1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Công nghệ nhà máy điện hạt nhân Việt Nam (sắp xây dựng) và tính toán dài lâu cho nền quốc phòng quốc

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vannienthanh, 19/09/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Cái lão mũi to này cũng như các lão thần kinh khác, tràng giang đại hải mà không câu nào ngu hơn phân lợn. Căn bệnh này phổ biến từ mẫu giáo cho đến ông già ngôi miệng lỗ. Khá hay, các "tinh hoa dân tộc" sang du học Mèo Tây bái kiến cha dượng mẹ ghẻ đa phần là giống liệt não này, mở mồm ra là đốt đít vĩ cuồng "Việt Nam", cũng mắc bệnh không nói câu nào khác phân lợn. Từ đó, các kênh truyền thông đã dùng giống tâm thần có tên vĩ cuồng này sủa trên RFI, BBC, RFA...
    Thật ra, dù cho sủa bậy như thế nào, thì nước Mỹ và nước Pháp cũng đã thật sự chết lần nữa, và kế hoạch tái bùng phát chó dại lần 2 mang tên Gen III đã tự tắt đèn, nước Pháp chỉ có mỗi cái Normandie, còn nước Mỹ có mỗi 2 AP-1000 của Augusta, tiểu bang Georgia. À, nhưng con lợn Ts Phùng Liên Đoàn kể ra trên, nước Mỹ mua đến một lô xích xông lò, toàn dự án trên mây, lấy dự án trên mây để lợn tính giá.
    Thật ra, mấy cái lẻ loi mới mọc trước khi phong trào Gen III+ tái bùng phát chết yểu ở Pháp Mỹ kia rất nhỏ so với con số đang đóng cửa hàng loạt, vì đủ các nguyên nhân: bẩn, quá hạn, thất thế..... nhưng đều xuất phát từ nguyên nhân gốc là quặng đang cạn. Thật ra, sản lượng quặng thế giới vẫn tăng, nhưng đó là sản lượng của các công ty Tầu, Nam Cao Ly, Ấn Độ, và chủ yếu là Gấu. Đến những cánh hẩu của Mèo là Canada và Đức (Đức khá nhiều quặng) cũng về bên Gấu, Gabon, Namibia trước là mọi của Tây Phú nay cũng bị đủ thứ xâu xé.
    Tại sao ? nước Mỹ và nước Pháp còn nhớ thời còn làm bố dượng mẹ ghẻ thiên hạ, bảo rằng: các con không được hạt nhân, đem quặng tiến cống bố mẹ". Nhưng liệu nước Mỹ nước Pháp có dám đem quân sang Tầu, sang Đấn Độ đóng cửa nhà máy điện hạt nhân của họ không.
    Đương nhiên là không ? không thì làm sao bi h ? à, thuê chó dại sủa bậy. Ngoài mặt thì "hoan hô bạn Vịt có điện hạt nhân", sau lưng thì đấy, Ts Phùng Liên Đoàn, Ts Nguyễn Khắc Nhẫn và hàng tỷ con chĩa mõm vào Ninh Thuận sủa những tiếng y đúc nhau cùng một gốc. Cái lợn của nhà Vịt là những con lợn biến dị mõm ấy mớm lời cho sư sãi tiên chỉ trên đình miếu, và được quan lại nhà Vịt mời về tận đình miếu mà sủa cho đàng hoàng. Dĩ nhiên chúng ta biết giống Vịt sa mạc vốn đầu lợn đến thế nào, nhưng hoá ra trên đình miếu khối lợn, ngưu nưu mã mã, nay có trư trư.
    Hài nhất là nước Mỹ chết tức tưởi lần nữa. Tưởng mái mãi đi ăn cướp được quặng, Mỹ đã hêt sạch quặng mà chưa hề tái chế, chất đống nhiên liệu dùng rồi dân sự. Cái số nhiên liệu ấy đủ cho họ đốt ở các lò của họ chục năm. Lại thuê ai làm, thuê Gấu ?? ôi, các liệt não nhục nhã quá muôn tự tử. Thế là có cái hợp đồng tay ma, Mỹ thuê Ấn ĐỘ xử lý, ẤN ĐỘ mua kỹ thuật Gấu, vì Gấu sắp thay đẳng kỹ thuật này. (chuyển từ xử lý dung dịch nước sang xử lý hoá nhiệt độ cao bằng nóng chảy, gọn hơn vì không làm nhiễm xạ nhiều nước, các thứ nhiễm xạ tuyệt đại đa số là rắn).
    http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?article=173019S,=82&top=45
    http://vietnamnet.vn/khoahoc/201002/Nuoc-My-thuc-su-tro-lai-dien-hat-nhan-895433/
    http://www.whitehouse.gov/the-press-office/obama-administration-announces-loan-guarantees-construct-new-nuclear-power-reactors
    http://timesofindia.indiatimes.com/india/US-India-reach-nuclear-reprocessing-deal/articleshow/5739263.cms
    http://www.dnaindia.com/mumbai/report_indo-us-nuclear-reprocessing-pact-announcement-likely-on-march-22_1361294
    http://gsn.nti.org/gsn/nw_20100330_7419.php
    Thế mới là cái giông liệt não lợn. Thuê Gấu thì dẫu sao cũng có cái hiệp ước giới hạn số đầu đạn. Còn Ấn Độ, nó là một trong những nước đệ đơn chạy khỏi hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân NPT, nó chạy là nó tuyên tao thích làm bom hạt nhân, là cái đống xử lý tái chế của nó đồng nghĩa với phạm pháp, là nước Mèo đi lại làm ăn với tội phạm của chính nó.
    Cái vòng luẩn quẩn ngu si như vậy, do đói, do rồ, do liệt não, do lừa nhau một cách ngu si, do quá nhiều cử tri ngu si đến mức bị bịt mắt bởi cái chiện dở hơi ăn cám lợn như thế. Nhiều người ngạc nhiên, đào đâu ra lắm kẻ ngu si đến thế, hoá ra có những quốc gia là cường quốc ngu si ?
    Ối xời, không có các cường quốc ngu si hoá rồ thì đã không có chiến tranh, khủng hoảng, không ai ăn vãn nhiên liệu hạt nhân ngàn năm trong 40 năm.
    Con lợn Ts Phùng Liên ĐOàn này thuộc loại sủa to nhất và lợn nhất, có quả
    10 Phương pháp không cần Điện Hạt nhân mà lại giúp Việt Nam tăng thêm nội lực !
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để mắc nối lại hệ thống phân phối điện chằng chịt ở Hà Nội, Saigon, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn thể các thành phồ. Hiện ta mất mát điện khoảng 11% vì hiệu ứng Ohm Lão lợn này mà về xử lý cái đám mê cung ấy ở HN., SG. Lão tưởng lão là tề thiên đại thánh chắc. Đất HN giá nửa tỷ một mét mặt đường, giá mặt đường 100 USD / m2. Chỉ riêng 1 thành phố đã phải đào vài lần 1000km dây=vài trăm triệu USD. Mua có 2 vạn mét vuông đất đặt trạm đã hết 10 ngàn tỷ=nửa cáo lò VVER-1000, chưa đủ trạm mới cho HN.
    Theo lão lợn này, hệ thống điện của một thành phố 4 triệu dân, 6 triệu dân trị giá bao nhiêu, trong khi phải làm lại mới gần như toàn bộ ? Lão này là Tề Thiên Đại Thánh hay là Thần Đèn ? Chả cần nhiều, chỉ nhìn dây điện, cột, công tơ, trạm, đào đường, cáp, dây lớn bé.... mỗi người dân đã phải chi phí bình quân ít nhất vài triệu, 1 triệu dân là vài ngàn tỷ đồng. Đến cái thành phố NY siêu hiện đại đã dám đổi hệ thống điện đã khá lạc hậu, có lần treo máy tính mấy điện mấy ngày ?
    CŨng như nước Mỹ mua một rổ lò trong mơ hoang của lão, một mỡ hoang tưởng vĩ cuồng nó ngu si như thế. Mà ngu si đến mức nào mà bảo mạng điện thành phố rẻ đến như vậy ??
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để mua bóng đèn neon (loại neon mới không cần phải hình ống) rồi bán rẻ cho người dân Thứ nhất là có câu chuyện hài về những con lợn. Cái đám EU bò ra phát triển được dây chuyền sản xuất bong compac, chưa ra đời đã lạc hậu trước LED. CHúng bán tống bán tháo về Rạng Đông, đến lượt Rạng Đông bán tống bán tháo, và đương nhiên, việc trợ giá trong điều kiện thối nát tự biến thành đống giòi bọ rửa tiền, cái bóng tù mù ấy là một lý do quan trọng để phần lớn trẻ em cận thị. CŨng như điện gió và mặt trời đang ế hàng, cái bóng ấy cũng xuất phát từ EU như thế, nó dùng màu xanh lau tiền bẩn ở châu Âu rồi vứt bẩn đó xang những chỗ nào đông lợn.
    Mà tại sao con lợn Ts Phùng Liên Đoàn này không nói đến LED mà lại nói đến neon ? à, lợn nhai lại của lợn.
    Mua một bộ bóng cả đui là 30k, 80 triệu người là 2400 b, giảm được môi bóng 10w là 800MW. Hay, có lợi. À, quên, lợn lại cho rằng từ em bé đến ông già Vịt mỗi người ôm khư khu một bóng thắp 24/24. Trong khi thực tế 5-6 nười 1 bóng và chỉ thắp 2 giờ mỗi ngày, 2400 tỷ ấy cùng lắm là được 1/40-1/60 số đó=20MW, nhân 10 cho bằng giá 1 VVER là 200MW, cho hiệu quả gấp đôi là 400MW, gấp 4 là 800MW. Đấy là chưa kể thuê lợn Ts Phùng Liên Đoàn đi rỉ tai từng bà con miền núi hải đảo mua bóng và thuyết phục người ta dùng điện, đầu tư cho người ta có điện để đủ hiệu quả.
    Và dĩ nhiên, thằng khựa nó cười như công nông nó bán LED. À, hay Ts Phùng Liên ĐOàn là cán bộ Khựa ?
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN giúp các công sở và nhà tư có máy điều hòa dùng cửa sổ có hai lớp kính và bịt kín các lỗ hổng để máy làm lạnh không khí dùng ít điện thôi mà không ảnh hưởng tới khí hậu mát mẻ. Kinh, caaos điều hoà cho toàn bộ các văn phòng, lắp EURO WINDOWS cho toàn bộ các văn phòng. Giá mỗi cái điều hoà là bi nhiu, cửa sổ mỗ mét vuông triệu rưỡi. Chỉ riêng số cửa số, 10 triệu dân làm văn phòng đã tốn 15 ngàn tỷ, cộng thêm độ 4 lần như thế điều hoà.
    Chỉ mua mới các máy lạnh có dùng ?oống dẫn nhiệt? (heat pipe) do một người Việt là Đinh Khánh chế tạo (Heat Pipe Technology, Inc) để lấy hơi nước trong không khí ra trước việc làm lạnh không khí, và như vậy tốn ít điện hơ Đem về NY mà bán, Vịt Ngan dùng loại máy lạnh chạy khí có phân tử lượng cao cho lành. Mình không hiểu bọn vịt sa mạc nó lợn đến đâu mà bảo máy lạnh hơi nước tiết kiệm điện hơn máy lạnh dùng khí tải nhiệt có phân tử lượng cao. Sao không bán cho Hitachi, Toshiba đi mà chóng giầu, mà sao không đăng ký giải Nobel đi ?
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để khuyến khích và đặt giải thưởng cho cán bộ và công nhân các nhà máy đốt than học hỏi cách điều hành với năng suất 90%-95%. Nước Mỹ thông thái đầu tư nhiều rồi mới chỉ đốt được hiệu suất 30% nếu không dùng nước nóng để sưởi. Vịt thì không bán được nước sưởi vì không có tuyết. Đấu là hiệu suất, còn năng suất thì không thấy ai nói % cả, loại lợn này học vậy lý trong trường tâm thần.
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để sửa sang các đập nước, Cái đập Sơn La và Hoà Bình đều đắt hơn Ninh Thuận. Lợn thử chỉ ra xem cái đập nào bằng Ninh Thuận 1 2GW mà lại có giá bằng 1% Ninh Thuận, cả hai đập ấy đều đang tốt, đắp chúng cao lên thì cần kinh phí như Ninh Thuận. Con lợn này học kinh tế trong thiên đường, thậm chí tuyên đến cả việc Mèo vừa mua một rổ lò hạt nhân, dám cãi cả Obama. Với 40 tỷ, chỉ xây mới-tức giá đầu tư nhỏ hơn nhiều hoàn thiện cũ, một nhà máy thuỷ điện bằng 1% Ninh Thuận 1, và đó là nếu còn chỗ. Lợn làm ơn chỉ chỗ đặt nhà máy 1GW nào còn lại sau 5 trạm Sơn La.
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN nghiên cứu việc lập các hồ dự trữ điện tại các đập nước (phương pháp này gọi là pumped storage) để vừa tránh sự cố lũ lụt, vừa làm tăng lợi ích giữa ngày và đêm của các đập nước Đây là cái ắc quy, nó gồm một nhà máy thuỷ điện thông thường nhưng phải đầu tư bơm ngược, giá phần lắp máy cao hơn gấp đôi thuỷ điện thường. Giá thuỷ điện thường là cao hơn điện hạt nhân. Hay lão dùng cái ắc quy có công suất phát 1kw cho mạng EVN ? Người ta tính điện gió và mặt trời đắt nhất ở đoạn này, nó cần một nhà máy thuỷ điện đắt gấp đôi thuỷ điện thường để làm ắc quy, ngoài số lắp máy gió, máy mặt trời.
    Ở đây, lợn tưởng mỗi lợn biết khôn, nhưng thật ra con lợn này ngu hơn cả lợn thường. 1.% điện hạt nhân chỉ xây được cái ắc quy thuỷ điện cho 1.20 điện hạt nhân thôi. Người ta không dùng nhà máy bù có bơm ngược đắt đỏ, mà đơn giản là tăng giảm nhà máy thuỷ điện có sẵn.
    Ninh Thuận thừa kế một số ắc quy có sắn ở miền Trung, tức là thuỷ điện thường, không khốn khổ với nạn thiếu nước như Miền Bắc. Khác với mặt trời và gió, điện hạt nhân và than vẫn phát đều và chỉ cần bù giờ cao điểm=1/10 công suất. Như vậy, Ninh Thuận 1 cần ắc quy có công suất phát 200MW, cả đống a vương da dun buôn cuôn da nhim đấy, lấy cái nào trong số đó làm ắc quy cũng đủ.
    Khác với điện gió điện mặt trời, thật ra là không thể đóng góp số điện nào trong mùa nước ở miền bắc. Điện hạt nhân và nhiệt điện ở miền bắc chỉ cần chạy đều, tăng giảm công suất các Sơn La Hoà Bình cỡ 1/10 nhiệt điện và hạt nhân là đủ. Như vậy, riêng Hoà Binh đủ cho 20GW hạt nhân.
    Cái điện gió và điện mặt trời dở hơi ăn cám lợn và hoàn toàn là lừa đảo ở Vịt như thế, nó chỉ phát điện vào giờ người ta không cần và tốn quá nhiều ắc quy, thế nhưng nhiều lợn sẵn sàng lừa đảo dùng chùa ắc quy của EVN để lừa đảo quyền sử dụng đất đặt pin.
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để thăm dò và phát triển khí đốt bằng phương pháp khoan ngang ở nhiều độ sâu, với mục đích tìm nhiều hơi khí như mới phát triển vài năm nay tại Mỹ. Cai nước Mỹ đào mỗi năm 1 tỷ tân than phát điện, lấy điện đó nuôi nhân viên và chế tạo máy, thật ra là trợ giá khí đốt, nhờ thế khai thác được metal đá phiến sét. Metal được dùng từ lâu, được lấy lên cùng phương pháp đốt trong mỏ để khí hoá than đá hoặc đá phiến dầu, còn cái chiêu quảng cáo để Ba Lan bầu cử TT m,à không sợ Gấu này nhạt rồi, phái thân Gấu vẫn thắng.
    http://doanhnghiep.od.ua/DNO2010/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2015844
    Khoang ngang thì có từ lâu, nước Mèo mới có vài năm thôi à, bi h mới được lợn thông báo là Mèo chậm phát triển nhể. Vịt còn nhiều khí, đang phải đốt bỏ một phần, nên chưa phải chi phí đến thế, thank lợn nhá. Nga, Iran đều có nhiều khí và cũng chỉ mới khai thác mỏ rẻ, cũng vẫn phải đốt bỏ một phần, nhưng hạt nhân vẫn cứ rẻ. Với vài chục triệu đô la của lợn, không đủ khoan cái lỗ khoan Thái Bình đâu.
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN giúp từng địa phương tìm cách tạo điện và nhiên liệu ngay ở địa phương của mình. Lợn học kinh tế trên thiên đường. Người ta làm to cho rẻ, tập trung cho rẻ. Hay chở than quảng ninh về mỗi nhà có cái nồi hơi. Càng ngày càng thấy giống vịt sa mạc chúng liệt não thật. À mà sao vịt sa mạc không "tư vẫn" cho chính phủ Mèo làm mỗi nhà Mèo một nồi hơi.
    Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN giúp người dân dùng bếp ít tốn than củi giống như ở Trung Quốc, và các quạt gió nhỏ để thắp sáng ban đêm. Nhà vịt dùng than tổ ong lâu rồi, cho lợn về ngửi khói than tổ ong nhá. Đến ngày hôm nay mà con có thứ lợn khuyến khích dùng than tô ong. CÒn ở Thanh Hải xa xôi, không sông thác, không than, 60 năm qua không điện, mới phải dùng thế. Còn những vùng không điện ở Vịt thì đầy máy thuỷ điện gia đình, hiệu quả hơn nhiều ở xứ mưa, thank lợn.
    http://www.techmartvietnam.vn/Members/vkhtl/200410069891259360
    http://www.google.com.vn/search?hl=vi&client=firefox-a&rls=org.mozilla%3Aen-US%3Aofficial&q=thu%E1%BB%B7+%C4%91i%E1%BB%87n+mini&aq=f&aqi=&aql=&oq=&gs_rfai=
    Càng sủa nhiều thì càng tuôn ra phân lợn có độ thối hơn. Không thể tưởng tượng được Vịt sa mạc đầu lợn đến như thế.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 09:41 ngày 08/07/2010
  2. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Điện hạt nhân Ninh Thuận: Chọn công nghệ của nước nào?
    --------------------------------------------------------------------------------


    - ANH QUÂN
    12:07 (GMT+7) - Thứ Tư, 26/5/2010

    Tháng 11/2009, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
    Theo đó, Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, gồm hai nhà máy với công suất trên 4.000 MW. Công nghệ chính là lò nước nhẹ cải tiến, thế hệ lò từ thứ ba trở lên, đã được kiểm chứng, đảm bảo tuyệt đối an toàn và hiệu quả kinh tế tại thời điểm lập dự án đầu tư. Tổng mức đầu tư của dự án khoảng 200.000 tỷ đồng (tại thời điểm lập dự án, quý 4/2008).
    Năm 2014, sẽ khởi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, đưa tổ máy đầu tiên vận hành vào năm 2020. Căn cứ vào tình hình chuẩn bị, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội quyết định thời điểm khởi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2.
    Từ 27-29/5/2010, để cung cấp thông tin phục vụ cho việc thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, triển lãm quốc tế lần thứ 4 về điện hạt nhân sẽ được tổ chức tại Hà Nội.
    Nhân sự kiện này, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam Vương Hữu Tấn và Trưởng ban Chuẩn bị đầu tư dự án điện hạt nhân và năng lượng tái tạo (Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN) Phan Minh Tuấn đã trả lời báo giới về các vấn đề liên quan đến dự án nhà máy điện hạt nhân.
    Đang tích cực triển khai
    Xin các ông cho biết, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đang được triển khai đến giai đoạn nào?
    Ông Phan Minh Tuấn: Dự án đang được chuẩn bị theo quy trình chuẩn của quốc gia. Tháng 11/2009 Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư và cho phép chủ đầu tư tiến hành bước theo.
    Theo lộ trình chúng tôi đang ở giai đoạn báo cáo nghiên cứu khả thi. Giai đoạn này chúng tôi đang xúc tiến tìm kiếm đối tác tư vấn để thực hiện dự án. Các tham chiếu, hồ sơ yêu cầu chúng tôi cũng đã dự thảo xong, xin ý kiến đối tác có kinh nghiệm, chờ tập đoàn phê duyệt sẽ gửi cho đối tác đàm phán.
    Dự kiến, thời gian tiến hành dự án đầu tư này sẽ được tiến hành trong 18-24 tháng. Sau đó, sẽ chuyển qua lựa chọn nhà tổng thầu thực hiện dự án theo hình thức chìa khoa trao tay. Mọi công việc đang được tiến hành khẩn trương.
    Song song với dự án đầu tư thì một lọat công việc khác cũng đang được triển khai khẩn trương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch tổng thể nhằm triển khai dự án. Gói chuẩn bị hạ tầng cơ sở chuẩn bị cho thi công cũng đang tích cực triển khai.
    Dự án trung tâm tiếp xúc điện hạt nhân với dân chúng tại Phan Rang, Tháp Chàm cũng đang được xúc tiến thủ tục đầu tư ban đầu. Dự án đào tạo nhân lực cũng đang được thực hiện sớm triển khai. Các bộ, ngành khác được sự phân công cũng đang tiến hành các đề án.
    Mục tiêu trong 2014 chúng ta sẽ phải tiến hành khởi công tổ máy đầu tiên theo nghị quyết của Quốc hội, và trong vòng 6-7 năm xây dựng, chúng ta phải hoàn thành và vận hành được.
    Ông Vương Hữu Tấn: Ngoài ra còn có các công việc khác như xây dựng các thông tư, nghị định, cái này thuộc thẩm quyền cơ quan quản lý nhà nước phải lo, rồi ký kết gia nhập các điều ước quốc tế phù hợp với tiến độ xây dựng?
    Chọn công nghệ Nga?
    Xin hỏi, các cơ quan liên quan đã có thông tin cụ thể gì về công nghệ được lựa chọn?
    Ông Phan Minh Tuấn: Theo báo cáo trước đây và nghị quyết của Quốc hội thì chúng ta lựa chọn công nghệ an toàn, hiện đại, và đã được kiểm chứng.
    Hiện nay, EVN cũng tuân thủ hướng này của Chính phủ và Quốc hội. Chúng tôi đang bắt đầu cuộc đàm phán đối tác từ Nga, là đối tác được Chính phủ định hướng. Đây là nước sở hữu công nghệ và có bề dày về công nghệ hạt nhân vì mục đích hòa bình cũng như thương mại.
    Tới nay công nghệ lò phản ứng nước nhẹ của Nga cũng đã cho thấy vận hành an toàn trong khoảng nửa thế kỷ qua. Nếu đi sâu với họ trong dự án này thì chúng ta cũng phải tuân thủ tiêu chí Quốc hội đã thông qua.
    Tuy nhiên, công nghệ nào thì chúng ta phải đợi tới khi có quyết định cuối cùng chính thức được ký kết, cũng như phê duyệt của cấp có thẩm quyền. Ý tôi là hiệp định liên Chính phủ Việt - Nga với dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Sau hiệp định sẽ là báo cáo nghiên cứu khả thi và chìa khóa trao tay giữa chủ đầu tư và tổng thầu.
    Chúng ta chờ xem, dự án đầu tư sẽ nói rất rõ, và bây giờ chúng ta đang đợi hợp tác ban hành.
    Trên góc độ là các chuyên gia trong ngành, theo các ông, việc chọn Nga là đối tác - nếu được thông qua - có phải là đã tính hết các khía cạnh rồi không?
    Ông Phan Minh Tuấn: Đây là bài toán được cân nhắc trong suốt thời gian dài và quyết định này được đưa ra với tính toán tổng thể tầm quốc gia với nhiều vấn đề liên quan.
    Xét trên số liệu căn cứ thì công nghệ của Nga cũng là một công nghệ an toàn bậc nhất hiện nay, nếu so sánh với công nghệ khác trên thế giới, cùng là lò nước nhẹ ở Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Nhật?
    Nga có truyền thống lâu dài về vận hành an toàn. Nhiều khách hàng nước ngoài đang đặt hàng công nghệ này của Nga.
    Trong dự án đầu tư tiếp theo, chúng tôi cũng sẽ phải yêu cầu các chủ đầu tư có luận cứ thiết thực để chúng ta có thể đưa ra quyết định cuối cùng. Kết quả sẽ được Thủ tướng quyết định.
    Xin hỏi các ông, giả sử nếu đã chọn Nga là đối tác, việc các nước như Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc, Mỹ? đến tham dự triển lãm lần này nên hiểu thế nào?
    Ông Vương Hữu Tấn: Tổ máy số 1 mình chọn Nga rồi, còn những tổ máy số 2, 3? và nhiều cấu phần của dự án nữa, vì công trình điện hạt nhân có nhiều công đoạn? Cơ hội còn cho các nước khác.
    Ông Phạm Minh Tuấn: Trong giai đoạn từ nay tới 2030 và 2050, chúng ta dự kiến phát triển từ 8 - 10 dự án điện hạt nhân, theo quy hoạch cũng phải có 8 - 10 địa điểm xây dựng. Do vậy, với các mục tiêu đó thì các đối tác khác vẫn nhiệt tình tham gia.
    Danh sách tham dự lần này đều tụ tập được các "anh hào" trong lĩnh vực hạt nhân, hai "ông lớn" là Nga và Mỹ đều tham gia mạnh mẽ, Nhật, Trung Quốc cũng có mặt?
    Nước được chọn phải hỗ trợ tài chính
    Với sự quan tâm lớn của nhiều đối tác mạnh, các ông có đặt vấn đề tài chính trong các đàm phán, lựa chọn đối tác?
    Ông Vương Hữu Tấn: Về vấn đề tài chính cho dự án, sắp tới trong việc đàm phán với Nga, vấn đề này cũng sẽ có đàm phán riêng.
    Ông Phan Minh Tuấn: Tài chính cho một dự án thì rất là lớn, suất đầu tư cho một nhà máy điện hạt nhân cao nhất trong tất cả các loại hình phát điện công nghiệp hiện nay. Do đó, đây sẽ là bài toán tổng hợp.
    Chúng ta hiện đang kỳ vọng lớn vào nước cung cấp dự án cho chúng ta, họ sẽ phải hỗ trợ một nguồn tài chính. Ngoài ra, chúng ta cũng phải tự lo từ 15-20% từ nguồn hỗ trợ Chính phủ, hay chủ đầu tư vay thương mại qua trái phiếu trong và ngoài nước qua bảo lãnh của Chính phủ.
    Liên quan đến vấn đề xử lý chất thải hạt nhân, cách đây không lâu, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng ký với Mỹ văn bản hợp tác về vấn đề này. Phải chăng công đoạn này là dành cho Mỹ?
    Ông Vương Hữu Tấn: Văn bản Bộ Khoa học và Công nghệ ký với Mỹ là hiệp định khung gồm có nhiều vấn đề, trong đó có quản lý và xử lý chất thải. Riêng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận đã ký với Nga thì về cơ bản, phía bạn sẽ đảm bảo tiêu chí an toàn về vấn đề này.
    Ông Phạm Minh Tuấn: Một trong những điều kiện mà đối tác ký kết với chúng ta là họ sẽ giúp ta quản lý và xử lý chất thải hạt nhân, cụ thể là giúp ta xây dựng chương trình quốc gia về quản lý và xử lý chất thải của nhà máy điện hạt nhân mang tính cam kết lâu dài.
    Đất chiếm không nhiều, dân được hỗ trợ
    Nếu theo quy hoạch sẽ phát triển 8-10 nhà máy điện hạt nhân thì diện tích đất cần sử dụng là bao nhiêu?
    Ông Vương Hữu Tấn: Một nhà máy điện hạt nhân chỉ cần 300-500 ha, là những nơi mà đất đai khô cằn hoang hóa không còn canh tác được, bỏ không, nên không ảnh hưởng nhiều tới đời sống cư dân.
    Ông Phan Minh Tuấn: Chiếm đất thì sơ bộ cho hai nhà máy là trung bình một tổ máy có công suất 1.000 MUW nằm trong hàng rào nhà máy vùng giới nghiêm chỉ hơn 40 ha/tổ máy. Công suất 4.000 MW thì chúng tôi rào 160 ha.
    Còn về lý do an ninh an toàn thì sẽ có những vùng đệm chúng ta hạn chế dân cứ và sắp xếp dân cứ có tổ chức. Chúng tôi cũng có kế hoạch là đảm bảo những vùng đất của dân cư canh tác hạn chế tối đa ảnh hưởng, chỉ cần không được ở đó, tìm cách giữ lại những ruộng nho, ruộng lúa của đồng bào.
    Các vấn đề xã hội thì Luật Năng lượng nguyên tử cũng đã nêu rõ là cư dân ở vùng có nhà máy điện hạt nhân thì sẽ dược hưởng ưu đãi cho các hạ tầng cơ sở, văn hóa, sản xuất, giáo dục cải thiện hơn. Chúng tôi cũng đang làm theo hướng đó và dự án đầu tiên phải làm mẫu cho một loạt dự án sau.
    Một quan ngại khác là về nguồn nhân lực phục vụ các các dự án điện hạt nhân. Xin các ông cho biết kế hoạch cụ thể?
    Ông Vương Hữu Tấn: Đào tạo nhân lực thì hiện theo quy hoạch có 7 cơ sở, gồm: Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội, Viện Năng lương nguyên tử, Viện Vật lý; Đại học Đà Lạt, Đại học Khoa học tự nhiên Tp.HCM, Đại học Công nghệ Tp.HCM, và Đại học Điện lực. Ngoài ta còn một số trường đang kiến nghị thêm vào danh sách này như Đại học Công nghệ Hà Nội, Công nghiệp Tp.HCM?
    Ông Phạm Minh Tuấn: Về nguồn nhân lực, chúng ta cũng không thể cử người đi học tập ở Pháp, Nhật, Trung Quốc mãi được, mà phải tổ chức đào tạo tại chỗ. Chúng ta đang học tập các nước ngày và một số quốc gia khác để đào tạo mặt bằng kiến thức chung về năng lượng hạt nhân.


  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Bản thân Gen III đợt đầu là EPR và AP-1000 là sự lừa đảo để dội mồ sống lại sau 30 năm ngỏm củ tỏi bởi TMI, chúng không có gì tiến bộ đáng kể trừ phần điện tử-đương nhiên sau 30 năm cách mạng điện tử. 2 cái nhố nhăng là hydro recombider và CORE CATCHER là để thoả mãn hai điều bịa đặt của tai nạn TMI-II.
    Cái cải tiến lớn nhất của các hệ EPR, AP-1000, ABWR, OPR, APR Nam Cao Ly Nhật là nén gấp rưỡi mật độ phản ứng, không cần phải bác học cũng biết chúng không thể chống được sự cố mất làm mát và xì hơi lõi ra khi đó. ABWR thì xì đều ngay cả khi không có sự cố, nhiễm xạ nặng toàn bộ nhân viên cho đến các turbine khổng lồ. Hay điện tử là an toàn hạt nhân thụ động ?
    Thêm nữa, tất cả các lò Gen III đợt đầu đó, gồm EPR và AP-1000 đều gặp những kiện cáo mang tính lừa đảo bẫy cò ke, cả ở Phần Lan, Tầu, Mỹ.
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-60.ttvn#16478543
    http://www.tuanvietnam.net/2009-11-12-cau-tha-nguyen-tu-
    http://www.pvgas.com.vn/vi/NewsDetail.aspx?id=5466
    http://tintuc.xalo.vn/00-2124753605/lo_ngai_ve_nha_may_dien_hat_nhan_epr_nbsp.html
    http://tailieu.tapchithoidai.org/NKNhan_EPR_RFI.pdf
    http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/200947/20091120232350.aspx
    Công nghệ chính là lò nước nhẹ cải tiến, thế hệ lò từ thứ ba trở lên, đã được kiểm chứng, đảm bảo tuyệt đối an toàn và hiệu quả kinh tế tại thời điểm lập dự án đầu tư. Hoàn toàn tàm bậy lừa đảo. Cái thử thách lớn nhất mà chúng có được là sự phá sản nhiều lần của Framaton, Areva, AP-1000, liên tiếp chuyển nhượng cổ phần, tái cơ cấu, cắm ống thở và bị thôn tính. Cái thử thách lớn thứ 2 mà cũng có được là bất cứ đâu cũng có biểu tình phản đối và đơn kiện lừa đảo, tăng khống giá xây lò (kết quả của lừa đảo bẫy cò ke).
    Sau các EPR, AP-1000, OPR, APR, thì các VVER, ABWR, AGR cũng đăng ký Gen III, nhưng chưa một lò nào chạy, chưa lò nào lắp nhiên liệu, và trừ những lò có tính truyền thống của Nga, Nhật, Anh, thì AP và EPR chỉ toàn xuất hiện những vụ kiện lừa đảo. AP-1000 thì cãi vã ở cả Mỹ lẫn Tầu. EPR thì được chính anh em một nhà là EDF tuyên lừa đảo thiết kế trong hệ thống an toàn. AP-1000 và EPR được ANh Quốc và nhiều nước khác cấm cửa đến ít nhất 2015.
    Thử thách ở đâu, lò Gen III đầu tiên Phần Lan chạy 2012, Tầu AP-100 2013, Mỹ thì Obama mới mua năm nay, EPR Đài Sơn Tầu đang mới chớm xây, EPR Ấn Độ đang bị đình lại vô thời hạn sau khi ký 2009. Normandie EPR đang xây.
    Ngay cả các lò thừa kế tính an toàn của VVER là AES-2006, NPP-2006 Thổ chưa khởi công, Leningrad II chưa chạy, Kaliningrad mới khởi công. Bác thử hỏi đã có lò nào lắp nửa thanh nhiên liệu mà dám kêu tử thách, con lợn nào nói điều đó hả bác ? ABWR Nhật và AGR Anh đăng ký Gen III nhưng chưa bán đi đâu.
    Ở cái xứ mà lãnh đạo luôn tự coi minh là kẻ thù của dân chúng ?, sẵn sàng bán nước bán dân ? và chúng ngu đến mức tưởng ai cũng ngu như chúng ?
    =======================
    Uran 235 chỉ chứa 0,72% tự nhiên, trong quá trình làm giầu ở Mỹ Pháp đã mất đi 0,25%, chỉ còn cỡ 0,5%. Thêm nữa, phải bỏ lại một chút khi lấy ra khỏi lò. Thori thì bản thân nó phải tái sinh mới thành nhiên liệu. Vậy nên, lượng nhiên liệu lớn nhất là U238 và thori nhưng phải qua tái sinh thành pluton 239 và u233, lớn gấp hàng trăm lần U235. EPR khoe tiết kiệm nhiên liệu, nhưng đó là tiết kiệm so với các lờ PWR cũ của nó, còn vẫn là lò ăn vã. Nước Mỹ chỉ dùng 0,4 % U tự nhiên, Pháp dùng 0,9% (thật ra không đến, Pháp không tính sô U235 bỏ lại trong DU mà coi đó là để dùng sau!!! chiêu quảng cáo khi bán cái nhà máy tái chế xây mãi không xong cho Mèo). Lò nước nhẹ là lò ăn bớt mất tỷ số tái sinh bằng cách cho H1 ăn neutron của U238, để dễ điều khiển. Mỹ, rồi Pháp, Tầu thất bại trong mọi nghiên cứu lò khác nên dùng thứ này, Liên Xô phải tung ra cạnh tranh xuất khẩu, Đức NHật không có kinh phí quân sự đỡ lưng phải dùng lõi kỹ thuật Mỹ. Đây cũng là một kết quả quái thai của W2, làm dòng kỹ thuật 600 năm chảy xuôi bị tạm chảy ngược, và kết quả của sự quái thai này là nạn ăn vã quặng.
    Thật ra, sau TMI, các chủ lò bên Mèo hoàn toàn có khả năng xin thêm giấy phép xây dựng, đặc biệt đến khi Tầu và Úc đào hàng núi than, thì chả lẽ nước Mèo cạnh tranh vì than ? sao nổi với 3 tỷ tấn hàng năm của Tầu. Nhưng chính vì tương lai chưa hết tuổi lò đã hết quặng, nên mới xì tóp ở đó. Sau khi thị trường phát triển, Mèo và Tây tưởng hết quặng nhà thì đi cướp được, nhưng Nga Tầu Ấn nó cướp khoẻ hơn, Nam Cao Ly cũng cớn lên, Nhật Đức cũng a dua, nên phong trào tái bùng phát lừa đảo Gen III+ của EPR và AP-1000 tự động tắt điện.
    BN là chương trình Fast Neutron của Liên Xô-Nga, tên của lò là lò kim loại nóng chảy, gồm các BOR nghiên cứu chạy 1968, BN-350 chạy kinh tế 1973, BN-600 thử nghiệm kinh tế nối tiếp 1980-2020, BN-800 đình đốn xây dựng sang năm chạy, BN-1200 khởi công sang nâm, lò Ấn Độ 550 có ruột BN do Ấn chế tạo bằng chuyển giao kỹ thuật chạy sang năm, Tầu định mua 2 BN-800 nưng đình lại do khủng hoảng, các lò đó là natri. Các BN khác là chì-bismuth của Lira Class chạy cuối 196x, BREST gồm BREST-OD-300 hiện đang bàn kỹ chi tiết ở Ấn Độ, BREST-1200 đang cãi nhau vì xiền ở Nga, BREST là lò chì làm giầu Pb208, loại lò tuy đắt nhưng hiện nay là hy vọng thiết kế tốt nhất, mọi nhẽ, đầy đủ các yêu cầu an toàn, tái sinh.... Nhiều người gọi BN là natri nóng chảy, em nghĩ thế cũng chẳng sao, và cũng có khi thế mới đúng chứ không như em nghĩ. HTGG là lò khí truyền nhiệt có nhiệt độ cao High temperature gas cooled reactor, một phát triển từ Magnox, AGR ANh Quốc, được Đức phát triển và Nhật cõ một mẫu thử.
    Một kiểu trong nhóm Super VVER là lò làm mát hơi nước cũng có tính năng như HTGR, nhưng nhiệt độ thấp hơn, mật độ hơi nước thấp nên lượng neutron mất ít đi.
    Khi đốt lò, tỷ lệ nhiên liệu mất đi và tái sinh tạo ra được gọi là tỷ số tái sinh lõi, core breeding ratio CBR. Tuỳ loại lò mà phần tái sinh cháy ngay trong lõi nhiều hay ít, cho ta khả năng tái sinh thực tế sau khi thay đảo, với lò chế bom thì Pu chủ yếu là lấy ra, ngược lại với phát điện. Ví dụ, bác có CBR >=1 thì bác sẽ có khả năng ăn hết U238, chỉ tháo nhiên liệu ra tái chế do cấu trúc của nó hỏng. Khi CBR =0,9, bác hao nhiên liệu U235 1 phần thì đã được đốt 10 phần, khi bác đốt nhiên liệu từ 0,72% đến 0,3% như Candu, là bác xời được 4% tổng U235 - 238, hay bác làm giầu lên 2% rồi ăn đến 1% cũng vậy. Với CBR 0,8 thì bác chỉ xời được 2%. Với CBR 0,6=1%~ EPR nước Pháp. Nhưng để có 0,6, thì EPR nước Pháp phải tái chế pluton, do pluton khi cháy đẻ ra nhiều neutron hơn, nâng cao CBR, giảm giá thành điện, nhưng lại phải õng ẹo với Gấu to bụng. Thật ra, giá điện EPR có nhiều cái bấp bênh như thế, đã bấp bênh lại lệ thuộc vào Gấu, lệ thuộc hoàn toàn các khâu lõi hạt nhân.
    Như vậy, CBR ở cận 1 là điểm quan trọng, chỉ nhích lên một chút là khả năng tiết kiệm cao hơn rất nhiều, thật ra, các lò tiên tiến cần quá 1 nhiều vì còn cõng tầu ngầm CBR thấp.
    Em đang đinh pót. Thật ra, về nguyên lý, em đã post rồi, nhưng rào cản kỹ thuận không phải là nguyên lý mà ai cũng biết, mà các giải pháp cực kỳ khó khăn, cần thử nghiệm lâu dài, thiếu điều đó các chương trình tương tự đã chết.
    Rào cản chính là về nhiên liệu và tái chế, Gấu đang thử nghiệm bước nhiên liệu mới trong BOR và BN-600 đang chạy, sang năm, chúng bắt đầu thử nghệm tái chế quy mô công nghiệp nhiên liệu mới, và khoảng 2016 thì kỹ thuật nhiên liệu mới này sẽ vượt qua biên giới các BN, đến các VVER, hàng Super VVER hay như những cải tiến VVER truyền thống có thừa kế tiế bộ mới, như VVER-1300.
    BOR còn được gọi là BN-60, thật ra không đúng lắm, vì đó là 60 MWt không phải MWe, đây là cái BN đầu tiên chạy 1968, được thiết kế làm lò thử nghiệm khoa học. Các cải tiến nhiên liệu mới bao gồm tái chế ít dây phóng xạ ra nước bằng phương pháp hoá nhiệt độ cao trong dung dịch muối nóng chảy=ít dùng nước dây bẩn xạ.
    Phần nữa cải tiến thanh nhiên liệu bền hơn, bền về số nhiên liệu có thể cháy được, do đó, nâng cao được chu kỳ thay đảo. Như bác thấy, trong thập niên 200x, không có tiền xây lò mới, nhưng Gấu tăng công suất trung bình điện hạt nhân lên mấy chục %, mà chỉ tăng mật độ toả nhiệt trong lò cũ lên 4%, 5%, 7% (VVER-1000, RBMK, VVER-440). Việc làm giầu cao rồi nhét chấp hấp thụ của lò nước nhẹ là giải pháp rẻ tiền, nhưng làm hao nhiên liệu đi nhiều vì mất neutron vào chất hấp thụ.
    Cải tiến thứ 3 là BN-1200 hoàn toàn khác biệt về bố trí lõi, lò này đáng ra đã khởi công trong năm nay, nhưng do khủng hoảng, nó đình lại 2011 cùng với việc khánh thành lò tái sinh 550 Ấn Độ, việc 2 lò BN-800 Tầu hiện đình lại chưa có công bố mới. Người ta bán tán rất nhiều về việc Pháp vội vàng xây SuperPhenix 1200 khi chưa khánh thành và chạy thử Phenix nhỏ, với cấu tạo lõi rất giống BN, nhưng bớt đi vài điều quan trọng. Có phải Gấu cố tình để lọt tài liệu sau khi đã làm rách một vài góc ? và Framaton đã phá sản vì sự nghiệp nghiên cứu của Gấu ? Không biết Gấu có la liếm tín nèo trong 10B SuperPhenix đem xuống mồ không, nhưng BN-1200 có nhiều biến đổi. Nó có lõi lò siêu dẹt, cao 650mm và rộng 5 mét, mật độ toả nhiệt theo thể tích giảm xuống 1/2, cả hai điểm này đều làm tỷ lệ thất thoát neotron cao lên do với BN-600, BN-800. Tuy vậy, CBR vẫn đạt đủ gần 1,4 khi áp dụng đầy đủ các kỹ thuật nitric và pluton. Khi dùng uran không pluton dạng oxid thì CBR là 0,8.
    BN
    http://www.coal2nuclear.com/BN-800%20Construction%20Photos.pdf
    http://www-pub.iaea.org/mtcd/meetings/PDFplus/2009/cn176/cn176_Presentations/parallel_session_8/08-02.Shepelev.pdf
    http://worldwidescience.org/topicpages/b/BN-800+Reactor.html
    BN-800, BN-1200: CORE DESIGN AND FUEL CYCLE OF ADVANCED FAST REACTOR WITH SODIUM COOLANT
    BN-600 Hybrid Core Benchmark Analyses
    BN-600 Full MOX Core Benchmark Analysis
    POWER UNIT 15-YEAR OPERATING EXPERIENCE
    DESIGN OF THE ADVANCED REACTOR BN-600M
    BREST
    http://www.nikiet.ru/eng/publications/nfcnp/Lopatkin_paper.pdf
    SVBR
    http://www.iaea.org/NuclearPower/Downloads/SMR/CRPI25001/2007_new/YR2dedul.pdf
    Trong câu lạc bộ hài hước Gen IV giá 6 tỷ, thì có 3 cái phương Tây mơ hoang của Nga, là BN (lò natri , tiếng Tây là Sodium-Cooled Fast Reactor (SFR) , SVBR và BREST=lò chì, tiếng Tây là Lead-Cooled Fast Reactor (LFR) , lò hơi nước tải nhiệt - nhưng cái này Gen IV biến đổi khá nhiều thành lò quá tới hạn Supercritical-Water-Cooled Reactor (SCWR)= mất toàn bộ các nguyên lý ưu việt của hệ thống Super VVER.
    http://www.gen-4.org/Technology/systems/scwr.htm
    Реак,о? на б<с,?<. ней,?она. = BN, thường được dùng chỉ các lò natri trong tiếng Nga, điều này hơi sai, nghĩa của nó là neutron nhanh. Nhưng vì BOR, BN-350.... được dùng đầu tiên nên các lò sau như lò chì-bismuth SVBR, chì làm giầu Pb208 BREST được gọi bằng tên riêng. Chúng còn có tên là lò kim loại nóng chảy Р-oТ .
    việc sử dụng nhiên liệu trong lò neutron chậm: Mỹ + Pháp+ Tầu+ Đức + Nhật và Canada, Anh, Liên Xô, 3 dòng lành mạnh, 1 dòng ăn cắp tương lai
    Có hai loại lò hạt nhân theo phân bố lớn nhất, là neutron chậm và neutron nhanh. Lò neutron chậm dùng chất điều hoà như nước nặng nhẹ, than chì.... làm chậm và phân bố phổ tốc độ neutron ở dải nhiệt độ thấp, còn gọi là neutron nhiệt, thermal neutron.
    Chất làm chậm=chất điều hoà là những chất chứa các hạt nhân nhẹ, chúng tản đồ thị neutron ra thành dải thấp và rộng, có nhiều neutron tốc độ rất thấp và nhiều neutron tốc độ rất cao. Trong khi đó, những hạt nhân nặng làm điều hoà sẽ cho phổ tốc độ tập trung quanh trị trung bình, đồ thị cao và hẹp nhọn.
    [​IMG]
    Đây là đồ thị khả năng phân rã của nhiên liệu, nhưng dùng đơn vị ev, dễ dàng quy đổi ra m/s. Khi neutron chậm, phản ứng phân rã cao lên, phản ứng hấp thụ tái sinh giảm đi.
    [​IMG]
    Lò neutron nhanh, fast neutron là dùng những chất nặng, hoặc không dùng chất nào. Khi không dùng chất điều hoà hoặc rất ít hiệu ứng điều hoà như lò khí không điều hoà, thì khả năng ổn định phản ứng chỉ lệ thuộc vào nhiệt độ nhiên liệu=khó kiểm soát. Khi mới bắn ra khỏi uran, neutron có năng lượng trung bình khoảng 2mev. Mức này khá cao để cân bằng phản ứng với uran nghèo, nên phải dùng điều hoà làm chậm neutron đi khi dùng uran nghèo, và lò fast neutron cần làm giầu cao.
    Các lò có khả năng điều khiển tốt hơn là lò có điều hoà than chì nhưng nhiệt độ cao Very High Temperature Reactor VHTR , cũng là High temperature gas cooled reactor HTGR thuỳ cách gọi. Khi đó, neutron vẫn được điều hoà nhưng có dải nhiệt độ cao. Và đường nhiên dễ điều khiển và phổ biến nhất là các lò natri, chì.... chúng là lò dùng chung chất điều hoà và làm mát, thật sự là có điều hoà mặc dù người ta thường nói không, làm việc ở dải nhiệt 500 độ C, do chất điều hoà nặng nên nhiệt độ điều hoà ở mức cân bằng cao. Các lò này đều là fast neutron.
    Lò neutron chậm dùng cho uran 235 hay pluon 239 nghèo so với U238. Khi đó, xu hướng phản ứng hấp thụ tái sinh làm mất neutron tăng lên, để cân bằng, phải giảm nhiệt độ điều hoà xuống 70-100 độ như nước nặng hoặc 100-200 độ như than chì, đây là nói nhiên liệu uran tự nhiên. Tỷ lệ chất điều hoà trong lõi phải khá lớn, nếu không neutron sẽ xuyên qua mà không va vào chất điều hoà để trao đổi năng lượng. Do đó, mật độ nhiên liệu và neutron trong lõi thấp, neutron bị thất thoát nhiều qua vỏ và chất điều hoà ăn đi. Người ta cố tìm những hạt nhân ăn ít neutron như He, than chì, nước nặng.... nhưng do chúng nhiều quá nên tổng chúng ăn không ít. Do đó, tỷ số tái sinh của lò neutron chậm giảm đi nhiều.
    Lò nước nhẹ nén còn giảm nữa do người ta dùng khả năng hấp thụ rất dễ điều khiển của H1 trong nước, khi ở cận 300 độ C, mật độ neutron giảm nhanh theo nhiệt độ làm lò dễ điều khiển. Nhưng H1 lại ăn neutron của U238 và do đó tỷ số tái sinh của loại lò này là rất thấp. Thêm nữa, nước tải nhiệt tốt nên mật độ toả nhiệt cũng nâng cao dễ dàng, lõi lò bé, rẻ. Hậu quả là Mỹ Pháp đã chén sạch bác quặng khá nhiều của họ, mà đáng ra đủ ngàn năm. Thật ra, lò nước nhẹ các loiaj là đẳng cấp kỹ thuật lõi hạt nhân trộn đều, thấp nhất, là lò tầu ngầm mà người ta chó dại bùng phát điện quy mô lớn. Cái khác của tầu ngầm là bất chấp mọi giá, đã có thằng cõng CBR, nay điện dân sự đã không cõng tầu ngầm còn a dua theo.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:39 ngày 08/07/2010
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Trừ Pháp Mỹ NHật Tầu Đức và Liên Xô xuất khẩu, thì nội địa Liên Xô, Anh, Canada sử dụng bước thứ 2 của lò neutron chậm là kênh. Thật ra, AGR Anh Quốc nâng nhiệt độ cân bằng lên bằng làm giầu, nhưng vẫn được coi là kênh, các lỗ trong than chì và ống nhiên liệu tạo thành các đường làm mát riêng tách biệt rõ ràng. Khi làm giầu, xác xuất neutron va phải U235 và Pu239 cao, nâng cao tỷ số phân rã / tái sinh, nên nhiệt độ cân bằng của chất điều hoà cao lên. Candu thì không làm giầu mà tách nhiệt độ nhiên liệu ra khỏi nhiệt độ điều hoà, RBMK dùng cả hai cách. Các loại lò này đều có khả năng sử dụng toàn bộ U238 (như ADE) với CBR 1, nhưng khi đó chúng to nặng, tái chế nhiều, không kinh tế trong thời đại còn nhiều quặng tự nhiên, các nước này duy trì khả năng sử dụng 2%-4%.
    Trong thực tế , tỷ số này thấp hơn 4% do lúc đó quặng rẻ. Anh làm giầu cao lên, giảm tái sinh, cho lò gọn nhỏ. Canada thì có đường dây buôn lậu sản phẩm lò, cả pluton và T3, lẫn uran chưa xài hết sang Mỹ. Liên Xô thì lấy Pu tươi ra làm bom và Pu nặng ra trữ dự phòng làm bom xấu . Pu tươi là Pu có chu kỳ thay đảo nhanh, 3 tháng, ít Pu240, làm bom tốt, còn gọi là đẳng vũ khí Weapons-grade. Pu reactor grade là có chu kỳ thay đảo lâu hơn. Thật ra, Pu nào cũng làm bom tốt, đây là cái ngớ ngẩn nhồi sọ não đông từ thời kỹ năng làm bom còn sơ khai.
    Cả Anh và Liên Xô đều áp dụng kỹ thuật thay đảo, để Pu mới sinh cháy ngay trong lò, lượng Pu+U235 giảm dần và bó nhiên liệu được chuyển dần ra ngoài. Ở giai đoạn sau, chúng đặt làm tường chắn neutron và U 235 được thay dần bằng Pu, điều này làm giảm giá tái chế. Anh và Canada chỉ dừng chút ít khi thay đảo, vì thay đảo từng kênh khi lò đang chạy.
    Canada có candu không cần CBR mà có giá nhiên liệu gần bằng không, nhiên liệu thải ra của Mỹ không hề được tái chế dân sự, Mỹ là con số không tròn trĩnh về hạt nhân., mặc dù lắm biến dị mõm và liệt não. Người Ca làm các ống dầy (hơn 1mm), ngắn (500mm) bằng Zr+ 2%Nb (gần giống Liên Xô ống mỏng 1%Nb và khác xa Mỹ dùng Zr số 4=hợp kim Zr với sắt, chrome, ni....), rồi chặt vụn nhiên liệu dùng rồi Mỹ, không tái chế, nén He truyền nhiệt, hàn kín và xài luôn, có 0,9-1,2% =&gt; nhiều u tự nhiên 0,7%. Nhiên liệu này đã được ủ rất kỹ sau nhiều chục năm tìm cách tái chế không nổi, nên đã khá lành, máy móc không cần cầu kỳ.
    Với các lò nước nhẹ nén, thì nếu làm giầu không cao như VVER-440, VVER-1000 có cấu hình nhiên liệu làm giầu không cao (áp dụng cho cả các đời VVER-1000 và VVER-1200 bên cạnh làm giầu cao đến 5,5%), thì có thể sử dụng đến 2% nhiên liệu. VVER thường dùng uran, không dùng pluton, nhưng khi dùng MOX thì VVER-1200 làm giầu cao cũng xài được đến 2% nhiên liệu. Sau này, khả năng tận thu nhiên liệu của VVER cũng tiếp tục được tăng khi áp dụng nhưng tiến bộ nhiên liệu như nitric, nhiên liệu rung. Khi sử dụng làm giầu cao mà không áp dụng các tiến bộ cải thiện CBR, VVER có khả năng sử dụng nhiên liệu như là EPR nước Pháp, 1%.
    Ngoài tiến bộ về lò, một số tiến bộ khác có thể áp dụng chỉ bằng cải tiến, như làm mát, turbine, cũng nâng hiệu suất biến đổi nhiệt-công của VVER lên cỡ 10%. Thêm nữa, khi áp dụng các tiến bộ nhiên liệu mới, gồm một chuỗi cách giải pháp từ aFA 1998 đến nitride dự kiến, VVER tăng chu kỳ thay đảo lên 18-24 tháng, tăng hệ số sử dụng máy lên trên 0,8 và rất có thể đạt trên 0,9.
    Lò điều hoà than chì và truyền nhiệt khí nhiệt độ cao
    High temperature gas cooled reactor được ANh và sau đó là Đức phát triển các mẫu thử nghiệm, bán cho Nhật, Nam Phi, Tầu, nhưng rất đì đẹt. Lò có điều hoà than chì nhưng nhiệt độ rất cao, 1000 độ C, nhờ đó có nhiều neutron năng lượng cao, tái sinh tốt. Dragon reactor 20MW của ANh chạy từ 1962 đến 1976. AVR German Arbeitsgemeinschaft Versuchsreakto chạy từ 1966 nhưng rất ít chạy, 46MWt, làm mát He. Oarai, Ibaraki, Japan 30MWt có cái lõi 30 phân, chạy 1999, có tên high temperature test reactor (HTTR), cũng điều hoà than chì và làm mát He.
    Tsinghua University Tầu có HTR-10 10 MWt chạy 2003 và có bước to hơn ở Sơn Dông 200MWe, dự định chạy 2013.
    Ở Liên Xô trước đây, lò khí He đã được thử nghiệm, nhưng cũng chỉ dừng ở mức thử nghiệm nhỏ. Trong chương trình Super VVER có phương án làm mát hơi nước, tính năng tương tự, nhưng chưa được thử nghiệm.
    Sự đì đẹt của các lò này là do thiếu giải pháp đáng tin cậy ở nhiệt độ quá cao. Trong thực tế, không có nước nào bỏ tiền tổ chức nghiên cứu kỹ càng các khâu cơ bản của nó như cấu tạo nhiên liệu và thanh điều khiển, cũng như phân bố neutron, các tình huống khẩn cấp.
    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/1c/Very_High_Temperature_Reactor.svg
    [​IMG]
    Chúng ta quay lại BN.
    Cái lò phát điện đầu tiên cho được ra điện là lò Natri EBR-1 năm 1951. Người Mỹ thử nghiệm kênh rất sớm, X-10 ở Oak Ridge 1943. Sau đó, bản thân các Hanford 1944 ở Washington có cấu tạo hình học rất giống Candu sau này nhưng than chì. CP-5 hồi 195x cũng nước nặng, nhưng rồi các phương án kênh Mỹ đều dừng. Ban đầu, tầu ngầm dự tính dùng natri, nhưng sau đó dùng nước nhẹ và nước nhẹ bùng phát trong điện dân sự. EBR-2 năm 1969 chỉ còn là một người mẫu, để duy trì các hoang tưởng, làm liệt não quên đi nạn ăn vã nhiên liệu.
    Enrico Fermi 1 chạy cũng đoạn đó, đến năm 1970 thì dừng sau các tai nạn lớn. Sau đó, các phiên bản SuperPhenix, Monju phơi xác la liệt và không bao h qua mức thử nghiệm. Tại sao người ta cần chúng, vì CBR cao, tất cả chúng khi dùng pluton (chỉ cần 50%) và oxide hiện tại đều có CBR trên 1.
    Natri có nhiều nhược điểm, nó cháy dữ dội, hấp thụ neutron thành Na24 phóng xạ mạnh. Nhưng Na có nhiệt độ nóng chảy thấp, ít phá huỷ các vật liệu khác như chì, và rẻ.
    Lò neutron nhanh ít thất thoát nên CBR đạt cao. Với uran, trung bình mỗi hạt nhân uran 235 phân rã tạo ra 2,4 neutron, trong đó 1 phần neutron tham gia các phản ứng tạo các sản phẩm chết không phân rã như Pu240, U236.... nên tỷ số tái sinh cao nhất của uran là 1,2-Pu là 1,4. Tỷ số tái sinh còn giảm khá mạnh do hoá chất trong nhiên liệu, oxide ăn khá nhiều so với nitride. CBR cũng giảm khi cấu tạo lò không tốt, phân tán qua thành lò...
    Do năng lượng neutron lớn, nên tỷ số phân rã / tái sinh thấp, vì thế, lò cần dùng nhiên liệu làm giầu cao. EBR-2 dùng nhiên liệu làm giầu 68%, giảm đến 66 % uran thì tháo. Do đó, cần một nền tảng công nghiệp làm giầu lớn và rẻ mới nuôi được lò nattri và các lò kim loại nóng chảy khác, với giá chế tạo nhiên liệu cao. Giá làm giầu nhiên liệu tăng cao theo cấp số nhân.
    Các BN-800 600 dùng ba mức nhiên liệu làm giầu 11%, 17% và 21%. Loại nhiên liệu viên nén xốp oxide hiện nay sử dụng 10% thì bỏ. Hiện nay, một chương trình nghiên cứu thử nghiệm lớn đang diễn ra trong các BN, đây là bước thử nghiệm các phương pháp tái chế và chế tạo nhiên liệu. Chúng sẽ chuẩn bị cho quyết định hướng phát triển cấu tạo cả lò nước nhẹ, than chì và kim loại nóng chảy vào cỡ năm 2014, sau đó, các lò này được sử dụng sau 2020, đứng vào thời điểm sản lượng quặng chững lại rồi giảm vào 2025.
    http://www-ns.iaea.org/downloads/rw/conferences/spentfuel2010/sessions/session-eleven/session-11-russia.ppt
    http://cstsp.aaas.org/files/ivanov.pdf
    Lò natri có giá thành khá cao, nhưng rẻ hơn so với các lò chì-bismuth và BREST. Sự an toàn của natri kém hơn do chì không cháy và tự đông ại kể cả khi trúng đạn vỡ lò. Chì làm giầu Pb 208 sạch hơn vì chì không làm giầu và bismuth hấp thụ neutron, làm giảm neutron, giảm tái sinh và sinh ra bismuth 210 phóng xạ.
    Hiện nay, khi dùng uran không pluton và nhiên liệu oxide, thì BN có tỷ số tái sinh lõi CBR 0,8. MOX là ~1. Khi dùng nitride thì uran 1, MOX 1,2 và cao nhất gần đạt 1,4 với Pu. Tỷ số tái sinh lõi của các loại lò chì cao hơn, cao nhất là Pb làm giầu BREST, nhưng cao hơn không nhiều.
    Hiện nay, các phương án lò tái sinh thì chỉ còn mỗi Gẫu có phương án khả thi, đã thử nghiệm đầy đủ, các nước khác đều đã chết hoặc duy trì vài lò bé tẹo nuôi ảo vọng. Lò BREST tuy đắt, nhưng đến lúc cạn nhiên liệu thì nó cũng không còn đắt nữa, và là lối thoát duy nhất.
    Như vậy, khi vừa phát điện 2020 thì các Ninh Thuận nước nhẹ đã đứng trước nạn cạn nhiên liệu, lần này là cạn toàn cầu, không có cách nào gỡ. Đồ thị sản lượng bắt đầu đi ngang từ 2020 và giảm càng ngày càng nhanh sau 2025. Việc Vịt đốt than Vịt như ngành điện đang cấm xuất khẩu than hiện nay là phi lý, gì chứ, bán uran cho Campuchia để mua điện từ nó là việc nên làm, nếu được. Cũng cho đến ngày đó, thì Vịt chưa thể thử nghiệm nhiên liệu và tái chế tử tế, chúng ta xem việc thử nghiệm cẩn thận trên của Gấu, nên một là dùng đồ lởm giết người, hai là phải đi thuê. Như vậy, quặng nhà Vịt vẫn đắt lên cùng thị trường thế giới và nguy cơ Ninh Thuận đắp chiếu vì không có than hiện rõ.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 15:40 ngày 08/07/2010
  5. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
  7. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Có một ví dụ về AES-2006 với VVER-1000 là KNPP hay KAES mà năm sau được bàn giao.Còn về BN-800/1200 mà BN-1200 là thế hệ 4 phát triển từ BN-800 đang xây dựng ở BNPP hay BAES dùng nguyên liệu nghèo và chất thải phóng xạ như Pu trước kia dùng cho quân đội nay có hiệp định giải trừ vũ khí hạt nhân nên nguyên liệu vũ khí nguyên tử lại dùng cho lò phản ứng nếu Nga xây xong BN-1200 vào 2017/2018 thì sau 2 năm vận hành bảo trì thì BN-1200.. sẽ được sản xuất hàng loạt như VVER (Mà bạn có biết bây giờ có bao nhiêu loại VVER của nga không hả ?Thực ra cũng là loại nước nén thôi PWR)
    I о?е?едO
    sажд<й эне?гоблок пе?вой о?е?еди sалининской АЭС вклZ?ае, в себя:
    ? водо-водяной эне?ге,и?еский ?еак,о? ''ЭР-1000 «малой се?ии» ,епловой мо?нос,OZ 3000 o',,
    ? ,f?бина ,ипа s-1000-60/1500 мо?нос,OZ 1000 o',,
    ? гене?а,о? элек,?и?еского ,ока Т''-1000-4 нап?яжением 24 к'.
    Те.нологи?еская с.ема sАЭС ?" двf.кон,f?ная.
    ' сос,ав пе?вого кон,f?а эне?гоблока в.оди,:
    ? ?еак,о? '-338;
    ? ?е,<?е па?огене?а,о?а Y"'-1000;
    ? ?е,<?е главн<. ?и?кfля?ионн<. насоса "ЦН-195 o;
    ? главн<й ?и?кfля?ионн<й ,?fбоп?овод;
    ? сис,ема компенса?ии обSема.
    Реак,о?
    'одо-водяной эне?ге,и?еский ?еак,о? ''ЭР-1000 («малая се?ия») являе,ся ге,е?огенн<м яде?н<м ?еак,о?ом ко?пfсного ,ипа на ,еплов<. ней,?она..
    Тепловая мо?нос,O, o', 3000
    "авление ,еплоноси,еля в ко?пfсе, oYа 16
    Темпе?а,f?а ,/н на в.оде в ?еак,о?, г?ад С 289
    на в<.оде, г?ад С 322
    Рас.од вод<, м3/?ас 76000
    '<со,а ак,ивной зон<, м 3,5
    oасса сf.ого ?еак,о?а, , 468,2
    sонс,?fк?ия ?еак,о?ной fс,ановки полнос,OZ соо,ве,с,вfе, ,?ебованиям безопаснос,и:
    ? ав,ома,и?еская за?и,а ?еак,о?а п?и на?f^ения. в ?або,е основного обо?fдования;
    ? ,?е.каналOное пос,?оение сис,ем безопаснос,и, каждая из ко,о?<. "fнк?иони?fе, независимо и ав,ономно;
    ? нали?ие ге?ме,и?ной за?и,ной оболо?ки, в ко,о?ой ?асположено все ?еак,о?ное обо?fдование;
    ? способнос,O ?еак,о?ной fс,ановки к само?егfля?ии.
    Yа?огене?а,о?
    Yа?огене?а,о? Y"'-1000 п?едс,авляе, собой одноко?пfсн<й ,еплообменн<й аппа?а, го?изон,алOного ,ипа с пог?fженн<м ,?fбн<м пf?ком. Y?едназна?ен для п?оизводс,ва сf.ого нас<?енного па?а из вод< в,о?ого кон,f?а.
    Yа?оп?оизводи,елOнос,O, ,/? 1470
    Темпе?а,f?а нас<?енного па?а, г?ад С 287
    "авление нас<?енного па?а, oYа 6,4
    "лина ко?пfса, м 15
    Темпе?а,f?а ,еплоноси,еля
    - на в.оде, г?ад С 322
    - на в<.оде, г?ад С 289
    oасса, , 321,2
    Тепловая мо?нос,O, o', 750
    Тf?бина
    Тf?бина s-1000-60/1500 ?" па?овая, конденса?ионная, одновалOная, пя,и?илинд?овая, номиналOной мо?нос,OZ 1100 o', и ?ас,о,ой в?а?ения 1500 об/мин. Тf?бина в<полнена без ?егfли?fем<. о,бо?ов па?а, с сепа?а?ией и однок?а,н<м двf.с,fпен?а,<м па?ов<м п?омежf,о?н<м пе?ег?евом (о,бо?ом и свежим па?ом). Тf?бина являе,ся п?иводом элек,?и?еского гене?а,о?а пе?еменного ,ока ,ипа Т''-1000-4У-.
    oакс. ?ас.од свежего па?а на ,f?бинf, ,/? 6430
    На?алOное давление па?а, oYа 5,9
    Час,о,а в?а?ения ?о,о?а, об/мин 1500
    На?алOная ,емпе?а,f?а па?а, г?ад С 274,3
    Рас.од па?а в номиналOном ?ежиме, кг/с 1711,1
    Рас?е,ное давление в конденса,о?е, oYа 0,0039
    II о?е?едO
    Yо п?оек,f в,о?ая о?е?едO sалининской АЭС вклZ?ае, два эне?гоблока fс,ановленной мо?нос,OZ по 1000 o',. Y?им<кая к пло?адке пе?вой о?е?еди, она являе,ся ее п?одолжением, с обSединением все. коммfника?ий и исполOзованием вспомога,елOн<. соо?fжений.
    Те.ни?еские .а?ак,е?ис,ики эне?гоблока "- 3:
    ? се?ийн<й водо-водяной эне?ге,и?еский ?еак,о? ''ЭР-1000;
    ? ак,ивная зона п?оек,а '-320 на базе ,еплов<деляZ?и. сбо?ок алO,е?на,ивн<.;
    ? па?огене?а,о? Y"'-1000o;
    ? главн<й ?и?кfля?ионн<й насос "ЦН-195o;
    ? ,f?бина ,ипа s-1000-60/3000;
    ? гене?а,о? пе?еменного ,ока ,ипа Т''-1000-2.
    Y?оек, ,?е,Oего эне?гоблока в<полнен по монобло?ной с.еме.
    Тепловая с.ема блока двf.кон,f?ная.
    На блоке внед?ено более 600 fникалOн<. п?оек,н<. ?е^ений:
    ? ак,ивная зона алO,е?на,ивной конс,?fк?ии (Т'СА) пов<^енной жес,кос,и с f?ан-гадолиниев<м ,опливом, позволив^ая сня,O п?облемf "о?моизменения Т'С, fвели?и,O глfбинf в<го?ания ,оплива, пе?ей,и на 4-. ле,ний ,опливн<й ?икл.
    ? fникалOн<й комплекс «г?ади?ни-ес,ес,венн<е озе?а», снижаZ?ий ,еплов<е воздейс,вия на п?и?одн<е озе?а;
    ? полигон подземного за.о?онения солев<. с,оков (глfбина скважин до 1,4 км);
    ? сов?еменн<й комплекс fс,?ойс,в для обеспе?ения "изи?еской за?и,< с,ан?ии, сос,оя?ий из о.?анного пе?име,?а с ,?емя п?ег?адами и с?едс,вами обна?fжения, локалOн<. пе?име,?ов вок?fг обSек,ов и внf,?и главного ко?пfса;
    ? комплекс по пе?е?або,ке и f,илиза?ии ?адиоак,ивн<. о,.одов, позволяZ?ий сf?ес,венно fменO^и,O и. обSем п?и .?анении и далOней^ей ,?анспо?,и?овке на за.о?онение;
    ? пе?ег?fзма^ина с двf.каналOной сис,емой fп?авления, сис,емой кон,?оля ге?ме,и?нос,и оболо?ки ,опливн<. сбо?ок, "fнк?иони?fZ?им ,?енаже?ом.
    АСУ ТY
    На ,?е,Oем блоке sАЭС внед?ена п?ин?ипиалOно новая ав,ома,изи?ованная сис,ема fп?авления ,е.нологи?ескими п?о?ессами (АСУ ТY) на базе п?ог?аммно-,е.ни?ески. с?едс,в. Э,о ин"о?ма?ионно-fп?авляZ?ая сис,ема нового поколения, п?и ?аз?або,ке ко,о?ой исполOзовалисO пе?едов<е ,е.нологии ми?ового f?овня.
    zсновн<е .а?ак,е?ис,ики АСУ ТY:
    ? п?именение п?ог?аммно ,е.ни?ески. комплексов на базе ТYТС по fп?авлениZ ,е.нологи?ескими п?о?ессами АЭС с ^и?оким исполOзованием "fнк?ий полной диагнос,ики и кон,?оля за ,е.ни?ескими с?едс,вами fп?авления АСУ ТY;
    ? исполOзование нов<. п?ин?ипов пос,?оения с,?fк,f?< fп?авления АСУ ТY, с обеспе?ением п?ио?и,е,ов по безопаснос,и и за?и,е обSек,ов АЭС;
    ? п?именение диагнос,и?ески. комплексов, необ.одим<. опе?а,о?f для анализа си,fа?ии п?и ликвида?ии ава?ийн<. п?о?ессов на блоке.
    ? исполOзование дисплейного п?ин?ипа fп?авления с ав,ома,изи?ованного ?або?его мес,а опе?а,о?ами ,е.нологи?ески. ?е.ов.
    ------------------------------------------------------------------------------------------------------
    About the Plant
    The management of Kalinin NPP is well aware that high quality is essential for effective production and is strongly committed to further improve its quality management system, with due regard for nuclear and radiation safety.
    The key goals of the plant are:
    to ensure nuclear and radiation safety;
    to effectively operate, maintain, repair and modernize the equipment;
    to effectively and timely organize the safe and effective operation of the 3 rd unit and its auxiliary facilities;
    effectively protect the environment;
    to openly and directly contact with public and international organizations.
    In order to meet the above goals, it is necessary to carry out the following tasks:
    to implement and improve the efficiency program;
    to ensure effective management and distribution of responsibility;
    to comply with efficiency standards;
    to effectively plan quality management actions;
    to ensure effective resource management;
    to enhance personnel qualification and to develop safety culture;
    to ensure effective document management;
    to organize planned inspections and to ensure constant quality control in line with existing procedures;
    to regularly analyze and to constantly enhance the efficiency;
    to control the activities of the plant and the suppliers that have an influence on its efficiency.
    This policy is expected to enhance the plant?Ts safety and efficiency and to raise people?Ts confidence in nuclear power engineering.
    Generation
    1st and 2nd units
    Each unit consists of:
    WWER-1000 reactor with a thermal capacity of 3,000 MW,
    s-1000-60/1500 turbine with a capacity of 1,000 MW,
    TBB-1000-4 generator with a voltage of 24 KV.
    KNPP has a double-circuit plant technological scheme.
    The primary circuit consists of:
    V-338 reactor;
    four PGV-1000 steam generators;
    four main circulating pumps;
    main circulating pipeline;
    pressurizing system.
    Reactor
    WWER-1000 (limited production) is a heterogeneous shell-type pressurized water reactor.
    Thermal capacity, MW
    3,000

    Fuel rod pressure, MPa
    16

    Reactor inlet temperature, C
    289

    Outlet temperature, C
    322

    Water flow, c.m./h
    76,000

    Reactor core height, m
    3.5

    Dry reactor weight, t
    468.2

    The reactor has the following safety guarantees:
    automatic protection in case of equipment failure;
    three-channel autonomous safety systems;
    containment;
    self-regulation capacity.
    Steam generator
    Steam generator-1000 is a single-casing horizontal heat exchanger with a submerged tube-bundle. Designed for producing dry saturated vapor from second circuit water.
    Steam generating capacity, t/h 1,470
    Steam temperature, C 287
    Steam pressure, MPa 6.4
    Length, m 15
    - inlet temperature, C 322
    - outlet temperature, C 289
    Weight, t 321.2
    Thermal capacity, MW 750
    Turbine
    Turbine s-1000-60/1500 ?" steam, condensing, closed coupled five-cylinder turbine with a nominal capacity of 1,100 MW and an operating speed of 1,500 rpm. This is a one-time two-stage steam reheat turbine.
    Maximum fresh steam flow, t/h 6,430
    Primary steam pressure, MPa 5.9
    Rotor speed, rpm 1,500
    Primary steam temperature, C 274.3
    Nominal steam flow, kg/s 1,711.1
    Condenser pressure, MPa 0.0039
    3rd and 4th units
    Kalnin NPP is building 3rd and 4th units, which, together with the two existing units, will constitute a single power generating complex.
    Parameters of the 3rd unit:
    WWER-1000 reactor;
    B-320 active zone based on alternative fuel assemblies;
    PGV-1000M steam generator;
    main circulating pump 195M;
    s-1000-60/3000 turbine;
    Т''-1000-2 AC generator.
    The 3rd unit is a monobloc with two circuits.
    Over 600 unique design solutions have been applied under the project:
    alternative uranium-gadolinium enhanced-resistance TBCA core: solves the problem of fuel rod deformation, enhances burn-up fraction, prolongs fuel cycle to four years;
    "cooling towers-natural lakes" complex: reduces thermal effect on natural lakes;
    underground salt water storage facility (1.4-km-deep wells);
    modern physical protection system ?" a three-echelon perimeter-based system with detectors and inside perimeters;
    radioactive waste treatment complex: allows to reduce the amount of waste.
    refueling unit with fuel failure control system and simulator.
    APCS
    The Automated Process Control System of the 3rd unit is an advanced information management system based on state-of-the-art technologies of world level.
    The key parameters:
    software complexes with testing and control equipment;
    innovative control structure with priority given to safety and physical protection;
    testing and analysis for effective emergency prevention;
    display control mode and automated workplace.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Xem ASU thời 90 của Nga
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được gulfoil sửa chữa / chuyển vào 16:31 ngày 08/07/2010
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    To bác gulfoil
    Thế hệ 1-2-3 thật ra chỉ là tên theo phog tục, về luật pháp, cụ thể các lò phản ứng hạt nhân muốn bảo vệ thiết kế ở Nga sẽ phải qua một hội đồng, và sau đó sẽ được đặt tên là AES-91,92 99, 2002, 2006.... CÒn ở EU, do năm cha ba mẹ và chủ yếu là những nhó nhăng của công ty điện hạt nhân lớn nhất EU là Areva, thì EU sẽ đặt ra những tiêu chuẩn nào đó và các lò muốn bán trong thị trường này sẽ được thông qua EU năm 2006=ví dụ thế. IAEA thì là cái thùng rác, nhưng tiêu chuẩn nó đặt ra đang ra chỉ là giải trừ vũ khí, tức kiểm soát tháo lắp nhiên liệu, tái chế, làm giầu..... nhưng nó dần đần trở thành một đống thối. Tuy vậy, nó vẫn có những khuyến cáo về caaos tạo an toàn, ví như cũng có core catcher, đại khái là theo ý hai chú AP-1000 của Westinghowse và EPR của Areava.
    Để bán ở thị trường EU (Hung Sec Slovakia....) thì VVER AES 91 92 cũng phải đủ tiêu chuẩn EU, tức là thoải mái xưng Gen III, ít nhất là tiêu chuẩ EU 2005, tức muộn hơn, cao hơn EPR và AP. Dĩ nhiên là ngoài tiêu chuẩn EU thì VVER và một số lò khác cao hơn nhiều AP và EPR Gen III bị cấm cửa ở Anh Quốc và một số nước khác it nhất đến 2015.
    http://www.europeanutilityrequirements.org/EUR%20seminar%202005/slides/EUR_Vol3_AES92.pdf
    NHưng em không muốn nói VVER cao hơn hay bằng Gen III EPR và AP, mà muốn nói, Gen III là cái gì.
    Ấn Độ đang đuổi EPR và các lò xây sau toàn NPP-2006. Các lò sau của ĐIền Loan bên tầu cũng NPP 2006, Thổ cũng vậy, Nga có Kalinin và Lenin II....Như vậy, NPP-2006 đã bán được 24 bác, bán chạy hơn VVER-1000 nhiều. Thật ra, vô địch hiện nay là CPR Tầu, 26 lò, nhưng thua VVER nếu cộng các loại VVER khác nhau vào 1.
    Người Nga gọi Tầu là Kiểu Tầu, 'Oе,нам - ки,айский дебZ,
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-61.ttvn#16484899
    Tức là mâm xôi, mỗi thằng một góc, thế thì đấu thầu làm gì, khoa học làm gì. Đấy là đặc sản của kiểu chính trị vua lê chúa trịnh, mất chính thống. CHính thống là dân chủ, nhưng có một thằng bảo nó là lãnh đạo, nó lãnh đạo nhưng cử tri không bầu ra nó, như thế là chính thống bị thằng đó che mặt, chính là chúa trịnh che vua lê . Khi đó, hình thành một tầng lớp phi dân chủ là tầng lớp trên, chúng chia nhau lợi nhuận bóc lột và tránh xung đột với nhau để khỏi bị lộn xuống dưới. Thằng Quảng Đông có vốn làm EPR và CPR thì cứ làm, thằng Sơn Đông sợ chết mua VVER cứ mua, thằng thượng hải tậu Candu cứ tậu. Đấy là đất tốt nhất cho các lò lởm bán giá cao=công cụ rửa tiền.
    Cái gọi là Gen II, Gen III của các lò nước nhẹ nén chỉ là cái tên chúng tự quảng cáo, thế theo bác, em mang cái lò than tổ ong, em gắn biển Gen III, em thuê bồi lưỡi mồi mõm, thì hợp cái luật cái đình lợn ấy đẻ ra ?
    Như em nói trên, các đời 1,2,3... của lò nước nhẹ nén có cùng bản chất nguyên lý phản ứng, đó là các lò trộn đều nhiệt độ của nhiên liệu,hấp thụ, điều hoà, như CP-1, ngày nay vẫn còn loiaj lò đó trong y tế, nghiên cứu.... thường có dạng nhiên liệu tấm dẹt, plat fuel
    Đời 1 là các lò chưa có cấu thạo thanh nhiên liệu gốm như ngày nay, cho đến cuối thập niên 196x Mỹ Pháp Anh vẫn loay hoay , kể cả nhiên liệu hợp kim. Phổ biên là dùng "bánh vàng", tức bánh ép UO2, tiền thân của gốm, nhưng còn chưa có vỏ bọc cách ly, kết dính chụi nhiệt, cơ , hoá.....
    Đời 2. thanh nhiên liệu gốm lần đầu tiên được sử dụng ở Liên Xô chỉ sau Obninskaya 1954, lò đầu tiên dùng thanh Zr bọc viên gốm là Sibirskaya (Tomsk 7) là ADE-2 100 MW (nhưng công suất nhiệt lớn do hiệu suất nhiệt-công thấp), lò ADE-1 năm 1955 không phát điện, ADE chạy ở Tomsk và Krasnoyarsk. Đây là các lò than chì tiền thân của RBMK, ngay sau đó, kỹ thuật nhiên liệu này được triển khai trên các lò nước nhẹ tầu ngầm, cho đến ngày nay thì nhiên liệu vẫn đang được hoàn thiện. Cuối 196x, thanh nhiên liệu kiểu này là chìa khoá điện hạt nhân bùng phát ở Pháp, Mỹ, Anh, Canada
    http://www-ns.iaea.org/downloads/rw/conferences/spentfuel2010/sessions/session-eleven/session-11-russia.ppt
    Đời 3 ban đầu là cái đội mồ sống lại EPR và AP-1000, chúng chê bọn còn lại là đời 1, đời 2.... Nhưng dĩ nhiên kiểu lừa đảo ấy tuej nghẻo củ tỏi ngày nay, ban đầu là việc nứt vỡ mối hàn cái thùng lò Phần Lan 2005 -&gt; chứng minh rằng các tiêu chuẩn xôi thịt ấy rát vớ vẩn, không đề cập đến nhiều khâu quan trọng. Quan trọng thì còn gì hơn là kết cấu kim loại và phản ứng thụ động trước các sự cố. Toàn bộ các tiêu chuẩn ấy chỉ là kết cấu hình học và tình huống chạy.... bình thường. AES cũng thành tiêu chuẩn EU vào đợt đó, dĩ nhiên, các thành viên mới Đông Âu và Đức chỉ đợi Gấu hồi sinh.
    Như vậy, Gen I., II, III không có ý nghĩa gì, chỉ là tên tự xưng dùng để lừa đảo. Nhưng chúng cũng lừa được khối thứ, mà các lò AGR, ABWR , Candu của Anh Nhật dần cũng bảo vệ được các tiêu chuẩn đó, cũng vì nhìn thấy EPR và AP ngỏm củ tỏi, cũng muốn tranh thị trường, và cũng là Gen III. VVER thì từ AES 91 Tầu đã tiêu chuẩn EU, IAEA, sau đó là AES 92, AES 2006, như vậy toàn bộ các VVER 1000, 1200 và sau này đều là Gen III, thêm cái còi được đóng dấu tiêu cuẩ EU của Siemens-Rosatom JV nữa là thành Gen III+. Ngoài còi đó thì Toshiba cũng có còi +.
    Đã là một điều luật, phải có định nghĩa thế nào là Gen III, ai định nghĩa Gen III ngoài các lò tự xưng ? Luật xây dựng lên định nghĩa tự xưng ? thế mới lợn. Vì lợn như thế, nên cái lò than tổ ong của em là hợp pháp, Candu 6 và VVER-440 là bất hợp pháp, do hai chú trên không làm nữa mà chẳng tốn tiền thuê bồi lưỡi bồi mõm, mắc dù chúng ưu việt các mặt hơn nhiều các lò đã gây ra vụ TMI-II 1979.
    Các nhà khoa học trước đây gọi kiểu lò đống trộn đều như nước nhẹ là Gen I, ngoài ra còn có các lò khoa học, y tế....làm bom ... vân vân như Hanford, ADE-1 ở Tomsk. Các lò có kênh như RBMK, Candu, AGR là lò thế hệ 2. Các lò ăn được U238 và thorium như BN, ERB, Phenix, Monju, BN, SVBR, BREST là thế hệ 3. NHưng khi bọn lừa đảo tự xưng Gen III, thì chúng cũng không dám cưỡi đầu BN, nên BN được tấn phong bất đắc dĩ là Gen IV, không ai công nhận các Gen ấy cả trừ cách gọi quen mồm và nhóm lừa đảo.
    Thậm chí trong này còn có lò nước nhẹ, Supercritical-Water-Cooled Reactor (SCWR), cũng xưng Gen IV.
    http://www.google.com.vn/url?sa=t&source=web&cd=2&ved=0CCIQFjAB&url=http%3A%2F%2Fwww.gen-4.org%2F&ei=O7k1TLnwL9GqceKx-bUE&usg=AFQjCNHfYUDOqvffJoQ1FJ_aAKWAGxlxzw&sig2=ybVgTNZ3LplhgtJM_5UD8w
    Dù gì, thì mỗi Gấu sở hữu các lò natri và chì của Gen IV, thật ra, những cái lừa đảo này chỉ dùng nhồi những cái não liệt nhất, hoá ra trên đình khối loại ấy.
    =================
    Kaliningrad II là NPP2006, như Leningrad II. Kaliningrad II còn có tên là Baltik NPP, mới khởi công lò đầu tiên. VVER thường khởi công 2 lò cùng nhau hay sát nhau, vì có cấu tạo cầu, chia sẻ tài nguyên, đặc biệt là hệ thống điện đảm bảo an toàn.
    KAES là Kilinin I, nó gồm 4 VVER-1000, bị chậm lại sau 1991. Buồn cười, Lithuania vào EU được yêu cầu đóng cửa nhà máy Ignalina với lý do nó cho ra nhiều Pluton, đổi lại, Lithuania chuyển sang đốt than Ba Lan. Ignalina là nhà máy hàng lớn nhất châu Âu, 4 lò RBMK-1500 (2 đang dở), loại lò điện hạt nhân lớn nhất đã từng chạy của thế giới. Tuy nhiên, kế hoạch đồng bộ thống nhất lưới điện châu Âu (cả ngoài EU), UCTE , vẫn được tiến hành, vì bản chất cái tâm của kế hoạch này là Đức, chưa xin được giấy phép xây lò hạt nhân mới. Thế là các kế hoạch tái khởi công, tăng công suất phát điện.... của các nhà máy hạt nhân Ucrana, Belarusia, Nga.... chạy rầm rầm, Hung, Sezch, Slovakia cũng chẳng vừa.. Cái KAES-4 sang năm phát điện lên lưới, dĩ nhiên là Lithuania tức nổ đom đóm mắt. Thật ra, chỉ Ucraina trong lưới này, nhưng việc bán điện cho nhau thì dễ hơn là dầu
    http://english.ruvr.ru/2010/02/26/4849931.html
    http://charter97.org/en/news/2010/4/27/28499/
    Nhưng tức mấy thì thấy mua lại điện hạt nhân thì tốt hơn là đốt than Ba Lan. Bi h ngồi tiếc ngẩn tiếc ngơ nhà máy điện lớn nhất châu Âu
    http://www.lithuaniatribune.com/2010/06/24/nuclear-power-plants-russians-building-lithuanians-planning/
    Bác nói phải, hiện nay ở Nga VVER đông hơn, do cũng cạnh tranh, VVER rẻ hơn và Gấu chưa cạn kiệt nhiên liệu như Mèo, Tây Phú. BN chạy đã được 40 năm rồi, SVBR còn có dự định để luôn ở tầu ngầm làm FNPP, nhưng điều đó là vô lý vì xác tầu ngầm bán rất được giá và nó cũng được thiết kế không đủ an toàn để nổi lâu dài mà không có động cơ đẩy, SVBR cũng được 40 năm rồi. Nhưng trừ Lira siêu tốc, thì chạy BOR và BN dân sự chỉ có giá trị thử nghiệm, do nhiên liệu Gấu còn nhiều.
    Hiện có khoảng gần 20 VVER đang chạy ở Gấu, em chưa đếm kỹ, RBMK chưa đến 1/2 BN thì chỉ có BOR và BN-600 đanh chạy, sang năm mới chạy BN-800 và khởi công BN-1200. Như link em đưa đó, các thử nghiệm rất lớn và vẫn đang thực hiện, khi nhà máy tái chế theo kỹ thuật hoá nhiệt độ cao vận hành, sau 2014, thì mới quyết định chọn loại lò cho tương lai, quyết xong mới tính toán vẽ hình rồi bảo vệ, xây dựng sau 2020 đón thời đại cạn nhiên liệu. Như vậy, Ninh Thuận sẽ chạy trong thời đại cạn nhiên liệu với Kalinin.
    AES-92 như link trên, dùng MOX tốt, lò VVER nào cũng dùng MOX tốt cả. Từ aFA (alternative fuel assembly), nhiên liệu được thiết kế đẻ dùng trong các điều kiện rộng hơn, cho phép dùng MOX có nhiều tỷ lệ khác nhau và nhiều đời khác nhau, nhiều chu kỳ thay đảo khác nhau. Điểm kém của VVER là thay đảo mau và tốn thời gian, do nó tránh chuyện sôi nước ngâm ủ, chuyển chố nhiều trong lõi lò, nhưng nhờ aFA mà thời gian thay đảo thay đổi nhiều. Bản chất là lắp thêm 3 vị trí để cho các thanh nhiên liệu chứa hấp thụ Gd, nhờ vậy có thể thay đổi nhiều chế độ làm việc, giữ mật độ phản ứng trong vùng tâm lõi cao hơn, làm giầu cao hơn, mà khi chuyển ra ngoài vẫn chạy tốt, bằng cách tháo lắp thêm bớt các thanh Gd.
    http://www.elemash.ru/en/production/Products/NFCP/VVER1000/
    MOX cho phép chuyển dần sang thời đại cạn nhiên liệu, nhưng phải làm mọi thuộc địa cho các lò tái sinh khoẻ. Thật ra, tương lai sau 2011 không phải là MOX, MOX chỉ là đỉnh cao của Pháp và Mỹ=thuê Nga làm, còn tương lai là hốn hợp nitricde, viết tắt là gì em cũng chịu. Chứ đừng nghĩ MOX là gì to tát cả. MOX có hai điểm lợi, mua pluton của Gấu đỡ phải làm giầu và tỷ số tái sinh cao, cho phép các lò nước nhẹ mới Mỹ Pháp giữ tỷ lệ sử dụng nhiên liệu 0,9% mà vẫn nén lò làm giầu cao, do pluton cho ra nhiều neutron hơn. Bình thường, càng nén thì càng giảm CBR. Nitride đã được thử nghiệm các khâu từ chế tạo, vận hành, tái chế lâu rồi và chuẩn bị khởi công quy mô công nghiệp, chúng hoàn thành trước 2014.
    ================
    Ngoài nước nhẹ, BN, RBMK, MKER, Nga còn có một số lò nước sôi nhỏ dùng cho vùng xa xôi Bilibino.
    Còn Beloyarsk. BN-800 không phải dùng nhiên liệu nghèo đâu bác, cái thanh nhiên liệu nghèo đó em đã một lần nói rồi, định nói lại trong BN.
    Fast neutron và Fast bredder trong máy ăn cắp não wiki đnh lộn sòng làm 1, nên bên Mèo nhiều người nhầm như thế. Fast Neutron là lò neutron nhanh, có khả năng tái sinh mạnh. Còn fast breeder là tái sinh nhanh, EBR-II mang cả hai ý nghĩa trên, bên Mèo có mỗi nó là natri chạy được (để biểu diễn, nuôi giấc mơ hoang, để các bạn Mèo quên đi nạn ăn vã quặng), vậy nên Mèo chúng đánh đồng hai khái niệm này.
    Em lấy ví dụ về Fast Breeder. Ví dụ, EBR-II đi. Experimental Breeder Reactor II chạy 1969 dừng 199x. Nó có nhiên liệu làm giầu 67%, đến 65% thì dừng. Bi h, bác dùng nhiên liệu làm giầu 99%, nhưng cứ 2 thanh uran làm giầu bác ghép 1 thanh DU, thanh DU này có thể đặt trong ống riêng bằng Zr hoặc titan, đại khái lấy ra lắp vào nhanh. Khi đó, phản ứng phân rã chỉ chạy trên nhiên liệu còn phản ứng tái sinh chỉ chạy trên DU, nếu DU có dạng dễ tái chế như bột rời UO2, thì có thể tái chế nhanh, như vậy, tránh được pluton cháy mất đi trong lò và là pu quân sự, weapon grade, ít Pu-240. Như thế gọi là Fast Breeder=tái sinh nhanh.
    BN-600 và BN-800 thì không thế, cũng như VVER, chúng có tâm lõi mật độ phản ứng cao, khi nhiên liệu đã vơi, chúng được chuyển ra ngoài, phản ứng phân rã giảm trong khi phản ứng tái sinh tăng ở VVER, còn ở BN, thì cả hai phản ứng đều giảm để giảm mật độ bã phóng xạ. Ở BN, có các IVS để ủ nhiên liệu dùng rồi ngay trong lõi, điều này làm lõi tò to gấp đôi (đường kinh 8 mét trong khi vùng phản ứng 5 mét), điều này làm giảm bã phóng xạ, tránh tai nạn khi hỏng bơm làm mát ngâm, vì các thanh nhiên liệu hoạt động rất mạnh so với VVER.
    Việc dùng DU là thế này, đây là thử nghiệm dùng toàn bộ pluton, DU được trộn với Pluton, nếu là oxide thì được thứ MOX có tỷ lệ U235 rất thấp, nhiên liệu cháy được chủ yếu là Pu. Đây là bước thử nghiệm để chuyển sang chế độ thế giới cạn quặng. CHúng cho phép đốt toàn bằng U238 hay thori, chứ không dùng U235 của mỏ nữa. Kết quả rất tốt, tỷ số tái sinh CBR đạt 1,4, tức cao hơn U235 lý tưởng.
    Người ta lấy nhiên liệu ra chỉ vì cấu trúc của nó hỏng, cần tái chế, lại có nhiều phương pháp gia cố ngay thanh nhiên liệu dùng rồi, hoặc cải tiến VVER để dùng lại thanh này.
    Nhìn chung, khi dùng BN, thì nguồn cung nhiên liệu lớn nhất là tái chế, còn các khâu khai quặng tinh chế làm giầu.... hết tuổi. Cái mỏ tự nhiên tốt nhất lúc ấy là nửa triệu tấn DU bên Mèo.
    http://www-ns.iaea.org/downloads/rw/conferences/spentfuel2010/sessions/session-eleven/session-11-russia.ppt
    http://www.coal2nuclear.com/BN-800%20Construction%20Photos.pdf
    Bác đã thấy cái mỏ nào như thế này không, nửa triệu tấn UF6 nguyên chất, khỏi phải xúc bới hầm hào, đãi nấu tinh luyện, khỏi cần làm giầu. Do chịu khó dẻo gối, Pháp đã bán được quặng loại này bước đầu cho Gấu, tất nhiên với giá bùn gần bằng không, tính kỹ là âm, đổi lấy việc tống khứ. Còn Mèo thì Gấu còn đủng đỉnh, Mèo hồi này nhiều biến dị mõm quá.
    [​IMG]
    Ối trời, mấy vạn tấn than đá đây này, 4kg DU
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 10:04 ngày 09/07/2010
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    http://vneconomy.vn/2010052510047780P0C10/dien-hat-nhan-ninh-thuan-chon-cong-nghe-cua-nuoc-nao.htm
    Đi search cái bài báo của bác, thấy lắm thằng lợn thật. Đây là kết quả của hai thức, một là, nạn mua bán nhân sự trong các cơ quan "chính trị quyền lực", dẫn đến báo chí toàn lợn. Hai là, lợn thì toàn ăn cám lợn của bọn vịt sa mạc biến dị mõm trên, từ đình miếu, báo chí, đên các sư sãi. Thậm chí còn mời những thể loại lợn sủa được ra những câu "VVER sử dụng hydro recombider và core catcher của Areva sản xuất", về tận dinh phủ nhà Vịt sủa cho đã. Chúng ta đã quá đủ dẫn chứng, Areva hầu như chả làm cái gì ngay cả trong cái lò của chính nó, ngoài chức năng thuê biến dị mõm sủa bậy. Hydro recombider của Areva thậm chí do Skoda JS của Szech sản xuất, còn core catcher chỉ là cái hầm bê tông, nếu thầu phụ là Vịt thì sẽ do nhà Vịt "sản xuất".
    http://www.varans.gov.vn/default.asp?actType=2&TypeGrp=1&id_news=2504&menuup=103000&menuid=103110&menulink=100000
    Vì vậy, sẽ không lạ khi đọc thấy toàn cám lợn trong này
    http://vneconomy.vn/2010052510047780P0C10/dien-hat-nhan-ninh-thuan-chon-cong-nghe-cua-nuoc-nao.htm
    Liên quan đến vấn đề xử lý chất thải hạt nhân, cách đây không lâu, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng ký với Mỹ văn bản hợp tác về vấn đề này. Phải chăng công đoạn này là dành cho Mỹ?
    Hoá ra, người ta không biết rằng nước Mỹ không hề tái chế dân sự, trình độ tái chế là con số không. Người Mỹ bắt bộc phải tái chế các lò Hanford để lấu Pu làm bom, bằng các hợp đồng giá cao với những người bán mạng sống, với tỷ lệ chỉ vài % sản phẩm lò hạt nhân dân sự. Đứng trước đại nạn cạn quặng, phải thuê Ấn Độ và Nga. Thực tế, việc thuê Án Độ là giải pháp tay ba, để các liệt não đỡ nhục nhã đến mức tự tử khi thuê Nga tái chế. Và cũng thật ra, thuê Nga tái chế không ít, đây là nói các hợp đồng tay đôi trực tiếp, không tính việc Nga cấp kỹ thuật cho nhân công Ân Độ.
    http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2010/03/29/AR2010032901744.html
    http://www.state.gov/r/pa/prs/ps/2010/03/139172.htm
    Cái hài ở đây là, sau 30 năm Ấn Độ thử bom, Mèo vẫn chửi cái ..... tái chế Ấn. Ối xời, nuôi béo công nghiệp làm bom của Gấu còn đỡ nhục. Còn Ấn, xin thứ, nó là một trong những nước rút khỏi NPT= hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân. Tức là, Ấn Độ là mọi khủng bố và Mèo nuôi béo công nghiệp làm bom của mọi khủng bố. Các lợn không thể vỡ não để hiểu rằng, tái chế là con đường duy nhất để thoát đại nạn khủng hoảng hết quặng sẽ đến sau 2020, tất nhiên, đó chỉ là một mặt, tái chế phải sống cạnh các BN, và còn rất nhiều thứ để bác Mèo có lò hạt nhân sống sót sau 2020.
    Đặt câu hỏi đi thuê tái chế của thằng chưa hề tái chế ? Dĩ nhiên, không phải là bác học để biết điều này, và điện hạt nhân nhà Vịt sẽ như Vinashin đoạn này: ai cũng phải cả.
    Người Nga gọi Tầu là Kiểu Tầu, 'Oе,нам - ки,айский дебZ,
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-61.ttvn#16484899

    Nguyễn Tuấn
    11:35 (GMT+7) - Thứ Sáu, 28/5/2010
    Theo tôi hiểu thì chọn công nghệ của nước nào không phải là yếu tố quá quan trọng.
    Vì khi một nước X được chọn cung cấp công nghệ, họ sẽ mua lại phần lớn trang bị máy móc của các nước khác. Tôi đã tham gia một số dự án như: nhà máy xi măng Chinfon, nhà máy đường Lam Sơn, Nhiệt điện Phả Lại... nên tôi biết điều đó.
    Cái quan trọng ở đây là yếu tố chính trị. Theo tôi, nên chọn nước nào (nhất lại là vấn đề điện hạt nhân) thì một nước là người bạn lâu bền của Việt Nam sẽ là quan trọng nhất.
    Khi thời thế thay đổi, nước được chọn vì lí do chính trị không cung cấp nhiên liệu hạt nhân cho VN nữa là điều nguy hiểm nhất.

    NHà máy điện hạt nhân giống như xây chuồng lợn ?
    Kiểu tầu, hay kiểu Vinashin như vậy. Areva không hề làm phần nào đáng kể trong lò của chính nó. Lõi là Rosatom, cùi Skoda, vỏ thùng và nồi hơi JSW. Tại sao toàn bộ những thằng cất tiếng sủa đều theo lời mớm của các giống vịt sa mạc biến dị mõm ? Tất nhiên, cái thể chế vô vương vô pháp, vua lê chúa trịnh, làm lợn hoá những thằng cất tiếng sủa. Như các bạn đã nói, chúng chẳng còn cái căn cứ nào để sủa ngoài nhai lại giống vịt sa mạc biến dị mõm.
    Chúng ta biết, thầu khoán các món hàng ai cũng đã biết, như xây căn nhà nhỏ, thì có thể gọi thầu phụ toàn bộ. NHưng ở mức đỉnh cao công nghệ trên, Nhật và Nga không hề dám giao cho người khác làm các chi tiết quan trọng nhất với tính an toàn, như các loại vỏ vòng 1. Thậm chí, với vỏ thùng lò, Nhật không chấp nhận hàn mà đúc liền=rất tốn kém, Nga cũng vậy. Chúng thuê các công ty phụ việc như Skoda JS làm các chi tiết khác, có thể ở lõi hơn, nhưng không chịu lực.
    Hạt nhân là kỹ thuật cần an toàn cao nhất, nên những lò hạt nhân của Nga và Nhật không thể như Turkey Point 8 năm không thay nắp vỡ, hay nứt mối hàn Phần Lan, hay xì nước lõi Vịnh Đại Á, hay cống ngầm rò uran mấy năm không ai biết ở chính quốc Pháp.... Và không thể hạ mình thuê người khác làm các chi tiết sống còn. Tại sao Skoda JS không đi đấu thầu toàn bộ lò ? có, nó đã đấu VVER-1000 Hungari (trong EU), tư cách của nó còn cao hơn Areva, vì nó là thằng làm lò cho Areva, nhưng nó thua Rosatom (ngoài EU).
    Các tiêu chuẩn IAEA và EU đều không hề tính đến sức bền vật liệu, mà chỉ tính đến..... hình học. Tức là, tuy là thối quá, nhưng nhà thầu làm bằng bùn chả sao. Vậy nên Areva mới đi thuê mọi thứ=mặt bằng kỹ thuật là cái hàng chợ mọi nơi, đâu còn là đỉnh cao kỹ thuật dành cho hạt nhân.
    Dĩ nhiên, cái lập luận này dành cho kiểu tầu ('Oе,нам - ки,айский дебZ, http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-61.ttvn#16484899 ), hay tiếng Vịt là kiểu Vinashin.
    Kiểu Vinashin là gì, bác A đầu tư món ĐA, cả hội đồng gật, bác B đầu tư món ĐB, cả hội đồng gật.... tại sao, vì đầu là các hợp đồng rửa tiền, bác nào cũng có phong bì.
    Thế ai chịu lỗ, lại là tái cơ cấu Vinashin . Tái cơ cấu là gì ? là hình thức bơm thêm vốn . Để làm gì ? để không bị phá sản trong kinh tế thị trường và để không bị đi đày ở Siberia trong kinh tế tập trung. Tại sao thế ? vì có thứ kinh tế vua lê chúa trịnh, không thị trường cũng chẳng tập trung. Chủ nghĩa cường hào ác bá mượn đủ các thứ áo khoác.
    Khác nhau thế nào ?
    Lệ ninh khi làm vua, hô thanh niên: Học Học Học. Thế là, thanh niên của ông xây dựng nên một siêu cường chỉ sau chưa đầu 20 năm . Nhưng rất nhiều chú bị bệnh mà kien0989 nói " thống phục nhân sâm", sau này giật đổ tượng lệ ninh
    Còn thằng khác lên ngôi, hô hào "đại cách mẹ cái mạng văn hoá đi", "tận diệt chim sẻ" "toàn dân làm gang thép", đốt sách vở, phá sạch đình chùa như ở Phú Thọ (chỉ còn cái đền Hùng có dấu chân người). Khi người ta định kéo đổ tượng bác lông, một tỷ con liệt não lao vào tử chiến, chí phèo là ai ?
    Vậy, cái "kiểu tầu" là thế nèo, bác gulfoil http://ttvnol.com/forum/quansu/1204144/trang-61.ttvn#16484899 ?. Nó xa hay gần, thế theo bác "kiểu Vinashin" thế nèo ?
    Em chỉ thấy, mặt trận pin mặt trời đã hình thành ở ttvnol. he, mỗi mét đất giá bi nhiu ?
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 10:26 ngày 09/07/2010
  10. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Bác HP chửi gần hết đình làng xóm Vịt, nhưng chừa lại 1 vài vị để họ làm việc chứ
    http://dantri.com.vn/c36/s36-407606/tong-bi-thu-dang-cong-san-viet-nam-tham-nga.htm
    "Nhân dịp này, 4 hiệp định về hợp tác trong ngành dầu khí sẽ được ký với hãng Zarubezhneft. Hai bên sẽ đề cập vấn đề xây dựng tại Việt Nam nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở tỉnh Ninh Thuận, bắt đầu vào năm 2014, mà đối tác của Việt Nam trong việc hiện thực hóa đề án này là tập đoàn quốc gia Rosatom."
    Câu trên ko hiểu là Rosatom là một trong những đối tác, hay là đối tác chính nhỉ???

Chia sẻ trang này