưởng-chuyên gia chuyên nghiệp, đắt tiền, điều nan giải với lò nhỏ.
    ABV-6M nước nhẹ sôi đóng kín vòng 1 thay đảo lâu
    Lò này đóng kín hoàn toàn. Đây chính là hình mẫu cho ước mơ "quá tới hạn" Supercritical-Water-Cooled Reactor (SCWR) Gen IV. Thật ra, kiểu ABV có hiệu suất biến đổi nhiệt công thấp do chúng chưa dùng quá tới hạn, nhưng mặt khác, là đóng kín hoàn toàn, thì chúng vượt xa cái dự kiến Gen IV trên, điều này tự nhiên chứng minh cái nhảm nhí của "Gen IV 6 tỷ". Thật ra, SCWR là phương án gọn nhỏ Gấu dự tính cho tầu ngầm, chứ gọn nhỏ cho dân sự như Gen IV là bất hợp lý, vì nước lõi sôi chạy turbine rất bẩn và trong tương lai chắc chắn người ta ngăn không cho phát triển.
    http://nuclear.inl.gov/gen4/scwr.shtml
    http://www.gen-4.org/Technology/systems/scwr.htm
    ABV không sử dụng bơm vòng 1, hoàn toàn đối lưu tự nhiên, nên nó hoàn toàn đóng kín phần hạt nhân và rất khó rò phóng xạ-chỉ khi thủng vỡ. Nước lõi có áp suất 3,2 atm, sôi và quá nhiệt lên 290 độ C, ngưng tụ trong nồi hơi khi làm bay hơi nước sinh công, hoàn toàn đối lưu tự nhiên như lò nấu rượu. Điều này làm giảm nhiệt độ nước sinh công, 3 atm-260 độ C, làm giảm hiệu suất biến đổi nhiệt-công, nhưng rất an toàn.
    Cả ABV và RITM đều dùng chung lõi kỹ thuật hạt nhân , FA, thanh điều khiển.... như KLT-40s và các tầu phá băng khác, vậy nên chúng bớt đi giá thành và đầu tư nghiên cứu thử nghiệm. Các lò này sẽ dược chế tạo trong thập niên tới và sử dụng đến 2060, sau đó nhường chỗ cho SVBR được đóng sau 2020. SVBR cũng là thiết kế cũ, chỉ hiện đại hoá không nhiều, và chậm đi làm chỉ vì quá đắt, nhưng mọi mặt an toàn, tái sinh.... đều tốt vượt bậc. Nó cũng là hình mãu cho 1 trong 6 giấc mơ hoang 6 tỷ.. Phì cười, nhìn các giấc mơ hoang này với cái chương trình trở lại mẹt trăng, khoa học gì mà toàn lừa đảo.
    http://www.gen-4.org/Technology/systems/lfr.htm
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    ============
    Thế hả bác. Em không nghĩ là chương trình này lại tiếp tục được. Super VVER có nhiều loại. Cái ABV-6M nói trên cũng là một trong nhóm đó, nhưng chưa bảo vệ xong. Nhưng nếu khởi công như thế thì chắc phải là 1000 MMW chứ không ophair 640 như thiết kế hiện nay. Bác dịch đi.
    Chương trình lò đóng kín ABV-6M được gọi là Sub-critical. Nhược điểm của lò nước sôi thì chúng ta biết rồi, khi phát điện quy mô lớn, nước lõi đẩy tủbine chạy và nếu như có nứt vỡ, chỉ cần 1 trong số hàng vạn thanh nhiên liệunữt vỡ, thì nó rò ra ngoài không khí và nhiễm xạ diện rộng máy móc. Nước Pháp nước Mỹ mỗi nước hiện có hàng chục triệu mét khối vật liệu nhiễm xạ. đấy là chưa tính cái phần lớn nhất là ra ngoài không khí theo gió bay đi. Nhien lieuj Westinghowse hầu nư làn nào cũng có nứt vỡ, có lần gần hết các FA. Trong tương lai, cũng không thể đảm bảo hàng vạn thanh như thế trong 60 năm, nên việc lấy lò nước sôi phát điện quy mô lớn, bất kể Sub-critical hay Supe-rcritical = chưa tới hạn và quá tới hạn, đều là nhảm nhí viển vông, một hình thức thủ dâm cho những liệt não tự hào ôm thây ma 30 năm.
    Nhưng nếu không là quy mô lớn, thì có nhiều điểm hay. Supercritical đưa nhiệt độ hơn lên, tăng hiệu suất, lại bớt được đoạn máy tách hơi ở cổ lò, thu ngắn lại, thích hợp cho tầu ngầm. Nó có nhiễm xạ thì đóng kín turbine lại, mỗi lần thay đảo thì bảo dưỡng turbine luôn. Supercritical khắc phục hiện tượng bất ổn về phản ứng hạt nhân và truyền nhiệt do bọt của lò nước sôi chưa tới hạn, do nhiệt dung riêng của nước nhẹ xấp xỉ hơi và mật độ hơi bằng lỏng. Cả lò và turbine của tầu chiến đều nhỏ gọn và tổng khối lượng không nhiều, chỉ bằng phần trăm phát điện.
    Chương trình lò đóng kín ABV-6M được gọi là Sub-critical thì lại là không theo hướng hiệu suất nhiệt công và gọn, dùng cho lò tầu dân sự. Mật độ toả nhiệt giảm xuống 3-6 lần so với VVER thường, 5-10 lần so với BN, chỉ 27-45 MW/m3 lõi (BN-600 là 450, BN-800 là 230). Cái hay ở đây là không dùng bơm, cái hại của sự bất ổn giảm đi do giảm mật độ toả nhiệt. Vì không dùng bơm nên vòng 1 hoàn toàn kín.
    Một hướng phát triển lò VVER thành super VVER đơn giản nhất là cải tiến các VVER cũ theo hướng ưu hoá cả cấu trúc máy và phản ứng hạt nhân. Về cấu trúc, lò to hơn theo chiều rộng, do dó, khối lượng không tăng nhiều mà thể tích tăng khá, ví dụ, lò VVER-1200 330 tấn so với VVER-100 320 tấn.
    Về cải thiện phản ứng hạt nhân. Từ năm 1998 bắt đầu nghiên cứu alternative VVER-1000 fuel assembly. aFA có các cạnh cứng vững chắc hơn, thể tích nhiên liệu tăng 20%, do đó, khi tăng mật độ toả nhiệt trên thể tích thì mật độ toả nhiệt trên chiều dài rod thậm chí giảm đi, việc này dự tính từ lâu nhưng còn đợi kiểm nghiệm dần. CÙng một lõi, VVER còn tăng khá mật độ công suất theo thể tích bằng cách làm giầu cao-nén lò, mà vẫn an toàn, do nó đã rộng, có chế độ thay đảo dần ra ngoài-coi như ủ luôn tong lõi lò để tránh sôi nước ngâm ủ như La Haye. Người ta dùng nhiên liệu có làm giầu cao, mật độ toả nhiệt lớn trong lõi, kéo dài chu kỳ thay đảo , vừa tăng công suất, vừa tăng CAPACITY FACTOR (số giờ phát điện hữu dụng-do bớt thời gian thay đảo), Chu kỳ thay đảo tăng từ 1 năm -> 1,5 năm -> 2 năm. Để làm được điều đó, người ta làm giầu khá cao (trên 5%), rồi có những lỗ chứa thanh nhiên liệu nhiều Gd=chất hấp thụ neutron, thanh này tháo lắp điều chỉnh khi thay đảo (có 3 lỗ riêng cắm thanh nhiên liệu chứa Gd). Tất nhiên, việc truyền nhiệt thụ động chống hỏng bơm cũng tăng vọt nhờ các đường toả nhiệt nước vòng 2 từ nồi hơi, tăng thêm khả năng giải nhiệt của gàn nước vỏ trên cao.
    http://www.elemash.ru/en/production/Products/NFCP/VVER1000/
    http://www.nea.fr/mdep/events/conf_sept_2009/conference-presentations/Session%204%20-1-4%20-%20ROSATOM.pdf
    http://www.rosatom.ru/common/img/uploaded/for_PDF-news/Atomexpo/komarov_atomexpo_eng.pdf
    http://sstc.kiev.ua/aer17/presentation/001.ppt
    http://www.nea.fr/mdep/events/conf_sept_2009/conference-presentations/Session%204%20-1-4%20-%20ROSATOM.pdf
    Trong thập niên 200x, khi Gấu mới tỉnh ngủ, thì việc nâng sản lượng điện hạt nhân ở Nga chỉ toàn là áp dụng những cải tiến trên lò cũ, các nghiên cứu này cả hơn chục năm không có tiền thi hành.
    Ví dụ
    CLP blades cho turbine cho 11 lò RBMK đạt công suất tăng 332 MW
    Cải tiến nôi hơi cho VVER và RBMK tăng 142 MW (19 lò)
    Cải tiến bảo dưỡng nồi hơi 4 lò tăng 42MW
    Cải tiến nhiên liệu tăng công suất phát nhiệt RBMK 5% cho 10 ò đạt 500MW
    Cải tiến nhiên liệu tăng công suất phát nhiệt VVER-1000 4% cho 8 ò đạt 320MW
    Cải tiến nhiên liệu tăng công suất phát nhiệt VVER nhỏ (440) 7% cho 2 ò đạt 61MW
    Chuyển chu kỳ thay đảo VVER-1000 từ 12 tháng lên 18 tháng, 8 lò đạt 244 MW
    Chuyển chu kỳ thay đảo RBMK 24 tháng, 11 lò đạt 904 MW
    Cộng lại đã là vài cái VVER-1000 nhể.
    Sang thập niên 201x, thì các cải tiến trên đã hoàn thành (chương trình với VVER đi sau cùng, vừa hoàn thành), và những cải tiến đó bắt đầu áp dụng vào những lò mới. Nhưng phiên bản VVER-1200 chưa được gọi là Super VVER, mà phiên bản hoàn chỉnh có khả năng dùng gốm nitric VVER-1300 mới là Super. Nó có cấu trúc lò vẫn giữ như VVER-1200, công suất trung bình tăng được chủ yếu ở 2 nguồn: thời gian thay đảo tăng lên 24-32 tháng, và dùng nhiên liệu làm giầu cao, nén mật độ phản ứng theo mét khối nhưng lại giảm đi 10% theo chiều dài thanh nhiên liệu. Việc tăng lượng nhiên liệu lên 18% và làm giầu cao là giải pháp rẻ nhất của Super VVER. Tuy vậy, người ta vẫn gọi cái này là VVER-1200 hiện đại hoá. Phiên bản nối tiếp Super VVER-640 là NPP-1500 hiện đang được bảo vệ thiết kế, chắc bác gulfoil nói đến cái này. Sự hấp dẫn của VVER-1200 , mặc dù hiện nay nó đắt, chính là tương lai này, nó dễ dàng nâng lên 1300 với giá phải chăng.
    Việc nén lò của Nga hoàn toàn đi ngược với Mỹ Pháp. Vì thực chất, người Nga vẫn đang giảm mật độ phát nhiệt theo chiều dài thanh rod. VVER-1200 tăng vọt khả năng bơm, công suất chạy bơm, lưu lượng, cũng như quán tính dòng nước khi bơm hỏng. Phần đối lưu thụ động cũng tăng vọt nhiều lần với sự xuất hiện của các giàn làm mát vòng 2 (để giải nhiệt cho nồi hơi khi vòng 2 hỏng). Như vậy, việc tăng mật độ toả nhiệt theo thể tích vẫn được đáp ứng một cách lãi ra nhiều lần từ hệ thống tải nhiệt các loại. Riêng BN-800 và ABV nói trên thì giảm mật độ toả nhiệt theo thể tích đi nhiều lần (từ 2-10 lần).
    Khi dùng chu kỳ thay đảo mới 2,5 năm, thì thật ra là vùng nhiên liệu toả nhiệt mạnh trong lõ tăng lên, chiếm 1/2 chứ không như 1/3 như trước, vậy nên, thực chất mà nói, tính trung bình thì mật độ tảo nhiệt theo thể tích cả lõi tăng, nhưng mật độ toả nhiệt theo thể tích của vùng toả nhiệt mạnh lại giảm. Và đương nhiên, thay vì 1 năm, nhiên liệu dùng rồi được ủ trong lõi 2-2,5 năm. Chỉ riêng đoạn này đã nâng công suất hữu ích của VVER lên gần 10 %, bằng cả tăng năng suất toả nhiệt và giảm thời gian thay đảo. Phía Mỹ Pháp, TMI-II không cải tiến gì mă tăng từ 800 lên 900MW, sang Pháp là 940, sang Tầu là 1100, vậy nên không còn chỗ nào mà ủ trong lò nữa và chỉ có thể nén mật độ công suất toàn lõi, thực tế là nén mức độ nguy hiểm. Trong khi đó, khi mới ra VVER-1200 thì người Nga thật ra là giảm mật độ trung bình theo thể tích lõi so với những VVER-1000 cải tiến. Sau khi chạy dài, người ta mới an tâm nâng lên từ 1200-1300 theo các tiến bộ đã được thử nghiệm bên VVER-1000 cũ.

    Việc ủ giảm xạ ngay trong lõi cũng như việc cắm DU vào trong BN cùng với nhiên liệu làm giầu cao, cho phép nhiên liệu dùng rồi tái sinh pluton khá, tổng trung bình của Super VVER đạt CBR 0,9 khi dùng MOX-50, trong gian đoạn cháy yếu ở ngoài cùng, nó thay dần U235 bằng pluton. Như vậy, khi chỉ dùng pluton và U238, thì nó rất sẵn sàng đạt 1, đủ để đốt ngàn năm. Tuy vậy, 1 là tỷ số rất bấp bênh, nhưng đã có BN đảm bảo. Đạt đến 0,9 vẫn chỉ là dự đoán đợi gốm nitride, vì còn phụ thuộc vào quyết định các chu kỳ thay đảo.
    Như vậy, bác gulfoil nói đúng khi VVER-1200 kinh tế. Hiện tại, nó chỉ là 1200, nhưng sau đó với giá rất rẻ, thật ra là không cải tiến gì mà chỉ mua nhiên liệu mới, được 1300, khi nó thừa kế những tiến bộ của Super VVER (vậy nên nhiều người gọi luôn là Super VVER-1300). Về turbine và máy phát, thì việc nâng công suát 10% do có thêm 10% hơi là không phải làm gì. Còn nếu thêm nữa thì giá cải tiến cũng không cao. Nhưng bác gulfoil , đấy là kẻ lắm xiền, Vịt thì không có vốn, cũng hơi thiệt thòi.
    Bác gulfoil nói đến NPP 2006 chỉ cần 5 người điều khiển. Thật ra, chả cần người nào. Năm chú đó là 5 chú có trách nhiệm. Đây là bước tiến mạnh của Nga hướng xuất khẩu. Trước đây, để tăng phiếu bầu, thì các ngành quan trọng bên gấu rất cồng kềnh, đông nhân công tạp vụ. Nhưng xuất khẩu thì không thể như thế được.
    Cộng tất cả, người Nga hy vọng giảm 30% giá thành điện hạt nhân trong 10 năm tới.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 18:35 ngày 01/07/2010
  5. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Cung cấp một số thông tin về Super VVẺ và AES-2010
    VVER: a task for tomorrow
    Near the prospect of nuclear power development based on the evolution of technology reactors, and the medium and longer term should focus on new goals to define the problem as an evolutionary and innovative development of this technology. Formulated in recent years, options for nuclear power development strategy defined as the central task of forming the optimal structure of the entire nuclear fuel cycle, which ultimately must determine the location of nuclear fuel in the fuel and energy balance.
    This problem for the nuclear power industry formed around providing opportunities to move from the use of 1% of natural uranium mined from the economically depleted to almost full use of uranium-238 and thorium-232, energy resources, which are orders of magnitude greater than that of oil and gas. To achieve this priority is to create a closed nuclear fuel cycle for its future industrial and social infrastructure. Closing the fuel cycle requires time to demonstrate acceptable solutions on the final treatment of irradiated nuclear fuel and radioactive waste management in minimizing the threat of uncontrolled use of nuclear materials.
    In the foreseeable future the central tasks of innovation development of fission reactors are determined to develop effective fast-neutron breeder and efficiency of fuel use in thermal reactors as by closing the fuel cycle for plutonium improve the design of the reactor core, and the ultimate transition of uranium- thorium fuel cycle.
    Unfortunately, the concept of the federal target program "Nuclear Power new generation for the period 2010-2015. and up to 2020 "approved by the Government of Russia July 23, 2009 under number 1026-p, there is no section on modernization LWR con***ions for effective work in the closed nuclear fuel cycle.
    Along with a line of innovative development of fast neutron breeder receiving a visible development in the strategic expectations of the Russian nuclear industry outside of 2020, that time period is considered as a period of introducing a new generation of thermal reactors with new opportunities, including priority may take hull light-water reactors (LWR) as carriers of tra***ional technology and long experience.
    In this direction invested effort, time and more money than any other reactor direction. Accumulated invaluable global experience operating LWR has proven technical, structural, technological solutions, proven both positively and negatively. For the LWR, there are many suggestions and practical developments in their further improvement. This gives reason to hope for the timely establishment of the base of light-water reactors that would meet the demands made on innovative nuclear energy systems. (1)
    In the enlarged form for Super VVER towards the review were identified three main objectives:
    ? more efficient use of uranium and plutonium;
    ? reduction of investment risks;
    ? increase the thermodynamic efficiency.
    Within the reactor shell-performance water-cooled addressed the following directions of innovative development:
    ? cooling water sub-critical parameters with the ability to control the neutron spectrum;
    ? use of technology Corps reactor cooled by boiling water subcritical parameters;
    ? The use of supercritical water in a parallel flow single-performance;
    ? The use of supercritical water in a two-reactor;
    ? steam cooling in the subcritical pressure range of reactor fast neutrons;
    ? steam cooling in the supercritical region of the pressure reactor with fast neutrons.
    In ad***ion, the initiative to have been issued research reports on the formation and justification of the proposals for the VVER core with options on the basis of fuel rods of reduced diameter and on the basis micro fuel rod (MT).
    Governing the con***ions for the preparation of proposals considered was the orientation of the possibility of practical realization of the development in the period from 2020 to 2025, according to the structure we are considering the Russian nuclear industry until 2050.
    In Graph 1 shows the structure of the considered nuclear power in 2050, where the level of installed capacity of nuclear power plants in the late 2030 represents the top figure in the range, marked by the "Energy Strategy of Russia until 2030" approved by a governmental decree of November 13, 2009 .
    In this baseline scenario assumes development of nuclear energy with the years 2020-2025 on the basis of a closed fuel cycle with fast reactors, providing expanded reproduction of fuel with moderate performance. Along with the rapid development of improved lines begin light water reactors-governmental (Super-VVER), by the beginning of their implementation after 2020 provide the consumption of natural uranium in the open fuel cycle at the level of 130-135 t / GW (e) per year. Such targets may be achieved by optimizing the fuel cycle and increase thermal efficiency. In the configuration of these reactors to a closed fuel cycle, they operate with MOX fuel.
    Similar timing of a closed fuel cycle, and innovate in the direction of fast breeder reactors, and in the direction of light-thermal, are considered "optimistic" version of the scale capacity of nuclear power development which is illustrated in Figure 2, where more detail identified various areas of innovation in reactor technologies.
    Options presented here from our point of view, a more realistic account of the trends and dynamics of the global energy market (and including Russia) and requires a more active development of reactor technology perspective.
    Very real possibility that in the practical development of the nuclear power industry growth rate of smaller power fleet of nuclear power plants will lead to sift timing of the considered scheme of development, but we believe that the structure and development targets will remain, real life can adjust the desired dates of specific developments and clarify the contribution of different reactor systems in energy production and fuel balance, and specific time of their introduction.
    To ensure reliability and stability of nuclear-energy systems are critically important in the formation and preservation of its multi-component technology (at least - two). In the intervening period of two components were VVER and RBMK reactors, in considering the prospects of developing in parallel, at least two technologies: LWR and BR.
    What are the options concepts Super VVER offered for consideration?
    Superior VVER to work in a closed fuel cycle
    The basis is a project of VVER-1200, currently under preparation in accordance with the Federal Target Program (NPP-2006 "). A further evolutionary improvements of this project both for reactor and fuel, including the transition to a closed fuel cycle, as opportunities to clarify the industry and the development and implementation of projects reactors fissile isotopes (2)
    The vapor-water-cooled fast power reactor PVER-650
    Since 1977, the Kurchatov Institute in cooperation with VNIIAM and OKB GP carried out the development of the reactor with fast neutron spectrum and the resonant cooling steam-water mixture for the crisis hot-water content - PVER.
    In this concept by using the heat of phase transitions (evaporation of moisture in the core) has much energy and water mixture significantly reduces the temperature of the steel cladding, reduces the overall coolant flow rate and the cost of its circulation.
    Single-variant VVER-SKD with double-threaded active zone
    In the two-way direct-flow reactor VVER-SKD coolant comes first in the peripheral zone with a resonance-thermal spectrum, consisting of 150 fuel assemblies (FAs). In this zone the density of the coolant decreases from 700 kg/m3 to an average of 200 kg/m3.
    Next coolant enters the lower pressure, where, having changed in the opposite direction, enters the central zone, consisting of 91 fuel assemblies. The density of the coolant, moving upward in this zone is reduced to an average of 100 kg / m 3, which provides a large share of MOX fuel and bystrorezonansny spectrum of neutrons in it.
    Dual option
    VVER-SKD with one-way active zone
    (Reactor B-670 SKDI)
    In a two nuclear power plant in the 670 SKDI used reactor with integral layout of the core, the UWC and steam generators in the shell of the reactor mono-block.
    The temperature at the entrance to the active zone slightly below the pseudo-critical temperature (° C 375), and the temperature at the exit from the active zone - slightly higher than the pseudo critical (395 ° C). The reactor is implemented natural coolant circulation through the parted fuel lattices and a substantial reduction in the density of the fluid is heated in the reactor core.
    Dual version of the fast reactor cooled
    SKD-cooled (reactor PSKD-600)
    The best indicators of fuel use can be achieved in the SKD-water reactors operating in the fast neutron spectrum. The transition from circuit single-reactor plant in a two-allows you to have a first circuit steam SKD-coolant with a sufficiently low density to achieve fast neutron spectrum.
    .............>
  6. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    .........>
    Using the design of the fuel assembly (FA) with a dense lattice of fuel rods, can ensure-ing in the core of the neutron spectrum, close to the spectrum in the reactor type BN. It becomes possible to realize a self-sustained fuel in a closed fuel cycle.
    Single-boiling water reactor with a fast-resonance neutron spectrum (CI-M)
    In water-cooled reactors tightening of the neutron spectrum and the increase in reproduction rate can be achieved through the oppression of the lattice of fuel rods and a corresponding decrease in water-relations. This direction of light water reactor technology called reactors with reduced moderation of neutrons RMWR (Reduced Moderation Water Reactor).
    Most simply reduced moderation of neutrons is realized in a fluidized reactor, where the reduction in the number of moderator is achieved not only through the oppression of the lattice of fuel rods, but also due to a sharp decrease in the density of boiling coolant.
    Ranking of conceptual proposals
    The content of scientific, technical and technological problems, which may be formulated for each of the proposals, we can offer such evaluation.
    Closest to the domestic line of hull light-water reactors in the world nuclear power industry and have accumulated experience of no less than the PWR-WWER, a line of hull boiling water reactors BWR. However, Russia does not possess those luggage mastering technology that has been accumulated by developers BWR. Of course, always remains the possibility of cooperation and joint development with foreign partners, but they will be determined primarily by a set of commercial factors.
    Jump in the reactor at a fast neutron spectrum shifts that proposal aside the problem of choosing the optimal solutions for breeders.
    You can come around to the same assessment and other proposals for the establishment of a steam-cooled reactors and fast neutron spectrum in the subcritical pressure of the coolant, and in the field of supercritical pressure. This is an area of optimization of breeders with specific criteria, and only marginally affect the development of the technology already existing hull light water-tion direction.
    Special attention should be able to take the light water reactor at supercritical pressure. The attractiveness of this trend manifested itself, in particular, that it is included in complex systems "Generation 4".
    On the surface lie the problems to be solved with the development of this trend. This is, firstly, the need for sufficient understanding of the thermal hydraulics of coolant. Knowledge gained in a fairly broad introduction of supercritical steam parameters in the organic energy is insufficient to answer all the questions posed by the reactor plant.
    The second problem is viewed as more difficult and to deal successfully with up to 15 years - the problem of structural core materials.
    As a result, we can state that the transition to a supercritical pressure in the LWR is the actual direction of their innovation development, but the scale of the challenges dictate their decisions the need for international cooperation. Predict the time and effort to implement not allow to consider these proposals as a priority initiative in the development of innovative light-water hull areas identified above as the Super-VVER.
    Discussed above suggestions are, of course, to the "distant" perspective, departing for the 2020-2025 years. They deserve a terminological number greater inclusion is not in the category of "innovative projects", but rather to the category of "revolutionary". (3)
    Proposed areas develop super-VVER
    It is proposed to focus on two promising areas of research and development:
    õ? the direction of evolutionary development to the modernization and improvement of tra***ional
    Technology VVER;
    õ? direction of innovative development with the transition *****percritical water heat settings.
    Possible timing of evolutionary version of the Super-VVER:
    õ? 2009-2011. - Technical innovation of the project proposal of the core and the formation of R & D program for nuclear power plants in an evolutionary version of the c Super-VVER;
    õ? 2011-2015 years. - Feasibility and basic research for nuclear power plants with an evolutionary version of the Super-VVER (materials, codes, databases, benchmark, test facilities);
    õ? 2012-2016 years. - Design of nuclear power plants with an evolutionary version of the Super-VVER (conceptual design, technical proposal, technical proposal, feasibility study, RD);
    õ? 2016-2021 years. - Construction of the parent plant with an evolutionary version of the Super-VVER.
    Possible timing of development of innovative option Super-VVER:
    õ? 2009-2011 years. - The study of generalized basic problems of VVER-SKD new generation of technical proposals for Appu with innovative RU Super-VVER, formation requirements and R & D program for nuclear c innovative option Super-VVER;
    õ? 2012-2019 years. - Feasibility and basic R & D for nuclear power plants with an innovative option
    Super-VVER (materials, codes, databases, benchmark, test facilities, experimental research);
    õ? 2017-2021 years. - Design of NPPs with innovative options for Super-VVER (conceptual design, technical proposal, technical proposal, feasibility study, RD);
    õ? 2022-2026 years. - Construction of the parent plant with an innovative option for super-VVER.
    The main content of the work on the next 2-3 years should be the implementation of basic research and development.
    The parallel variant structural elaboration mainly to serve the task of identifying priority research and development.
    At this initial stage should be prepared terms of reference to a specific design and engineering facilities.
    The importance of timely scientific and technical justification for the possible design and technological solutions needed to ensure the selection of optimal variants of the reactor plant, corresponding to the specific con***ions of their introduction in the nuclear energy system.

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  7. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được gulfoil sửa chữa / chuyển vào 20:06 ngày 01/07/2010
  8. steppy

    steppy Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/03/2005
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    1.327
    Nước ta có bờ biển dài lại thiếu năng lượng. Có nên lập dự án xây dựng những NMD HN theo kiểu này ko nhỉ?
    http://www.vietnamnet.vn/tinnhanh/201007/Nga-xay-dung-nha-may-dien-hat-nhan-tren-mat-nuoc-919568/
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Cái graph 1, mô tả tỷ lệ của các loại lò trong tương lai trên, nó sẽ gặp vấn đề hết quặng 2025. Vì thật ra thế này, việc nâng tỷ số tái sinh lõi CBR ở lò nước nhẹ các loại lên 0,8-1 là rất khó. Loại lò làm nguội hơi PVVER có thể dùng fast neutron, nhưng đó là phiên bản tương lai. Thật ra, các loiaj lò nước sôi từ lâu đã được phát triển ở cả Nga và Canada, chứ không chỉ ở Mỹ Pháp Nhật, câu này là nói lò to, không kể mấy cái be bé vẫn phát điện ở Bắc Cực.
    Beloyarsk ban đầu là 2 lò ABM, hệ nước sôi. Kiểu nước sôi này gần giống RBMK, bản thân RBMK cũng sôi, ABM làm mát nước sôi quá nhiệt và làm chậm (điều hoà ) than chì. Tuy vậy Canada dừng do thoát phóng xạ quá nhiều. Nga công bố dừng với lý do nhiên liệu không giống ai, xử lý riêng thì tốn, thực chất là khi dùng nhiệt độ hơi cao trong ABM, tỷ lệ hỏng lớn, điều này Nga không thể chấp nhận, mặc dầu Mỹ Pháp vẫn hơn nhiều lần.
    Chính vì thế, người Nga chỉ chấp nhận các lò nước sôi đóng kín như ABV. Trong link trên của bác cũng nói đến việc chính phủ Nga coi nhẹ các lò nước nhẹ, không như cái Graph 1. Tuy vậy, ABV cũng không phải là một loại lò đóng kín duy nhất, có đủ các kiểu lò làm nguội hơi, làm ngượi quá tới hạn, làm nguội nước sôi dưới tới hạn.
    Chương trình Super VVER không cần đọc nhiều cũng cho thấy, đây là bãi ị Gấu nó phẹt vào đám lò nước sôi Mỹ Pháp Nhật, khi mà toàn bộ chương trình đâu đâu cũng có những nỗ lực cách ly nước lõi sôi. Cái hài hước là các chương trình nghiên cứu của người Nga được biến thành ma tuý não các loại cho các liệt não ôm thây ma 30 năm. Ví như SVBR thành HT-9. Cúng như thế, lò nước sôi kinh tởm có tên mới "Supercritical-Pressure Water Nuclear Reactors"=lò nước nhẹ chưa tới hạn. Nước chưa tới hạn thì là nước sôi, cái đó học sinh phổ thông cũng biết, nhưng loại người đó bên Mỹ Pháp quá hiếm.
    Ở chế độ đại nghị, người Nga cũng lắm những lợn bies dị mõm, như lão này nói Nga không có kinh nghiệm tái chế , chế tạo và đốt nhiên liệu pluton. Đây là thư gửi Duma (nghị viện, trước đây, Duma là thượng viện, nhưng sau 1991 thì nó mọc ngược thành hạ viện, vị trí của thượng viện thực chất ngày nay là hội đồng an ninh)
    http://news.babr.ru/?IDE=19030
    Thực chất là Nga đang sản xuất các FA MOX xuất khẩu, bản thân RBMK và VVER được thiết kế để đốt pluton do chính nó sinh ra. MOX vẫn dược xử dụng thường xuyên trên các BN và VVER phiên bản xuất khẩu. CÒn nhiên loeeij toàn pluton và U238 được dùng thử trên Lira Class=loại lò có vị trí khá đặc biệt trong nghiên cứu thử nghiệm.
    http://www.elemash.ru/en/production/Products/NFCP/PWR_BWR/
    Vấn đề Super VVER đang được bàn cãi khá nhiều bên Nga, vì nó rẻ hơn rất nhiều con đường BN-BREST. Nhưng rõ ràng là "tái bùng phát kiểu Mỹ Pháp 197x" sẽ vấp phải nạn đói uran 2025. Chủ yếu là nước ngoài thuê lợn biến dị mõm sủa, người ta đang phản đối quyết định chiến lược hạt nhân của TT và nghị viện, quyết định này là Close Fuel Cycle mà chúng ta đã nói đến nhiều, nang dần tỷ lệ BN và sau đó thay bằng BREST. Thật ra, Close Fuel Cycle đã bắt đầu với việc thử nghiệm hoàn chỉnh gốm nitride trong BOR, sang năm đã bắt đầu sử dụng quy mô lớn trong BN và phiên bản fast neutron có ruột BN của ẤN Độ. Nguồn gốc của lợn biến dị mõm cũng giống như các Ts Nguyễn Khắc Nhẫn, Ts Trần Đại Phúc, Ts Phùng Liên Đoàn=kẻ xưng là đã xây 4 cái toa lét cho NPP.
    Thật ra, Super VVER được quan tâm đúng mức với các phiên bản thực tế hơn nhiều là VVER-1300 (Super VVER trong lõi VVER-1200), VVER-1500 (Super VVER thiết kế mới), chúng sẽ vẫn tăng, nhưng giảm dần tỷ lệ trước các MKER và BN, BREST. Nếu như không có đợt ngủ đông 199x, thì hiện nay các nhà máy mới xây sẽ là Super VVER và MKER
    http://revolution.allbest.ru/physics/00026475_0.html
    vapor-water-cooled fast power reactor PVER. Đây là lò khí kiểu nước nhẹ, tức khí làm nguội là hơi nước được đun sôi ngay trong lõi. Nguyên lý này cho phép nâng nhiệt độ tải nhiệt lên rất cao, sử dụng fast neutron, nhưng khi phát điện dân sự quy mô lớn, thì vẫn phải cách ly, và như vậy, toàn bộ từ nồi hơi đổ ra vẫn dùng chung với VVER thường. Chương trình này cho phép nâng CBR của lò nước nhẹ lên quá 1, vì thực chất nó không còn là lò nước nữa mà là lò khí fast neutron. Cũng như ABV, hơi nước ngưng tụ trong nồi hơi trên cao tự chảy vào lõi, ddiemr khác duy nhất là ABV là lò nhỏ, kỹ thuật không phát triển mạnh, yêu cầu an toàn cao.... nên không dùng nhiệt độ hơi lõi cao, dẫn đến hiệu suất biến đổi nhiệt -công thấp. Nguyên lý phản ứng hạt nhân còn điểm ràng buộc, nếu như CBR của ABV cao lên 1 thì nó sẽ gặp những rắc rối giải quyết rất đắt đỏ của SVBR trong Lira Class, đó là do tốc độ phá huỷ cấu trúc hoá-cơ của thanh nhiên liệu tăng lên, không lợi cho loại lò thay đảo lâu-INTEGRAL. Chúng ta đã biết, vào thời quá sớm cuối 196x, SVBR của Liara Class đã phải tính đến các phương án gốm carbide, đắt lòi kèn, Lira là loại tầu ngầm chạy nhanh nhất quả đất-trong khi lại rất nhỏ = 3200 tấn (nhỏ hơn Kilo nhà Vịt).
    vapor-water-cooled fast power reactor PVER là phương án sáng giá, vì nó an toàn và rẻ hơn rất nhiều so với các lò fast neutron kiểu natri, nó không tốt bằng fast neutron kiểu BREST tự đông lại khi trúng ngư lôi. PVER có tỷ số tái sinh không cao như BN và BREST, chỉ xấp xỉ 1. Một nhược điểm nữa của nó là thanh nhiên liệu hao tổn rất không đều, phần dưới cháy mạnh (nguội do ngan nước chưa sôi), trong khi phần trên yếu (fast neutron). Do đó, PVER có nhiệt độ hơi cao sẽ phải chấp nhận một cuộc cách mạng về nhiên liệu, ví dụ nhiên liệu thay ngang hoặc thanh nhiên liệu làm từ nhiều loại viên gốm khác nhau.
    Các loại lò không cần bơm như thế này giải quyết hoàn toàn khâu bơm thụ động, do đó khỏi lo mất làm mát-tai nạn lớn nhất với hành hạt nhân. CHính vì thế, tương lai không sáng sủa như BREST và BN, nhưng chũng được đầu tư lớn để thay thế VVER hiện nay.
    VVER-KPD with one-way active zone (Reactor B-670 SKDI)
    Cái này hoạt động gần giống như cái ABV và PVER trên, nhưng phần nước là quá tới hạn, tức hỗn hợp nước-hơi. Lò cũng có tính không cần bơm, đóng kín. Nó không dùng fast neutron , mật độ và nhiệt độ chất làm mát đồng đều như VVER hiện nay, nên thừa kế những bài toán thiết kế của VVER. Nhiệt dộ hơi tăng lên,. giải quyết khâu hienj nay VVER yếu là tỷ lệ nhiệt-công, đạt mức 4x%.
    VVER-KPD cũng có tham vọng fast neutron, khi đó, điều kiện tới hạn của phần nước được thực hiện bằng nén áp cao, dĩ nhiên áp thấp hơn nhiều VVER hiện nay sôi ở 800-1000 độ C, khi này, nó hoạt động không khác gì PVER.
    Trong hình vẽ trên, VVER KPD là lò nước sôi chạy trực tiếp turbine. Nhưng bác thấy, phiên bản này chưa đến lượt bảo vệ và phiên bản ABV là cách ly.
    nhiên liệu rung
    Tỷ lệ hỏng nhiên liệu cao lên trong lò nước sôi dưới tới hạn do tính không đồng đều của làm mát và điều hoà (đều là nước nhẹ), nên có phương án nhiên liệu rung. Tức là, viên bi gốm không hàn liền vào vỏ Zr (hoặc hợp kim titan-Nb). Mà ống vỏ được làm dầy, cứng, đựng viên gốm rời bên trong , hàn kín 2 đầu sau khi nén đầy khí truyền nhiệt He.
    Thật ra, cấu tạo này không có gì mới, trong đường dây buôn lậu tài nguyê uran qua Candu mà chúng ta đã biết, thì Candu tận dụng nhiên liệu dùng rồi của PWR và BWR Mỹ. Chúng còn 0,9-1,2 % nhiên liệu, cao hơn Candu dùng uran tự nhien 0,72%. Để làm điều đó, người ta chặt vụn nhiên liệu Mỹ rồi nhét rời vào ống. Để ống cứng, thì bản thân Candu đã có ống to 1 phân và ngắn nửa mét.
    Thật ra, đây chỉ là một hướng nghiên cứu, triển vọng không sáng sủa gì, vì thật ra Candu có mật độ toả nhiệt rất thấp so với VVER. Đồng thời, bó nhiên liệu ZCandu ngán và nối nhau đi dọc ống kênh, nhoè dó nó đi qua các vùng có mức độ làm việc khác nhau của lò, dẫn đến đồng đều, bó nào cũng chạy nhữ các bó khác. Bên nhà Gấu thì việc tổ chức nghiên cứu như thế đã có từ lâu, người ta chi tiền làm nhiều thứ "vô tích sự", chứ không phải bao giờ cũng làm việc có ích như "diệt chim sẻ" hay "toàn dân làm gang thép". Ngoài hướng nghiên cứu tìm những ưu điểm để áp dụng, có nhiều nghiên cứu chỉ nhằm cung cấp tin tình báo về hoạt động của đối phương.
    Giảm tỷ lệ hao hụt neutron
    Để giữ giá cạnh tranh, người Nga không dùng nước nặng như Candu. Nhờ giảm tỷ lệ hao hụt neutron khi sử dụng nhiệt độ cao (có nhiều fast neutron), có thẻ nâng tỷ lệ tái sinh lõi lên. Ở lò nước nhẹ các loại, việc giảm tỷ lệ hao hụt neutron được thực hiện bằng cách bố trí lại các rod trong FA, nhờ đó, giảm được vật liệu thép trong lõi lò=nguồn ăn fast neutron khá mạnh. Thanh nhiên liệu aFA có tác dụng như vậy, nó sử dụng bộ khung sườn cứng vứng để giảm khối lượng thép, bỏ các vách ngăn lục giác đi trong lò nước sôi. Việc tăng thể tích nhiên liệu trong aFA lên 18% sẽ làm giảm thể tích nước=nguồn ăn cả slow lẫn fast. Cấu tạo hơi nước quá nhiệt như VVER-KPD sẽ làm giảm tỷ lệ khối lượng nước, do hơi có mật độ thấp. Điều này gây cách mạng lõi lò khá lớn về mọi mặt, mà mặt nhiên liệu là sự không đồng đều trong phản ứng ở các vùng trên và dưới, làm người ta tính nhiên liệu đặt ngang và thay đảo từ dưới lên trên.
    ABV là loại lò giảm khá mạnh tỷ lệ hao hụt neutron, nhưng nó là lò nhỏ, nên có áp dụng các biện pháp giảm thì lượng neutron bắn ra thành lò vẫn cứ cao. Dẫu sao thì cũng là phương án nước sôi không bơm đầu tiên được bảo vệ, với tốc độ đặt hàng của lò nổi, ABV chăc chắn được áp dụng chỉ trong 4-5 năm tới.
    Việc giảm mất mát neutron đạt được tiến bộ lớn khi bỏ oxid trong gốm, thay bằng carbuar (gốm carbide) hoặc nitơ (nitride). Carbua được áp dụng ở SVBR trước đây, nhưng quá đắt và quay lại oxid, chỉ còn thanh điều khiển vẫn là carbua cho đến nay. Thay vào đó, thì nitride đã được thử nhiệm chu đáo và đang bắt đầu chuản bị sản xuát lớn, ban đầu cho BN, sao đó dần dần mở rộng. Thanh nhiên liệu BN đắt, nên nó được ưu tiên áp dụng trước là đương nhiên.
    Việc cải tiến nhiên liệu ở Nga vướng một khâu rất lớn, đó là sự đồng đều giữa các lò, vì vạy giảm giá các khâu chế tạo hàng loạt và tái sinh
    Tóm tắt
    Chương trình Super VVER đang được bàn cãi sôi nổi ở Nga, cũng như ở Vịt, rất nhiều lợn biến dị mõm sủa váng nhà. Chúng ta đã biết rằng, chúng được thuê sủa để đấu tranh cho loại lò nước sôi chạy turbine-nhưng lại là nước điều hoà nén mạnh, sôi mạnh chứ không có áp thấp nhiệt thấp như RBMK. Như vậy, tiêu chuẩn an toàn mức Nga sẽ mất và nghiễm nhiên loại lò bớt xén nhất quả đất là nước sôi Mỹ Pháp Nhật có cơ cạnh tranh trong thị trường nội địa Nga. Dĩ nhiên, mơ hoang cũng nên tiết kiệm chút không người ta cười cho. Cái điều không tưởng này bị chặn bởi nạn đói nhiên liệu khoáng một cách tự nhiên sau 2025.
    Thật ra, chương trình vẫn đang được phát triển và quan tâm đúng mức, dần dần, các VVER truyền thống sẽ được thay bởi Super VVER, VVER-1200 là phiên bản cuối cùng của VVER truyền thống. Nhưng nói Super VVER cách mạng quá nhiều và đảm bảo nhiệm vụ fast neutron trong close fuel cycle thì là quá nhảm.
    Cũng như lợn biến dị mõm tiếng Vịt, lợn biến dị mõm bên Gấu cũng cầm các kịch bản tây, mà trình độ hạt nhân các nhà Tây, và đặc biệt của Lợn Tây thì phải biết. Các vấn đề lớn nhất của Super VVER lại là thứ mà Tây không biết, đó là cấu trúc nhiên liệu, vừa phải có những ưu thế mới, vừa đồng nhất cũ, để giảm giá thành.
    Ưu thế của Super VVER không phải là fast neutron để close fuel cycle, mặc dù neutron của nó fast lên chút, nhưng vẫn là nước nhẹ. Vì vậy , sau 2020, tỷ lệ BN được xây dựng sẽ cao hơn Super VVER. Khoảng 2018 thì BN-1200 phát điện, nếu như trời phù hộ, nó chạy ổn định, thì sức cạnh tranh đã xuống gần ngang Super VVER. Nếu như BN-1200 không tự chứng tỏ mình, vì nó là natri nén cháy rất khoẻ, thì SVBR cỡ lớn sẽ thay thế, lò này rẻ hơn BREST và đã được sử dụng lâu đời,. Và cuối cùng, khi thiên hạ này giầu có chấp nhạn hàng trăm tấn Pb208 làm giầu, thì BREST sẽ là lò tiêu chuẩn duy nhất.
    Super VVER có các điểm giá thành, hiệu suất nhiệt công.... tiến chút so với VVER truyền thống. Phần lớn các tiến bộ của Super VVER có thể áp dụng trong VVER truyền thống như bản chuyển tiếp VVER-1200/1300. Nhưng với phiên bản hoàn chỉnh nước sôi, thì lò sẽ có vòng 1 hoàn toàn đóng kín không bơm, hoàn thành đầy đủ tính thụ động, tốc độ tải nhiệt không hề giảm khi loss of coolant accident.
    Cũng như các lò khác, Super VVER tiến từ nhỏ đến to trong các bước tiến mạnh về lõi. Như vậy, phiên bản nước nén có thể bắt đầu ngay với to, tức VVER-1200/1300. Nhưng phiên bản nước sôi không bơm sẽ bắt đầu với ABV trên lò nổi và tầu biển.
    Đây là đồ thị về cái bùng phát lần 2 và chết tức tưởi lần 2 của hạt nhân Mỹ Pháp. Các bác lại cử lợn biến dị mõm sang Nga kéo Gấu cùng đi Dám gửi thư cho cả chủ tịch Duma.
    Chú ý là các đồ thị này được lập khi cưa công bố các kế hoạch bùng phát siêu khủng của Tầu, Nam Cao Ly, Ấn Độ, Đông Nam Á. Đông Nam Á đã trở thành bãi đấu , thị trường hạt nhân lớn nhất thế giới với kế hoạch 60 lò, 80MW của Vịt, Malaysia, Indonexia, Thái Lan. Các kế hoặch mới bùng phát này to hơn nhiều lần so với Second Wind của Mỹ Pháp Nhật Âu dự kiến, và bọn đó trừ Nhật đều ngủm củ tỏi rùi. Vì cái bọn mọi thuộc địa bùng phát, nên thời điểm đồ thị khai quặng chuyển từ dốc lên thành ngang là 2020, dốc ngang thành xuống là 2025, sớm hơn đồ thị trong này 20 năm
    http://www.nikiet.ru/eng/publications/innoproj.html
    [​IMG]
    [​IMG]
    Còn đây là BREST. Nếu như không có mafia hạt nhân Mỹ Pháp ăn trụi lò, thì cái này đã phổ biến. Nếu như Super Phenix không đem theo 10B xuồng mồ, thì cũng đủ tiền làm giầu cả núi Pb-208 cho hàng trăm cái này. Lò tiêu chuẩn của tương lai.
    http://www.nikiet.ru/eng/structure/mr-innovative/brest.html
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 09:29 ngày 02/07/2010
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Bọn nhà báo bi h ngu si thật. Trạm này khởi công 2006 sau hợp đồng 2005 ký với Tàu. Ngày 30 tháng 6 vừa rồi là hạ thuỷ. Tầu được trang bị đến 2011 và chạy thử nghiệm, giao hàng 2012.
    Sao kiếm đâu ra lắm nhà báo lợn như vậy nhỉ. Báo lợn là công cụ zoombie mạnh mẽ nhất của nghề ngu dân chăn liệt não.
    http://dantri.com.vn/c36/s36-406076/muc-kich-tram-dien-hat-nhan-noi-dau-tien-cua-the-gioi.htm
    http://vietnamese.ruvr.ru/2010/06/30/11080443.html
    Một tầu nổi, tầu ngầm.... đều có chuẩn bị bảo vệ dự án, khởi cộng hạ thuỷ và ra khơi (chạy thử). Lễ hạ thuỷ được tiến hành long trọng nhất, một nữ đồng trinh cầm chai vang nổ đập vào thành tầu. Ngày nay hơi khó kiếm nữ đồng trinh nên các tầu ngầm danh tiếng của Nga dùng nam sĩ quan.
    Sau khi hạ thuỷ, tầu nổi mới bắt đầu được trang bị. Thậm chí, người ta lúc đó mới đóng boong tầu và nhà tầu (super structure). Riêng với tầu ngầm thì nó được đóng khá hoàn chỉnh rồi mới hạ thuỷ.
    Cái Viện Sỹ Nomonosov này có công suất 80MW, Tầu trả tiền trước 2005 (có thể cho cái này hoặc cái thứ 2), giá $80m, cũng ngang VVER, tương đương ngày nay 250m $. Vịt thèm chứ, chả phải Vịt, đơn đặt hàng ngập đầu của Tầu, Nam Phi. Mèo thèm dỏ dãi nhưng vì liệt não nên không dám đặt hàng. EU cũng cần, hiện Tây Ban Nha, Moroco và một vài nước ở Đia Trung Hải đã đánh tiếng. Phận Vịt hèn, nen thèm cứ thèm, chắc là còn lâu mới kéo được cái này về Côn Đảo, Phú Quốc, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm.... Kéo được 1 cái này ra Trường Sa là có ngay vài chục khách sạn 5 sao ở đó liền.
    Chiều dài con tàu mang trạm là 144 mét, bề rộng 30 mét, trọng tải 21,5 nghìn tấn. Công suất của mỗi lò phản ứng là 35 Mw. Thời hạn triển vọng vận hành của trạm điện này là 38 năm.
    con bè này 21 ngàn tấn, mớm nước 5 mét. Một số thiết kế mẫu bè to hơn được đến 150MMWe-640 MMWe. Hiện loại bè này được đóng theo kỹ thuật đóng tầu phổ biến, là tôn hàn, nhưng nhiều vật liệu thích hợp hơn với bè đã dược đề cập, như composite , bê tông.
    Đối với những trạm điện mini như vậy, có thể sử dụng lò phản ứng nguyên tử mới, cũng như lò phản ứng hạt nhân đã được thiết kế và sử dụng cho các tàu phá băng nguyên tử, - ông Aleksandr Berenzon đại diện hãng thiết kế và cung cấp lò phản ứng thuộc Văn phòng công trình chế tạo máy mang tên Afrikantov cho hay. Loại bè này sử dụng 3 loại lò như HP đã tả, là KLT-40M, RITM-200 và ABV-6M.
    "Các kết cấu lò phản ứng đặt trên trạm nổi là rất độc đáo. Đồng thời dựa trên cơ sở những giải pháp đã được kiểm nghiệm về tàu biển năng lượng hạt nhân. Mẫu thiết bị này đã làm việc suốt trong 50 năm qua trên các tàu phá băng của Nga. Quí vị chắc cũng rõ, hạm tàu phá băng của Nga là duy nhất trên thế giới. Và kỹ thuật đã vượt qua kiểm chứng thực tế lâu dài này sẽ được đưa vào đề án mới xây lắp nhà máy điện hạt nhân nổi "Viện sĩ Lomonosov". Như vậy, bè dùng loại lò KLT-40M. Đây là loại VVER nước nhẹ nén thường, chưa có tí Super nào, lò được áp dụng trên tầu phá băng từ giữa thập niên 197x, nó cũng giống như các loại lò tầu chiến trước đó. Lò có chu kỳ thay đảo 3 năm, thay đảo ngay ở lò, kho chứa nhiên liệu bên cạnh lò (dọc theo tầu lần lượt là turbine, lò và kho). KLT-40M có 4 vòng 1 và có đủ các kỹ thuật sử dụng trong các VVER nước nhẹ nén to. RITM-200 là lò cũng như thế nhưng cải tiến kéo dài thay đảo lên 8 năm, dự kiến về quê thay đảo cho xanh. ABV-6M là Super VVER vòng một sôi không bơm. Các lò này dùng loại nhiên liệu riêng, khác với VVER to, nhưng cả 3 lò này đều dùng chung nhiên liệu. Việc dùng chung nhiên liệu giảm giá thành và vốn đầu tư đi rất nhiều. ABV dự kiến áp dụng sau 2015, sau nó là SVBR chì-bismuth= người mẫu của giấc mơ hoang HT-9.
    Lò điện phương Tây đã đắt, lò quân sự thì càng đắt lòi do cái mafia hạt nhân Mỹ Pháp. Vậy nên đương nhiên là cái hàng hot này Gấu độc quyền. Gấu đã từng sản xuất 460 lò tàu thuỷ các loại, lớn hơn tổng số lò phát điện dân sự hiện tại của toàn thế giới. Lò tầu thì nhỏ, nhưng lại là đỉnh cao về kỹ thuật.
    Các nước khác khoe khoang thì nhiều, nhưng cứ như người Ấn nói: họ chả có gì. Hiện có mỗi Gấu đóng loại lò này.
    http://www.iaea.org/NuclearPower/SMR/
    [​IMG]
    Cãi vã chán về kết cấu (chọn loại) lò, mãi 2008 mới khởi công đóng và chuyển từ Sevmash to St. Petersburg. Giá xuất khẩu năm 2005 là $80m, tăng len $200m, cũng ngang VVER-1000 tính theo công suất. Bè đã được hạu thuỷ 1 lần ở Severodvinsk .
    http://www.bellona.org/articles/articles_2008/fnpp_stpetersburg
    http://www.minatom.ru/en/news/4345_16.04.2007
    [​IMG]
    Tầu đặt trước tiền tươi đầu tiên, sau đó là Nam Phi, Tây Ban Nha có ý kiến, đến Indonexia cũng ngó sang. Với cái xứ đảo này thì floating NPP là giải pháp tốt nhất.
    http://monitoringmedia.wordpress.com/2009/08/19/indonesia-tertarik-pltn-apung/
    Ối làng nước ôi, ai có của vào kiểm tra lại, mõ lại vừa xoá cái gì, thấy cái pót này ở trang sau nhảy lùi bộp một cái.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:10 ngày 02/07/2010

Chia sẻ trang này