1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cọng rêu dưới đáy ao - Võ Văn Trực

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi chimawan, 07/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Trận thử thách thứ hai còn dữ dội hơn. Ban chỉ huy quân sự huyện đội đột nhiên về đóng ở nhà tôi trong một đêm. Các anh ăn cơm vội vàng rồi họp bàn việc gì rất bí mật. Họp xong anh Hiền gọi tôi vào nhà trong nói nhỏ ?oEm cầm cái gậy này xuống cắm ở bến đò Oan để làm vật hiệu, cắm gậy xong em cầm nắm thóc này rải dọc bờ sông Bùng quãng bến đò Oan. Nghe ba tiếng ?oBến đò Oan? tôi run bắn cả người. Bến đò này đã có nhiều người trẫm mình vì oan ức, con dâu bất hoà với mẹ chồng, anh em cãi vã nhau, láng giềng chửi mắng nhau? uất quá không chịu được đành kết liễu cuộc đời ở đây. Tôi mấp máy môi hỏi ?oĐể làm gì hở anh?? Anh nghiêm nét mặt: ?oAnh đã dặn em nhiều lần rồi, việc quân cơ cấp trên bảo làm gì thì em cứ làm không được hỏi lại? Gậy đây, nắm thóc đây em đi ngay kẻo chậm giờ?. Trong tình thế cưỡi lưng hổ tôi làm theo lệnh anh như một cái máy, nắm thóc bỏ vào túi.
    Một cầm chặt cái gậy, một tay cầm chặt hòn đá. Trời tối như bưng. Trong đầu tôi cứ mường tượng thấy trăm hình ma, bóng quỷ mà bà con làng xóm thường kể cho nhau nghe. Bao nhiêu oan hồn thường hiện lên những lúc vắng vẻ để hiếp đàn bà con gái, xô cụ già ngã xuống sông, bắt trẻ con lôi về địa ngục? Chúng hiện ra đủ hình thù kỳ dị: lúc thì thè lưỡi ra cuốn trẻ em vào miệng, lúc thì há mồm như chiếc gầu dài đỏ rực lửa, lúc thì giơ cánh tay dài ngoẵng từ dưới nước lên ôm choàng cổ con gái dậy thì? Vào lúc chính ngọ và ban đêm không ai dám bén mảng tới bến đò. Thế mà bây giờ tôi dám vác xác tới đó, không những chỉ đến bến đò Oan mà còn phải đi dọc bờ sông có nhiều người tự vẫn. Hay là... hay là rủ thằng Bá cùng đi? Thằng Bá gan cóc tía may ra hắn dám liều. Nhưng Bá lại vắng nhà, đành phải đi một mình thôi, việc quân cơ không được chậm trễ.
    Bến đò vắng tanh vắng ngắt chỉ có bóng đêm cùng đom đóm chập chờn. Tiếng cá lóc bóc làm cho không gian càng thêm mênh mông hoang vắng, rùng rợn, tôi lạnh toát cả người. Lạnh từ chân đến óc. Cầm cái gậy thật chặt tôi nói thầm ?oMa quỷ đến đây tao đập vỡ mặt?, tôi làm ra vẻ bình tĩnh cắm gậy xuống bùn và ấn sâu xuống rồi bước rất nhanh xuống bờ sông, vừa đi vừa rải nắm thóc? Làm xong hai việc quan trọng là cắm cái gậy và rải thóc tôi phăm phăm tìm đường về? Cống Cửa Thung kia rồi! Ánh đèn lập loè trong mái lều dân chài. Tự nhiên tôi thở mạnh, tim đập dồn dập, chân vừa chạy vừa run, tôi chui vào lều. Thì ra không phải dân chài mà là anh Hiền đang ngồi với ban chỉ huy quân đội địa phương, người tôi nhẹ tênh sung sướng như vừa được sống lại. Tôi ôm chặt lấy anh trào nước mắt, anh mỉm cười: ?oEm đã hoàn thành nhiệm vụ? - ?oVâng em hoàn thành xuất sắc?. Anh xoa tay rất mạnh lên đầu tôi như xoa đầu một đứa trẻ mới lên năm lên sáu.
  2. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Anh và ban chỉ huy dẫn tôi đi ngược lại bờ sông, anh soi đen pin xuống bãi để thấy rõ những hạt thóc tôi rải, đến bến đò Oan tôi hăm hở chỉ cái gậy tôi cắm lúc nãy. Anh đến tận nơi nhổ cái gậy lên: ?oThế là em đã qua thời kỳ thử thách từ nay em được chính thức là đội viên quân báo?. Lúc này tôi mới hiểu rằng các anh giao cho tôi cắm cái gậy và rải nắm thóc chỉ là để thử gan tôi xem có sợ ma hay không.
    V. Ra Việt Bắc
    Trên túi dết của anh Hiền có viết hai câu thơ bằng mực nho:
    Đã mang tiếng ở trong trời đất
    Phải có danh gì với núi sông
    Anh treo túi lên cột và bao giờ cũng để phía có câu thơ ra ngoài. Mấy đứa bạn của tôi đến chơi học thuộc hai câu thơ đó rồi đọc oang lên. Đi ngoài đường chúng cũng ngân nga: ?oĐã mang tiếng ở trong trời đất?? Tôi dùng phấn nắn nót viết thơ lên xà nhà, thằng Bá viết vào sổ tay. Chữ của thằng Bá đẹp nên nhiều đứa nhờ viết vào bìa cuốn sổ của mình.
    Lần này, từ huyện đội về anh treo túi lên cột rồi bước ngay sang nhà hàng xóm. Anh đi chơi hết nhà này sang nhà kia đến tận trưa, mẹ bảo tôi tìm anh về ăn cơm. Anh ngồi ăn chẳng nói câu nào. Ăn xong lại đi chơi nhà bà con. Trong bữa cơm chiều, bưng bát cơm anh ngập ngừng: ?oCon sắp ra Việt Bắc rồi?. Im lặng một lát mẹ lại hỏi: ?oBao giờ con đi?? Anh trả lời: ?oChừng một tuần nữa?. Mẹ nuốt miếng cơm nhìn anh: ?oNhiệm vụ cách mạng thì con phải đi. Nhớ viết thư luôn cho mẹ.?
    Tôi đem khoe với bọn thằng Bá, thằng Dần, thằng Bội, thằng Yêm? là ?oAnh Hiền tao sắp ra Việt Bắc?. Chỉ một lát sau chúng nó kéo đến chơi tận khuya mới về. Trong giấc ngủ tôi chập chờn mơ thấy Việt Bắc với núi non trùng điệp và huyền bí, với Bác Hồ mặc quân phục cưỡi ngựa đi chỉ huy chiến dịch, với rầm rập những đoàn bộ đội và dân công ra tiền tuyến, với những địa danh Phai Khắt, Na Ngầm, Nà Phạc? mà tôi được đọc trong các thiên bút ký chiến tranh in đậm vào tâm hồn tôi như những dấu chân thần thoại? Anh Hiền được ra Việt Bắc là được ra với Bác Hồ, với chiến khu cách mạng thần thánh, anh được đặt bàn chân lên những dấu chân thần thoại như bà mẹ Thánh Gióng dẫm lên dấu chân ông Khổng lồ?
  3. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Sáng hôm sau anh dẫn tôi xuống thị trấn Diễn Châu để chụp ảnh kỷ niệm. Cả thị trấn và cả huyện chỉ có một hiệu ảnh của ông Tuấn. Ông đậu thành chung, đi dạy học một thời gian rồi mở hiệu ảnh ở Vinh. Sau khi Vinh tiêu thổ kháng chiến, ông tản cư ra Diễn Châu và lại mở hiệu ảnh. Vào thời điểm này hiệu ảnh của ông rất đông khách. Nam nữ thanh niên nông thôn kéo nhau ra chụp ảnh trước khi chia tay để đi dân công hoặc để tòng quân. Thầy giáo và học sinh trường Nguyễn Xuân Ôn là lượng khách đông nhất của ông. Ngày mai đã chia tay rồi. Hoặc ngày kia. Hoặc tháng sau hoặc năm sau? Cứ chụp ảnh sẵn nhỡ ra cấp trên có giấy về điều động đột ngột lại không kịp chụp. Thầy chụp với học trò, cả lớp chụp chung, từng đôi chụp với nhau. Tuổi học trò đầy mơ mộng, khao khát những chuyến đi xa nhưng cũng ngại ngùng nỗi chia ly. Nhiều cô khóc sướt mướt ngay tại hiệu ảnh.
    Anh Hiền quen ông Tuấn chủ hiệu, nói đùa với ông mấy câu tiếng Pháp. Ông mời anh em tôi vào chụp trước, không phải chờ đợi. Hôm ấy quả thật tôi buồn lắm. Anh cũng buồn. Đây là lần cuối cùng anh em chụp ảnh kỷ niệm để rồi anh đi xa, đi xa không biết đến bao giờ mới được gặp lại?
    Thế là anh Hiền đã ra Việt Bắc. Gia đình tôi có ba anh em trai. Anh Đồng làm trưởng ban quân báo huyện đội lúc mười tám tuổi, giữa tuổi mười chín thì anh mất lúc giặc đổ bộ lên Quỳnh Lưu. Còn lại anh Hiền và tôi bây giờ anh Hiền lại đi xa biền biệt. Tôi nhớ anh vô cùng. Kỷ niệm những ngày gần gũi luôn luôn hiện về với tôi trong giấc ngủ, trong sinh hoạt hàng ngày.
    Mỗi lần ra sau nhà nhìn thấy đống rơm tôi lại nhớ cồn cào lúc nhỏ anh đánh trâu đi bắt chuồn chuồn giữa trưa nắng chang chang. Mẹ gọi mãi anh không chịu về. Mẹ ra tận đầu làng kéo anh về đánh một trận rất đau. Cứ mình trần như thế anh bỏ trốn biệt mấy ngày. Thương quá mà chẳng biết anh ăn ở đâu, ngủ ở đâu. Vào lúc xế chiều tôi đang thơ thẩn sau nhà thì nghe có tiếng vỗ tay khe khẽ bên kia đống rơm và kèm theo tiếng gọi rất nhỏ: ?oXí ơi!? tôi ngoái nhìn thì thấy anh nấp sau đống rơm: ?oEm đem ra cho anh một cái áo?. Tôi vào nhà lục tìm áo đem ra, anh ôm áo rồi lại chạy biến mất?
    Kỷ niệm đầy ắp gian nhà. Nhà cửa càng trở nên vắng vẻ. Những lúc rỗi rãi cha tôi thường nằm trên giường ngâm Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm. Mẹ và chị Hiền ngoài buổi làm đồng còn lo công tác hội mẹ chiến sĩ chấp hành phụ nữ xã. Dạo này cha mẹ tôi nhận nuôi một anh thương binh tên là Nguyễn Xuân Đài, quê ở Hải Dương. Anh bị cụt một chân, vừa ngồi chằm nón anh vừa hát cho tôi nghe những bài hát lúc còn ở chiến trường. Nhà có thêm người, thêm tiếng hát vui hơn trước.
  4. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tôi viết thư, anh Hiền biết tin nhà có nuôi một anh thương binh, biết anh Đài ít hơn một tuổi. Anh Hiền viết thư về xưng ?oanh? và gọi anh Đài là ?oem?. Tôi cảm thấy vui như anh Đài là con để của mẹ tôi, là anh trai của tôi.
    Ngày nào tôi cũng mong nhận được thư anh, vừa nhận được thư hôm trước hôm sau tôi lại chờ thư khác, mỗi lần có thư tôi lại đọc cho cả nhà cùng nghe. Buổi trưa đọc, buổi tối lại đọc. Bà con làng xóm cũng sang nghe. Mọi người vui như đang dự một đám hội. Vui nhất là khi anh gửi về một tấm ảnh cha tôi, mẹ tôi, chị tôi? đều khoe với bà con họ hàng làng xóm. Suốt trong tuần lễ ngày nào cũng có dăm bảy người tụ họp ở nhà tôi để xem ảnh. Người thì khen ?oBác Hiền hơi gầy nhưng trông quắc thước hơn trước?. Người thì khen ?ochú Hiền trông oai hơn hồi ở nhà??
    Có lẽ tôi là người sung sướng nhất khi cầm tấm ảnh. Tôi cảm thấy nó quý giá vô cùng: ảnh chụp ở Việt Bắc - chiến khu thần thánh của cuộc kháng chiến. Tôi bọc kỹ ba bốn lớp giấy, cất cẩn thận vào tráp. Trừ lúc đi vắng, hễ về nhà là tôi đem ảnh ra xem. Đứng ở mọi góc độ để xem: từ trên xuống, từ dưới lên, từ phải sang, từ trái sang, tầm nhìn xa nửa mét, một mét? Tôi tưởng tượng cảnh chiến khu Việt Bắc âm u rừng rậm núi cao, thác tung trắng xoá, đèo lộng gió, đuốc sáng rực những đêm bộ đội và dân công mở chiến dịch. Trên cái khung cảnh hùng tráng ấy là tấm ảnh của anh. Anh đội mũ lưới, mặc áo trấn thủ, mặt hơi ngẩng lên, miệng cười. Chưa bao giờ tôi thấy anh cười khi chụp ảnh, kể cả lúc vui vẻ được học sinh trường Nguyễn Xuân Ôn cùng chụp chung. Đây là tấm ảnh đầu tiên anh cười. Tấm ảnh chụp từ chiến khu Việt Bắc gửi về cho quê hương, cho gia đình, cho tôi.Tôi nhìn theo ảnh để vẽ lên một tờ giấy to, tỉ mẩn tô đi sửa lại, rồi treo lên xà nhà. Còn tấm ảnh thì tôi cất kín, sợ giở ra xem nhiều ảnh sẽ phai màu. Niềm vui từ tấm ảnh cứ lan toả trong tôi từ ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác?
  5. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    VI. Mất lập trường giai cấp
    Hoà bình lập lại. Tôi học ở trường cấp ba Nghi Lộc, cách nhà gần ba mươi kilômet. Chiều thứ Bảy cuốc bộ về. Chiều Chủ nhật mang gạo, khoai và thức ăn cuốc bộ đến trường.
    Năm ấy mất mùa. Đói! Đói khủng khiếp! Cứ cuối buổi học là chúng tôi đói mờ mắt, rất khó tiếp thu bài giảng của thầy. Mười hai giờ trưa tan học chúng tôi còn phải rủ nhau ra đồng hái rau khoai. Hôm nào cũng hái đầy rổ. Bà con nông dân nhìn thấy, chúng tôi ngại quá phải lấy nón úp kín miệng rổ. Ba đứa ở trọ một nhà dân: Ngô Trực Nhã, Trương Viết Vinh và tôi. Chị chủ nhà cho mượn chiếc nồi to, bữa nào chúng tôi cũng bỏ đầy ắp rau khoai, một nắm gạo và một nhúm muối, vừa đun vừa quấy cho nát nhừ, rồi múc ăn. Buổi chiều có lúc sắp tắt nắng chúng tôi vào rừng thông hái củi. Đêm nào cũng thức đến gà gáy canh ba để học bài, làm bài. Đứa nào cũng say mê học. Vinh và Nhã giỏi toán. Tôi giỏi văn. Chúng tôi hướng dẫn nhau, truy bài nhau, đứa này đặt câu hỏi để đứa kia trả lời. Dư âm của cuộc kháng chiến còn vang dội trong tâm hồn lứa tuổi học trò. Đánh giặc xong, đất nước sẽ rất cần trí thức trong công cuộc xây dựng, cho nên phải ráng sức mà học.
    Một buổi chiều, Vinh, Nhã và tôi đang hái củi trong rừng thì thằng con bà chủ nhà tìm vào tận nơi báo tin: anh Hiền đang chờ ở nhà! Anh Hiền à? Anh Hiền nào? Chẳng lẽ anh Hiền lại về đột ngột thế? Ba đứa chúng tôi vác ba bó củi co chân co cẳng chạy một mạch.Vừa tới đầu ngõ thì thấy anh đang đứng chờ. Sung sướng quá, tôi nhìn anh và hai gò má anh ướt đẫm. Bao nhiêu năm rồi, anh em mới gặp lại nhau. Không những tôi mừng mà thằng Vinh thằng Nhã và cả gia đình nhà chủ cũng mừng. Mọi người đứng quanh anh hỏi hết chuyện này sang chuyện khác. Anh biếu chị chủ nhà một cái áo chần bông màu gụ, anh chủ nhà một đôi giày vải, ba đứa chúng tôi ba cái ?obút nguyên tử?. Chợt thấy trên đầu anh có đính huy hiệu Điện Biên Phủ, tôi hỏi:
    ?oƠ, anh cũng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ à??
    ?oỪ?.
    ?oSao anh không viết thư về cho cha mẹ và em biết??
    ?oViết thư về sợ mọi người lo?.
    Hiểu tâm lý chúng tôi, anh gỡ chiếc huy hiệu trao cho tôi. Ba đứa chúng tôi và mọi người trong gia đình chị chủ nhà chụm đầu ngắm nghía một cách say mê.
    Từ khi biết anh là chiến sĩ Điện Biên Phủ, ai cũng nhìn anh với con mắt kính nể. Mấy người hàng xóm cũng chạy sang hỏi thăm. Anh lục trong ba lô ra một cái ca-men trắng in hình cờ đỏ ?oQuyết chiến quyết thắng?, hình anh vệ quốc đoàn đang xông trận và dòng chữ màu đỏ ?oChiến sĩ Điện Biên Phủ?. Mọi người truyền tay nhau xem, nâng niu như cầm một bảo vật.
    Anh dẫn tôi ra đường chơi, hai anh em ngồi trên cồn cỏ giữa cánh đồng. Anh nói anh đã làm xong nhiệm vụ đánh thực dân, bây giờ Đảng điều anh tham gia nhiệm vụ đánh phong kiến. Ngày mai anh phải vào Hà Tĩnh cải cách ruộng đất đợt năm. Giọng anh đầy hào hứng ?oTrận đánh này còn quyết liệt hơn đánh Pháp. Ta chỉ đánh thằng Pháp trong chín năm, nếu cộng thêm tám mươi năm nô lệ thì ta cũng chỉ đánh nó gần một trăm năm. Còn bọn phong kiến địa chủ bóc lột dân ta hàng ngàn năm rồi, đánh nó còn khó hơn đánh Pháp, chúng nó có nhiều mưu ma chước quỷ để chống lại ta. Cải cách ruộng đất là một cuộc cánh mạng long trời lở đất, cày xới đến tận tầng sâu của ý thức con người?? Nghe anh nói mà người tôi thỉnh thoảng lại rung lên một cảm giác kỳ lạ thấp thỏm chờ đợi, hy vọng?
    Anh vào Hà Tĩnh còn tôi vẫn cam chịu gian khổ học hành. Mỗi Chủ nhật về nhà một lần, mỗi lần về tôi lại biết thêm một số tin tức làng xóm phát động cải cách ruộng đất. Đột ngột một chiều thứ bẩy tôi từ Nghi Lộc về nhà đã thấy anh Hiền. Tôi đang ngơ ngác nhìn anh thì anh nói: ?oAnh được về hẳn rồi, anh em không phải xa nhau nữa?.

  6. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Dần dà về sau tôi mới biết rõ tại sao anh về hẳn. Tham gia cải cách ruộng đất ở Đức Thọ anh thấy quy sai một gia đình lên địa chủ, một lần họp đội anh nêu ý kiến phản đối, đội không nghe. Anh tỏ thái độ bướng bỉnh, hàng ngày vẫn vào gia đình ấy chơi. Ông đội trưởng trình lên đoàn và đoàn quyết định giao trả anh về Bộ Quốc phòng. Anh lập tức xếp quần áo, mang ba lô chào bà con nông dân quay trở về Hà Nội, không thèm trình bày một câu nào với Đội, với đoàn cải cánh ruộng đất. Bộ Quốc Phòng bèn cho anh đi học đại học Nông nghiệp. Trong quan niệm của cán bộ ta hồi đó chỉ có hoạt động chính trị hoặc quân sự mới có thể tiến thân được. Bị gạt sang làm chuyên môn tức là không được cấp trên tin cậy nữa, cộng thêm bản chất di truyền của ông đồ Nghệ, anh mạnh dạn xin phục viên.
    Biết anh về nhà hẳn tôi buồn và thương anh. Bà con trong làng bàn tán với nhau: ?oCông lao chín năm kháng chiến của ông Hiền đổ xuống sông?. Tôi chẳng biết nói gì thêm với anh. Mỗi Chủ nhật về nhà nhìn thấy anh tha thẩn ra sân lại vào nhà, tôi thương anh. Chẳng lẽ anh theo bác Chắt Kế chuẩn bị khởi nghĩa khi còn bóng tối, hăm hở tòng quân đánh Pháp, say mê lý tưởng, bây giờ tiêu tan hết? Thấy tôi bần thần, anh lựa lời an ủi : ?oEm thấy đấy, từ những năm đầu kháng chiến, tiếng tăm Tướng Đặng Văn Việt lừng lẫy khắp cả huyện, cả tỉnh, cả nước. Chỉ vì gia đình là địa chủ quan lại mà phải ra khỏi quân đội. Mấy người bạn của anh như anh Lộc, anh Thân, anh Hối cũng lần lượt bỏ về nhà. Vì sao? Anh chưa thể nói với em được. Có lẽ sau này em sẽ hiểu??
    Qua lời của anh tôi nhận ra một sự thực như thế. Lâu nay anh ta vẫn đồn Tướng Đặng Văn Việt ?ovề vườn?, mà tại sao anh Lộc cũng về nhà làm thợ may, anh Thân về nhà làm ruộng. Nghe nói trong cải cách ruộng đất anh Thân làm đội trưởng, bỗng nhiên bị quy là Quốc dân Đảng, ngồi tù một thời gian rồi mang khăn gói lếch thếch về với vợ con. Anh Hối trong kháng chiến làm đại đội trưởng xông xáo trên chiến trường Thừa Thiên nay cũng về sống thui thủi ở Hà Nội. Tại sao nhỉ? Tại sao các anh đã một thời xông pha vào cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước mà nay bị đẩy ra ngoài rìa của cuộc đấu tranh ấy?...
    Tôi tò mò xem cuốn sổ tay của anh chi chít ghi những dòng chữ trong mấy tháng đi cải cách ở Hà Tĩnh. Trang nào cũng khó đọc, ngoặc ra ngoặc vào, ghi ra cả ngoài lề, có chỗ dòng này ghi chồng lên dòng kia, có chỗ ghi rồi lại xoá mực nét bút đè lên rách cả giấy? Tôi cố cầm từng tờ soi ra ánh sáng đọc loáng thoáng được một số câu: ?oÔng Thìn làm giáo học mà cũng địa chủ, bà Mến biết cái cóc gì mà cũng thường vụ Quốc dân Đảng, địa chủ cả nút thế này thì lấy ai làm nông dân? Chúng nó kích bà con nông dân tố nhau lộn nhào lộn nhút?? Cuối cuốn sổ anh ghi mấy dòng rất dễ đọc: ?oNợ máu xương với đời, mình đã trả xong. Thôi thì về nhà vui thú điền viên. Không làm được cây đại thụ chống chọi cùng phong ba thì xin làm cọng rêu dưới đáy ao để được yên thân?. Có lẽ thấy mấy ông công an xã thường hay ra vào cho nên anh đốt cuốn sổ, còn chiếc ca ?ochiến sĩ Điện Biên Phủ? và chiếc huy hiệu Điện Biên Phủ anh bọc giấy cẩn thận cất vào tủ chè. Một tấm ảnh chụp với đồng đội bên dòng suối Việt Bắc anh ***g vào khung kính treo lên tường.
  7. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    VII. Vui thú điền viên
    Suốt trong vòng nửa tháng anh đi chơi bên ngoại, thăm bạn bè xa gần bên này và bên kia sông Bùng, thăm mấy cụ già trong làng nhất là các cụ đồ nho. Anh đến chơi nhà các dì, các cậu. Đến nhà ai anh cũng có quà hoặc một cái kẹo lạc hoặc vài chiếc kẹo bạc hà, hoặc dăm ba hào bạc? Phong cách tiếp xúc trò chuyện của anh hoàn toàn không có vẻ gì là một người đã từng chỉ huy quân đội, hình như anh mang nặng tâm lý một viên chức thời xưa về hưu. Có lẽ đúng hơn, anh nghĩ rằng mình là một sĩ quan về làng nghỉ ngơi sau một thời gian dài chinh chiến, trong đó có tâm lý một nhà nho xa lánh nơi bon chen ồn ào.
    Sau khi đã đi thăm hỏi những nơi cần thiết, hàng ngày anh ở nhà dọn dẹp đồ đạc, kê lại cái tủ chè, đóng lại cái giường, sắm thêm ít đồ tế khí đặt lên bàn thờ? Hồi sau cách mạng tháng Tám anh là một trong những người gương mẫu trong việc ?othờ cúng tập thể? tại nhà thờ đại tôn thì nay anh lại là một trong những người đầu tiên lập lại bàn thờ riêng tại gia đình mình. Rồi anh cũng thắp hương cúng giỗ cúng tết. Ngày giỗ ông nội anh bàn với cha mẹ sắm cỗ mời chú bác sang dự, cũng uống rượu và kể lại chuyện từ thời xửa thời xưa mang khăn gói đến đất này lập nghiệp. Những bữa giỗ như vậy anh thích kéo dài tiệc rượu từ trưa cho đến nửa chiều, bà con ai về nhà nấy, anh ngủ một giấc rồi dậy đọc sách. Từ khi phục viên anh mua khá nhiều sách, toàn sách của các học giả thời trước như ?oVân Đài loại ngữ? của Lê Quý Đôn, ?oỨc Trai thi tập? của Nguyễn Trãi, ?oLịch triều hiến chương loại chí? của Phan Huy Chú?
    Đặc biệt anh dành nhiều thời gian để tu sửa mảnh vườn trước nhà. Trước kia hơn một sào vườn này quanh năm trồng rau cải, khoai lang? Bây giờ anh chỉ giành hai luống trồng rau. Tất cả đất còn lại anh trồng chanh, cam, quýt. Bốn góc trồng bốn cây hoè. Sáng nào anh cũng dậy sớm ra làm vườn chừng một tiếng đồng hồ rồi vào uống trà ngâm nga đôi ba câu Kiều.
    Dọc lối ngõ từ vườn vào đến sân, thuở sinh thời ông tôi trồng một hàng cau, lúc lên sáu lên bảy, chiều nào cũng vậy, khi vừa tắt nắng, chúng tôi thường trải chiếu ngồi giữa sân xem vợ chồng lũ quạ bay lượn và lót tổ trên ngọn cau. Sau ngày cướp chính quyền, người ta coi việc ăn trầu là lạc hậu, chỉ còn một số bà già nhai trầu bỏm bẻm, con gái thì bỏ hẳn, các bà trung niên đua nhau cạo răng trắng. Chính tay anh Hiền đã cầm dao chặt hàng cau, nay anh lại lên tận chợ Bộng, chợ Vẹo tìm mua cau con về trồng.
  8. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Ngay trước sân, anh lấy đá ở lèn Hai Vai và tự tay xây hòn non bộ. Anh cất công chui vào hang tìm những hòn đá hình thù kỳ dị, chồng lên nhau, gắn lại bàng xi măng tạo nên một toà thiên nhiên nhỏ bé có suối chảy, có hang động, có cây cối rêu phong. Hầu như không bao giờ anh hài lòng với ?ocông trình? của mình. Ngày nào anh cũng giành một ít thì giờ để hoàn chỉnh thêm. Lúc thì anh làm thêm cái cầu qua suối, lúc thì anh tạo hình một ông tiên buông cần câu? Anh chăm chút và bảo vệ cẩn thận như mười năm trước anh quý trọng giữ gìn cuốn sổ ảnh với những tấm hình mà anh tôn thờ.
    Nhưng anh không chỉ lo tôn sửa gian nhà, mảnh vườn. Anh còn chịu khó ra đồng làm việc cùng bà con nông dân. Ngày mùa anh cũng đi gặt.Vụ cày anh cũng đi cày.Vào thì bón phân cho khoai lúa anh cũng đi gánh phân... Bà con khen anh là chín năm cầm súng đánh giặc không quên công việc nhà nông.
    Thật ra làm những việc nặng nhọc ấy là quá sức anh. Chẳng qua anh muốn tỏ ra mình đã hoàn thành nhiệm vụ chín năm chinh chiến thì phải thực sự trở về với công việc đồng áng. Không phải như những người lính khác, trước khi nhập ngũ thì thực sự là nông dân; còn anh, trước khi cầm súng anh chỉ quen cầm bút. Lắm lúc nhìn anh lóng ngóng lội bùn tôi chạnh lòng thương. Có những buổi sáng mùa đông tôi dắt trâu đi trước, anh vác cày đi sau. Vừa đi anh vừa cuộn thuốc lá hút. Ra đến ruộng anh cũng cởi quần dài buộc quanh cổ giống như các bác lực điền, mắc ách lên vai trâu, rút hộp thuốc lá sợi xoè bật lửa ngậm trên môi, rồi mới cầm cày giục trâu bước. Chừng được mươi đường cày anh lại dừng trâu, hút điếu khác. Cứ thủng thẳng như vậy cho đến hết buổi. Anh tháo ách, rửa chân tay, ngậm một điếu thuốc, vác cày trở về. Anh cố tạo ra niềm vui trong công việc nặng nhọc.
    Anh bắt đầu nghiện thuốc lá từ khi mới gia nhập quân địa phương. Ngồi trò chuyện với bạn bè, cùng hút thuốc lá anh thấy khoái lắm. Phục viên về nhà, bạn tâm đắc ở xa, hễ có bác nông dân láng giềng sang chơi là thế nào anh cũng pha trà, cuộn hai điếu thuốc lá, đưa cho bác một điếu. Anh vừa hút vừa thích thú nhìn điếu thuốc cháy trên môi người đối diện? Những lúc rỗi rãi như vậy, tôi không để ý lắm đến việc anh hút thuốc. Nhưng lúc vác cày vác bừa mà anh ngậm điếu thuốc tôi lại chạnh lòng nhớ anh lúc ngồi trên lưng ngựa, ngậm thuốc lá, buông cương, ngựa thủng thẳng từng bước.
  9. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    VIII. Với người vợ hiền
    Anh lấy vợ từ năm mười bảy tuổi. Cha mẹ dạm hỏi và anh vâng lời nghe theo. Chị quê ở làng Vĩnh Bình, cách Hậu Luật chừng ba kilômét. Nhưng trước khi cưới, lũ em út chúng tôi không hề được biết mặt chị, chỉ nghe các cậu các mợ nói chị là một cô gái đẹp người đẹp nết. Một lần tôi theo mẹ về quê ngoại ăn giỗ, lúc qua cánh đồng làng Vĩnh Bình mẹ chỉ cho tôi thấy chị đang làm ruộng từ xa. Anh cũng chưa một lần gặp mặt chị, càng chưa hề trò chuyện với chị.
    Lễ cưới chưa tổ chức được bao lâu thì Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Anh mải mê đi lo việc làng việc xóm, rồi thoát ly gia đình lên công tác ở huyện. Do tiếp xúc nhiều với các cô gái có học hành, nhất là nữ sinh trường Nguyễn Xuân Ôn, anh chểnh mảng với chị, thậm chí không bao giờ anh hỏi chị một câu. Nhỡ ra gặp chị dọc đường làng, anh cố lảng tránh.
    Hôm anh rời quê ra Việt Bắc mẹ tôi có dọn một bữa cơm rượu, mời các bác các chú sang dự. Chị thức dậy khi gà chưa gáy canh năm, lo nhóm lửa đồ xôi, làm thịt gà, lụi cụi một mình, chẳng gọi mẹ gọi các em gái dậy cùng lo. Cỗ bàn thật chu tất. Bà con ngồi uống rượu vui vẻ, chúc ?obác Hiền?, ?ochú Hiền? lên chiến khu lập được nhiều công trạng. Chị cặm cụi trong bếp hầu hạ mọi người. Niềm vui lớn nhất của chị lúc này là lo chặt miếng thịt gà cho đẹp, pha bát nước chấm cho ngon, chọn những quả cà trắng xếp vào đĩa. Chị tỉ mẩn lo từng mâm cỗ vừa là để đựơc tiếng là người vợ hiền dâu thảo của gia đình, vừa để vừa lòng chồng trước lúc xa gia đình, xông pha nơi trận mạc. Nhưng anh thì chẳng để ý gì đến chị. Đến lúc mang ba-lô ra đi, anh chào cha mẹ, bà con họ mạc và mọi người trong gia đình, nhưng không hề chào hỏi chị lấy một câu.
    Chiều. Rồi xế chiều. Rồi vào đêm. Chị ngồi một mình dưới bếp lau nước mắt. Sắp gà gáy canh ba tôi tỉnh dậy thấy chị vẫn ngồi. Tôi im lặng bước đến và ngồi bên cạnh chị:
    ?oSao chị chưa ngủ??
    ?oChị không buồn ngủ?.
    ?oSáng mai phải dậy sớm đi cấy, chị không ngủ thì mai ra đồng lội bùn sao được?.
    ?oChị không buồn ngủ mà. Em lên ngủ đi, kẻo dậy muộn đi học chậm giờ. Sắp sáng rồi, chị thổi cơm để em kịp ăn mà đến trường??
  10. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Suốt thời gian ở Việt Bắc, tất cả những bức thư anh gửi về đều không hỏi thăm chị một câu. Bức thư nào tôi cũng bóc ra, đọc cho cả nhà cùng nghe. Tôi đọc chậm chạp lời chúc sức khoẻ cha mẹ, em Đích, em Xí, em Đáng, em Thoả, chị Chắt Khải, bà con thân thuộc? Đọc đến hết thư tôi hơi bị hẫng? không có tên chị Hiền. Tôi vừa thương chị vừa tự giận mình. Tôi không hiểu. Tôi nẩy ra một ý khôn ngoan, lần sau có thư anh tôi đọc thêm vào một câu: ?oEm Hướng nhớ giữ gìn sức khoẻ, nhớ chăm sóc cha mẹ?? - tên chị là Hướng. Gương mặt chị sáng lên một niềm vui kín đáo? Tối đến, mọi người đã yên giấc ngủ, chị lục trong túi tôi đem bức thư của anh xuống bếp thắp đèn đọc lại. Bỗng chị gục đầu, nấc lên. Tôi đang ngồi học nghe rõ tiếng nấc của chị, chạy xuống: ?oChị ơi! Chị đi ngủ, khuya rồi?? Chị không đáp lại cứ ôm mặt nấc lên từng hồi. Nước mắt là cách duy nhất để chị tự giãi bày. Buồn đau đến mấy chị cũng không tâm sự với ai. Khác với nhiều người phụ nữ, chị chẳng bao giờ ngồi lê la với bà này bà nọ kể chuyện gia đình mình nên không mấy ai biết được sự rạn nứt tình cảm giữa chị và anh.
    Những năm xa chồng chị sống nhẫn nhục, lặng lẽ và làm việc không mệt mỏi. Chị được bầu vào Ban chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ xã. Có thời kỳ chị làm ủy viên Hội đồng nhân dân xã. Hôm nào bận đi họp, tối về chị trằn sức ra làm bù. Có đêm chị thức rất khuya, xay thóc, giã gạo, rồi ra ao vớt bèo. Mẹ tôi thấy con dâu làm việc nhiều quá, ra tận ao đỡ rổ bèo cho con:
    ?oBèo lợn thì để mai mẹ lo. Trời rét thế này dầm nước con ốm mất?.
    ?oMẹ cứ về ngủ đi. Con chỉ làm một lát là xong ngay?.
    Cha mẹ tôi sinh được sáu người con. Hai chị lấy chồng ở làng khác. Anh Đồng mất năm 1949. Chị Hiền là con dâu trưởng. Sau chị có tôi và hai em gái. Ba anh em tôi còn nhỏ. Cha mẹ già yếu. Chị cáng đáng tất cả mọi việc nhà, từ bếp núc cho đến đồng áng. Dáng người chị hơi thấp nên lúc cắt hái, gánh rơm gánh rạ trông chị càng có vẻ nhanh nhẹn, xăm xắn. Tết nhất, giỗ chạp các bà cô dắt cháu về, cùng xúm tay giúp chị, nhưng chị gạt ra: ?oLâu ngày về ông bà, cô lên tiếp khách, nói chuỵên với các chú các bác. Một mình tôi lo là đủ rồi?. Bà con làng xóm ai cũng khen: ?oBà Đoan có người con dâu tốt nết tốt đức thật là phúc?.

Chia sẻ trang này