1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cú Pháp Tiếng Việt

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi kevin_thi, 23/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kevin_thi

    kevin_thi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Cú Pháp Tiếng Việt

    I. Cú Pháp
    Cú pháp là phép tắc dùng các tiếng để đặt câu văn cho chỉnh. Cú pháp là linh hồn của ngôn ngữ. Muốn viết văn cho đạt và muốn nói cho hay, ta phải sành về cú pháp. Muốn sành về cú pháp, ta phải hiểu thế nào là câu văn, các loại câu văn, mệnh đề, các loại mệnh đề, cùng cấu trúc của chúng.

    II. Câu Văn
    Câu văn là sự kết hợp của nhiều tiếng để diễn tả một sự việc (sự tình) hay nhiều sự việc một cách đầy đủ, có ý nghĩa, và có liên quan với nhau.
    Khi nói hết một câu, ta ngừng lại hay thôi không nói nữa. Khi viết một câu văn, ta viết hoa mẫu tự đầu của chữ ở đầu câu. Ở cuối mỗi câu, tùy từng trường hợp, ta dùng dấu chấm (.), dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than (!), hay ba chấm (...). Trong một câu, ta còn dùng dấu phẩy (,) và chấm phẩy (;) để phân các chữ, các nhóm chữ, và các mệnh đề. Mỗi câu văn gồm có một hay nhiều mệnh đề.

    III. Mệnh Đề Mệnh đề là lời diễn tả kết quả của một sự phán đoán. Nếu có đầy đủ ý nghĩa, một mệnh đề tự nó đã là một câu. Đó là câu đơn. Nếu trong một câu có nhiều mệnh đề thì câu đó là câu tổng hợp hay câu phức.
    Các mệnh đề được xếp thành ba loại: mệnh đề độc lập, mệnh đề chính, và mệnh đề phụ. Vậy, mệnh đề là một thành phần của một câu. Mỗi mệnh đề gồm có tối thiểu một chủ từ và một động từ, trừ những trường hợp tỉnh lược, nhất là trong câu hỏi và trả lời.
    Thí dụ: 1. Cô Hồng đi vắng. (Mệnh đề độc lập). 2. Quyển sách này là của tôi và quyển kia là của anh. (Hai mệnh đề độc lập). 3. Tại xe hỏng, tôi không lại thăm anh được. (Mệnh đề phụ và mệnh đề chính). 4. Dừng lại! (Chủ từ hiểu ngầm hay được tỉnh lược: Anh hay các anh dừng lại). 5. Anh Hải đến chưa? - Chưa. (Anh Hải chưa đến. Chủ từ Anh Hải và động từ đến được tỉnh lược trong câu trả lời Chưa.)

    IV. Phân Loại Câu Văn
    1. Theo cách cấu tạo câu, ta có hai loại câu văn: câu đơn và câu tổng hợp (câu phức). Câu đơn diễn tả một sự việc, câu tổng hợp (câu phức) diễn tả nhiều sự việc. Câu tổng hợp có từ hai mệnh đề trở lên: mệnh đề độc lập, mệnh đề chính, và mệnh đề phụ. Thí dụ: a.Câu Đơn chỉ có một mệnh đề: Tôi xin lỗi anh! b.Câu Tổng Hợp (câu phức) có nhiều mệnh đề (m.đ.): Xin lỗi anh (m.đ. độc lập), tôi không đến dự phiên họp được (m.đ. độc lập). Vì hôm qua xe hỏng (m.đ. phụ), tôi không đến dự phiên họp được (m. đ. chính). Tôi xin lỗi anh (m.đ. độc lập), vì hôm qua xe hỏng (m.đ. phụ), tôi không đến dự phiên họp được (m.đ. chính).

    2. Theo ngữ điệu của câu, tức là theo giọng khi ta nói câu đó, chúng ta có ba loại câu: a. Câu nói theo giọng thường: Mẹ đã về chợ. b. Câu nói theo giọng hỏi: Mẹ đã về chợ? (Dùng để hỏi lại xem có đúng không). c. Câu nói biểu lộ tình cảm: Mẹ đã về chợ! (Người con reo mừng khi thấy mẹ về chợ). Ngoài ra muốn nhấn mạnh vào chữ nào, ta nói chữ đó với giọng cao hơn trong câu nói theo giọng thường, chẳng hạn như ta nói: ?oAnh phải làm ngay việc đó.? hay ?oAnh phải làm ngay việc đó.?

    3. Theo cách nói xác định, phủ định, hay nghi vấn (hoài nghi), ta có ba loại câu:
    a. Câu Xác Định diễn tả sự việc có xảy ra: Cô ta ngâm thơ. Trong các câu xác định, ta còn dùng các trạng từ sau để tăng thêm ý xác định: có (Nhà tôi có ở nhà.), chính (Chính cô ta đã nói.), tự (Anh hãy tự trách mình.), phải (Cô ta phải đi.), chỉ (Chỉ có anh mới làm được việc ấy.), mới (Tôi mới thấy cô ta.), duy (Duy có anh mới xứng đáng chức vụ ấy.), toàn (Họ toàn là người tốt.), tinh (Họ ăn tinh những rau.), rặt (Bọn Cộng nô rặt là đồ tồi.), thuần (Cô ta mặc thuần một màu đen.), những (Cô ta mua những mười cái áo dài.), v.v.

    b. Câu Phủ Định diễn tả sự việc không xảy ra: Cô ta không đi dự tiệc. Trong các câu phủ định, ta thường dùng các phủ định trạng từ như: không (Chúng nó không tới.), chẳng (đồng nghĩa với không nhưng có ý quả quyết hơn: Chúng nó chẳng làm được gì ra hồn.), chớ (Chớ thấy người sang bắt quàng làm ho.ỉ), đừng (Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn những gì Cộng Sản làm), chưa (Cái gì cũng chưa xong.), há (Anh ấy há phải con người vô ơn bạc nghĩa. Tôi một lòng vì nghĩa há vì danh lợi.), phi (Phi những người học rộng tài cao, không ai làm được việc đó.), bao giờ (Tôi có làm thế bao giờ.), đâu (Của đâu mà cho nó hoài. Tôi biết đâu việc đó.), v.v.

    Người ta còn dùng những tiếng phiếm chỉ đại danh từ ai, người nào, và cái gì, v.v. kèm với các phủ định trạng từ chẳng, không, cũng, cũng không, và chưa, v.v. để diễn tả ý phủ định một cách mạnh hơn: Chẳng ai ưa hắn. Không người nào lai vãng đến đây. Chưa cái gì hoàn tất cả. Người nào cũng không thích. Cái gì cũng tệ!

    Ngoài ra, người ta còn dùng các trạng từ như: nào, dễ, dám, quản, xiết, còn, kể, và chắc, v.v. để nhấn mạnh nghĩa phủ định của câu văn. Thí dụ: Nào tôi có làm thế bao giơ! Đã dễ gì nó làm được việc đó mà anh lo. Tôi đâu dám sai lời. Quản bao tháng đợi năm chờ (Kiều, câu 553). Khóc than khôn xiết sự tình (Kiều, câu 73). Còn chi là cái hồng nhan (Kiều, câu 3101). Kể chi những nỗi dọc đường (Kiều, câu 1527). Chắc gì nó làm xong việc ấy.

    c. Câu Nghi Vấn để hỏi hay để tỏ ý hoài nghi: Cô ta có đến không? Cuối câu nghi vấn bao giờ cũng phải có dấu hỏi (?) . Muốn đặt câu hỏi, người ta thường dùng các trạng từ nghi vấn, chứ không cần đảo ngược vị trí chủ từ và động từ như trong tiếng Anh tiếng Pháp.

    Người ta thường dùng các trạng từ sau đây trong câu hỏi: không (Anh đi không?), có...không (Cô có đi không?), chưa (Anh đọc quyển sách này chưa?), đã...chưa (Anh đã đọc quyển sách này chưa?), à (Thật như thế à?), nhỉ, a (Da mồi tóc bạc ta già nhỉ? Aó tía đai vàng bác đấy a ?), ư (Thật thế ư?), tá (dùng trong văn chương để tự hỏi mình: Người xưa đâu tá?), và hử hay hở (Làm gì thế hử? Ngã như thế có đau không hở?).

    Trong các câu hỏi về người, ta dùng tiếng nghi vấn đại danh từ: ai (Ai đi với nó?Nó nói chuyện với ai vậy?). Người ta còn dùng tiếng nghi vấn chỉ định từ nào đặt sau các danh từ ông, bà, anh, chị, người v.v. để hỏi: Ông nào? Người nào chào anh vậy? Bà nào đứng đằng kia? Trong số các anh này, chị chọn anh nào? Chị nào tình nguyện?

    Trong các câu hỏi về sự vật, người ta dùng tiếng chỉ định từ gì, chi, nào,v.v.để hỏi: Cái này là cái gì? Anh hỏi cái chi? Anh đi đường nào? Trong hai việc, anh chọn việc nào? Ngoài ra, người ta còn dùng các trạng từ nghi vấn như: sao, làm sao, thế nào, tại làm sao, bao nhiêu, mấy, bao giờ, bao lâu, đâu, bao xa, v.v. để đặt câu hỏi: Anh nói sao? Làm sao anh ra nông nỗi này? Anh thấy cô ta thế nào? Tại làm sao anh không đi? Tất cả có bao nhiêu người đến dự? Em học lớp mấy? Bao giờ cô ta về? Anh đi bao lâu? Cô ở đâu đến? Từ nhà anh đến đó bao xa ?

    V. Thành Phần Căn Bản Của Câu Đơn và Mệnh ĐềMột câu đơn hay mệnh đề thường có hai phần căn bản: chủ từ và thuật từ. Thí dụ: 1.Tôi đi xe điện ngầm. 2.Con chó đen đang chạy ngoài sân. 3.Cám ơn cô. 4. Bao giờ anh đi Orlando? - Mai.
    Trong câu 1, chủ từ là Tôi và thuật từ là đi xe điện ngầm. Trong câu 2, chủ từ là Con chó đen và thuật từ là đang chạy ngoài sân. Trong câu 3, chủ từ được hiểu ngầm là Tôi và thuật từ là Cám ơn cô. Trong câu 4, ở câu trả lời Mai, chủ từ tôi và thuật từ đi Orlando được hiểu ngầm. Khi trả lời Mai, ta có ý nói: Mai tôi đi Orlando.

    1.Chủ Từ: Chủ từ là một chữ hay một nhóm chữ trong câu. Chủ từ giữ vai trò làm chủ hành động hay tình huống được diễn tả trong câu đó. Phải có một chủ từ mới thành câu văn. Tuy nhiên, câu văn có thể có chủ từ tỉnh lược, tức là chủ từ được hiểu ngầm như được trình bày trong thí dụ 3 và 4 ở trên. Trong một nhóm chữ dùng làm chủ từ, có một hay nhiều tiếng chính làm chủ từ, các tiếng khác là tiếng phụ dùng để làm rõ nghĩa cho chủ từ.
    Trong thí dụ ?oCon chó đen đang chạy ngoài sân,? nhóm chữ Con chó đen là chủ từ của động từ đang chạy. Trong nhóm chữ này, chữ chó là tiếng chính làm chủ từ của câu. Chữ con, tiếng loại từ, làm rõ nghĩa cho chữ chó. Chữ đen, tiếng tính từ, bổ nghĩa cho chữ chó. Trong thí dụ ?oBàn, ghế, và tủ trong nhà đều là của cô ta,? nhóm chữ ?obàn, ghế, và tủ trong nhà? là chủ từ của câu. Trong nhóm chữ này, ba tiếng bàn, ghế, tủ là những tiếng chính dùng là chủ từ. Chữ và là liên từ; giới từ trong và danh từ nhà là những tiếng bổ nghĩa cho chủ từ ?oBàn, ghế, và tủ.?

    2.Thuật Từ : Phần của câu ngay sau chủ từ được gọi là thuật từ. Phần thuật từ có thể rất đơn giản hay rất phức tạp. Phải có thuật từ mới thành một câu. Tuy nhiên, thuật từ có thể được hiểu ngầm hay tỉnh lược như trong thí dụ 4 ở trên. Tiếng chính trong phần thuật từ là động từ; những chữ khác có thể là trạng từ và túc từ của động từ cùng các bổ từ khác. Thuật từ dùng để thuật về chủ từ, tức là nói rõ chủ từ là gì, làm cái gì, làm sao, ở đâu, thế nào, v.v. Trong thí dụ ?oCon chó đen đang chạy ngoài sân,? nhóm chữ ?ođang chạy ngoài sân? là thuật từ của chủ từ ?oCon chó đen.?
  2. kevin_thi

    kevin_thi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    VI. Những Lỗi Thông Thường Về Cú Pháp
    Những lỗi điển hình về cú pháp gồm câu què, lỗi chấm câu, và lỗi dùng sai tiếng bổ nghĩa, v.v.
    Trong các thí dụ sau đây, để tránh sự đụng chạm cá nhân, người viết đã thay những tên nhân vật, tên các hội đoàn, tên thành phố, và tên tác phẩm,v.v. bằng từ ABC. Vì tính cách tế nhị, người viết cũng không nêu rõ xuất xứ của câu văn. Mục đích chính của phần này là nêu ra những câu sai về cú pháp cùng những câu đề nghị sửa mà thôi. Sau đây là các thí dụ điển hình về những câu sai cú pháp. Để các bạn đọc tiện theo dõi giữa câu sai và những câu đề nghị sửa, chúng tôi xin biên câu đề nghị sửa liền sau mỗi câu sai về cú pháp.
    1. a.Câu Sai (lỗi về dấu chấm câu, câu thiếu chủ từ): Sau khi đã gửi thơ đề ngày 1-12-1998 đến tất cả các vị cựu chủ tịch ABC, để tường trình về hiện trạng bế tắc của tôi, do phía bà ABC cố tình gây nên, với hy vọng sẽ đón nhân được cao kiến khai thông sự bế tắc này.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Sau khi đã gửi thư đề ngày 1-12-1998 đến các vị cựu chủ tịch ABC để tường trình về hiện trạng bế tắc của tôi do bà ABC cố tình gây nên, tôi hy vọng sẽ đón nhận được cao kiến khai thông sự bế tắc này.
    2. a.Câu Sai (lỗi chấm câu, lỗi dùng chữ hoa, câu què): Bà cũng không chịu tổ chức cuộc bầu cử thống nhất 2 ABC ở ngay nơi bà đang cư ngụ. Vì bà ta thừa biết, cuộc bầu cử ấy sẽ khiến con Hồ Ly Tinh phải hiện nguyên hình chồn cáo.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Bà ta cũng không chịu tổ chức cuộc bầu cử thống nhất 2 ABC ở ngay nơi bà đang cư ngụ vì bà ta thừa biết cuộc bầu cử này sẽ khiến con hồ ly tinh phải hiện nguyên hình chồn cáo.
    3. a. Câu Sai (lỗi chấm câu, câu què): Trong lãnh vực giáo dục văn học, nghệ thuật, và báo chí, dù không có vấn đề chiếu trên chiếu dưới phân chia đẳng cấp như quân đội. Nhưng thiết tưởng ông phải biết thân phận mình, và vị trí đích thực của mình, mới đáng là người có văn hoá.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Dù trong lãnh vực giáo dục, văn học, nghệ thuật, và báo chí không có vấn đề ?ochiếu trên chiếu dưới? để phân chia đẳng cấp như ở trong quân đội, tôi thiết tưởng ông phải biết thân phận mình và vị trí đích thực của mình thì mới đúng là người có văn hóa.
    4. a.Câu Sai (câu què, lỗi chấm câu, lỗi dùng chữ): Vì tâm lý bọn tiểu nhân, bất tài, thường hay dùng lối chê dè, dè bỉu khơi khơi, với dã tâm ti tiện hạ người khác xuống, để tạo ảo tưởng mình hay hơn, tài giỏi hơn.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Với dã tâm ti tiện hạ người khác xuống để tạo ảo tưởng là mình hay hơn và tài giỏi hơn, bọn tiểu nhân bất tài thường có tâm lý dùng lối chê bai dè bỉu khơi khơi.
    5. a.Câu Sai (câu què, chủ từ và tiếng bổ nghĩa không phù hợp, dùng chữ viết hoa không đúng cách, lỗi dấu châm): Để tưởng nhớ những người đã chiến đấu bảo vệ Hòa Bình cho Thế Giới và Tự Do cho nhân loại. Hàng năm, ngày ABC được tổ chức tại ABC vào mỗi tháng 8 dương lịch - nhân ngày khai trương ABC.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Hàng năm, để tưởng nhớ những người đã hy sinh chiến đấu bảo vệ hòa bình cho thế giới và tự do cho nhân loại, cơ quan ABC có tổ chức ngày ABC tại ABC vào tháng 8 dương lịch nhân ngày khai trương ABC.
    6. a.Câu Sai (chủ từ và tiếng bổ nghĩa không phù hợp): Để tiếp tục duy trì truyền thống văn hóa Việt Nam, Hội Xuân A với chủ đề B do Hội C cùng các hội đoàn bạn phối hợp tổ chức.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Để tiếp tục duy trì truyền thống văn hóa Việt Nam, Hội C cùng các hội đoàn bạn phối hợp tổ chức Hội Xuân A với chủ đề B.
    7. a.Câu Sai (chủ từ và tiếng bổ nghĩa không phù hợp, lỗi chấm câu): Chủ trương tạo không khí Tết truyền thống, chương trình gồm nhiều tiết mục phong phú, thích hợp cho mọi lứa tuổi, Hội Xuân hy vọng thu hút một lượng người đáng kể.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Với chương trình gồm nhiều tiết mục phong phú đượm không khí Tết truyền thống và rất thích hợp cho mọi lứa tuổi, chúng tôi hy vọng Hội Xuân sẽ thu hút một số khán thính giả đáng kể.
    8. a.Câu Sai (câu què): Để kỷ niệm một trong những ngày đáng ghi nhớ ......................Trân trọng kính mời Ông, Bà và gia đình đến tham dự buổi tiệc họp mặt nhân ngày ABC.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Để kỷ niệm ngày ABC, một ngày đáng ghi nhớ của quân dân miền Nam Việt Nam trước đây, chúng tôi sẽ tổ chức buổi tiệc họp mặt nhân ngày ABC này. Trân trọng kính mời ông bà cùng gia đình đến tham dự buổi tiệc họp này với chúng tôi.
    10. a.Câu Sai (chủ từ và tiếng bổ nghĩa không phù hợp): Đang là bạn thân mà thay đổi lập trường, ABC quạt ngay trên mặt báo.
    b. Câu Đề Nghị Sửa: Hễ thấy ai đang là bạn thân của mình mà thay đổi lập trường, ABC quạt ngay trên mặt báo.
    VII. Muốn Viết Văn, Phải Biết Văn Pháp Và Văn Phạm. [/b]
    Lời nói rõ ràng và đầy đủ ý nghĩa, nếu được viết ra đúng như thế, tự nó đã là một câu văn trong sáng và đúng văn pháp rồi. Cú pháp giúp ta viết văn đúng cách, rõ ràng, trong sáng, và đầy đủ ý nghĩa hơn. Bài văn trong sáng là bài có cú pháp đúng cách, ý tưởng phân minh, và bố cục rõ ràng. Những ý trong mỗi đoạn và toàn bài văn phải theo sát với đề tài và có liên quan chặt chẽ với nhau. Viết hết một đoạn, ta phải xuống hàng. Việc chấm câu đúng cách cũng làm cho câu văn và tác phẩm trong sáng, rõ ràng, và dễ hiểu.
    Đã viết văn, ai cũng có thể mắc lỗi kể cả các nhà văn lão thành. Những nhà văn lão thành cho biết rằng sau khi viết xong một bài văn, mỗi lần đọc lại, ta lại thấy những lỗi chính tả và cú pháp khác nhau. Chính vì thế mà đã có những nhà văn sửa bản nháp của họ tới hàng chục lần mới ưng ý. Điều này cho ta thấy rằng cứ viết văn là có lỗi, không nhiều thì ít, rất hiếm có người viết một lần mà được như ý. Không có ngoại lệ. Muốn viết văn cho đúng cách ta phải viết nhiều và viết riết rồi quen đi.
    Khi ta đã để công nghiên cứu văn pháp cùng văn phạm và chịu khó viết văn, chắc chắn chúng ta sẽ viết văn đúng cách và câu văn của chúng ta sẽ trong sáng linh động hơn. Nếu có mắc lỗi, chúng ta sẽ chỉ mắc những lỗi nhẹ và mắc ít lỗi hơn.
    *Ghi Chú: Bài này được trích ra từ tác phẩm KIẾN VĂN, trang 215, của Khải Chính Phạm Kim Thư, xuất bản tại Canada năm 2001.
  3. kevin_thi

    kevin_thi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Chữ Việt: 101 Chuyện nhức đầu!
    Tiếng nước tôi bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
    Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi ...
    Tiếng Việt mình thật phong phú và đã trải qua 4 ngàn năm lịch sử là điều chúng ta đáng tự hào ...
    Nhưng, ngược lại, chữ viết mình chỉ mới có khoảng 300 năm nay thôi, còn quá trẻ, cho nên còn quá nhiều chuyện chưa giải quyết. SR có đọc ở đâu đó về câu chuyện có 1 người Pháp (khoảng vào đầu thế kỷ) chê tiếng Việt (chữ Quốc Ngữ) là thứ tiếng ... tào lao, không thể nào dùng trong văn chương được, và đã bị người mình chửi tơi bời!
    Tuy nhiên nếu nhìn khác quan, chữ Việt thiệt có nhiều vấn đề cần giải quyết. Hôm nay SR mờ các bạn tới nhà chơi, đóng cửa kín lại, cùng nhau bàn về những vấn đề của chữ viết coi ai có ý kiến gì hay.
    Biết đâu ... vài trăm năm sau, có 1 tác phẩm viết bằng tiếng Việt đưọc giải Nobel văn chương?
    Và biết đâu chừng đó chính là 1 phần do công trình của SCV tào lao của chúng ta ngày hôm nay ...
    Nhưng trước hết có đôi lời phân trần. Bàn đây để thử biết ý kiến chung chung về các vấn đề rắc rối của tiếng Việt:
    Mục đích xa là góp phần toàn mỹ tiếng Việt.
    Mục đích gần là có 1 ý chung để những ai hảo tâm có thể dùng để viết 1 software check lỗi chánh tả hữu dụng.
    SR không hề có ý chê tiếng Việt, và SR không hề nghĩ mình giỏi tiếng Việt hay chánh tả hơn ai hết.
    Đây là outline của các đề tài SR định đem ra bàn, hy vọng sẽ có thêm chi tiết tuần tới.
    Phần I: Chánh tả
    Điều không thể chối cãi: Không có tiêu chuẩn chung về chánh tả
    Tự điển không thống nhất;
    Sách về ngôn ngữ học vốn đã ít lại không thống nhất;
    Không có hàn lâm viện, dù có cũng chưa chắc đã được công nhận;
    Nhiều lý do khác như: bắc/nam, cộng sản/quốc gia, *********/việt kiều ...
    Và chúng phải giải quyết thế nào về các chữ có "vấn đề" do:
    Phát âm dị biệt vì phong thổ bắc: giày/giầy dép, dậy/dạy học, mầu/màu mè ...
    Phát âm dị biệt vì phong thổ nam: sinh/sanh, nam/nôm, hoãn/huỡn, nguyên/nguơn ...
    Phát âm dị biệt vì phong thổ trung: tau/tao
    Nhiều người sai và trở nên thông dụng có trong 1 số tự điển: xủ/sử dụng, giông/dông tố, cô láng diềng/giềng, phiêu bạc/bạt ...
    Chữ bị biến đổi qua dạng mới theo thời gian: bình tĩnh/tỉnh
    Chữ hơi "confusing": chia xẻ/sẻ, sáng lạng/xán lạn, ...
    Chữ quá "confusing": ngả/ngã, rưởi/ruỡi
    Chữ là lạ: khúc khích, rụt rịt, rụt rè, lè tè, xè xè, rè rè ...
    Phần II: Hình thức
    Tuy không critical bằng chánh tả, nhưng hình thức cũng là 1 điều hết sức quan trọng, nếu muốn tiếng Việt được trong sáng hơn. Tiếng Việt không thấy có qui ước rõ ràng về:
    Cách Viết hoa (hay có nhưng không ai theo): khi nào dùng in hết, khi nào viết hoa, hoa chữ nào (Nhận xét về tiếng Việt nam vs. Nhận Xét Về Tiếng Việt Nam vs. Nhận Xét về tiếng Việt Nam), ...
    Dùng các dấu phết phẩy (punctuations): có dùng dấu gạch nối trong từ kép không (Nhận-xét về tiếng Việt-nam), dấu này dùng khi nào, dấu "ngắc" (space) dùng ra sao khi dùng với các dấu khác ... (VN dùng 1 cách rất chướng: _ (underscore) thay cho - (hyphen))
    Khi nào dùng chữ nghiêng, gạch đít ... cho tên sách, báo, bài viết ...
    Dùng tiếng ngoại quốc ra sao: dịch ra tiếng Việt (i.e. Hoà Lan hay Hà Lan?), để nguyên dạng theo tiếng Anh (Holland), tiếng Pháp (?), hay phiên âm ra (lại thêm có dùng gạch nối hay không ...)
    Cách xuống hàng, thụt đầu hàng (bao nhiêu spaces)
    Có nên theo qui ước của tiếng Anh hay không?
  4. kevin_thi

    kevin_thi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Phần III: Tiếng Việt trong thời "hi-tech"
    Nay không ít người dùng tiếng Việt trên computer, nhưng có quá nhiều problem, chẳng hạn:
    Các trở ngại chung
    Về phía developer:
    Computer đi quá nhanh, tiếng Việt lại không có thị trường (no cash!), không develop kịp.
    Nhiều bộ chữ Việt, không compatible: VNI, VNL, VISCII, VPS, TCVN, ...
    Về phía users:
    Xài "loạn", chẳng hạn trong VietNet, xài + và * tá lả, '' và / cũng tá lả, không chịu xài để phân biệt dấu nặng và dấu chấm hay dấu chấm hỏi và dấu hỏi
  5. kevin_thi

    kevin_thi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Cái Gạch Nối Trong Chữ Việt
    1. Cái gạch nối
    Trong chữ Việt, cái gạch nối dùng để kết hợp những thành tố viết rời của một từ gồm nhiều âm tiết. Nếu viết riêng rẽ thì những âm tiết nói trên sẽ có một nghĩa khác, tức là nghĩa riêng biệt của từng âm tiết. Sau đây là một vài thí dụ:
    - Ðộc có nghĩa là một, có số lượng chỉ một mà thôi. Lập có nghĩa là đứng thẳng. Ghép lại, độc-lập có nghĩa: 1. Tự mình sống, không dựa vào người khác. Sống độc-lập.
    2. (Nước hoặc dân tộc) có chủ quyền. Nền độc-lập dân tộc.
    - Bà là người đàn bà thuộc thế hệ sanh ra cha hoặc mẹ ta. Con là người thuộc thế hệ mà ta sanh ra. Ghép lại, bà-con có nghĩa là thân quyến, người có quan hệ họ hàng. Một người bà con xa.
    - Cay là có vị như khi ăn ớt, ăn tiêu, ăn gừng hoặc khi uống rượu. Ðắng là có vị như khi ăn trái khổ qua, trái bồ hòn, mật cá hoặc uống thuốc bắc. Ghép lại cay- đắng (hay đắng-cay) có nghĩa là đau khổ, xót xa. Thất bại cay-đắng.
    Như vậy, ta thấy cái gạch nối có một vai trò rất quan trọng. Nó dùng để phân biệt từ đơn với từ ghép. Từ cuối thế kỷ 19 và trong những thập niên đầu của thế kỷ 20 này, theo ngữ pháp, ta dùng cái gạch nối đối với những từ ghép, mục đích là để câu văn được rõ nghĩa. Trong học đường, thời bấy giờ, đối với những từ ghép, thiếu cái gạch nối là một lỗi chánh tả tương tự như các lỗi chánh tả khác: c với t (các/cát), ch với tr (chương/trương), d với gi (dang/giang), dấu hỏi với dấu ngã...
    2. Ngữ pháp cú
    Qui tắc về việc sử dụng cái gạch nối trong tiếng Việt đã có từ cuối thế kỷ 19, thời chữ quốc ngữ mới được hình thành. Nhà bác học, cũng là nhà ngữ học Trương Vĩnh Ký (1839 - 1898) đã viết: "Ðể tránh lẫn lộn từ đơn và từ đôi, từ kép, chúng tôi đã chấp nhận, trong các từ điển, văn phạm và các ấn bản khác của chúng tôi, dùng gạch nối để xác định từ kép và ghép đôi một số mẫu âm khác của chúng tôi, dùng gạch nối để xác định từ kép và ghép đôi một số mẫu âm làm cho âm cuối dễ nghe như líu-lo, dăng-dẳng." Gần đây, dựa theo các sách đã xuất bản, chúng tôi ghi nhận, trên những sách in trước năm 1975, các tác giả vẫn còn dùng cái gạch nối đối với những từ ghép. Sự kiện này cho biết, vào cuối thế kỷ 19 và hơn nửa đầu thế kỷ 20 này, những người làm giáo dục và văn học đã sử dụng cái gạch nối trong những trường hợp sau đây:
    2.1 Từ ghép Hán-Việt: tự-do, độc-lập, ngôn-ngữ-học, thuận-thinh- âm, hồng- thập-tự, tiềm-thủy-đỉnh, hàng-không-mẫu-hạm, thủy-quân-lục- chiến.
    2.2 Từ ghép thuần Việt:
    - Từ kép, cũng gọi là từ láy, gồm một âm có nghĩa với một âm không nghĩa để cho xuôi tai: bạc-bẻo, dễ-dàng, đầy-đặn, khỏe-khoắn, líu-lo, mặn- mà, nhỏ- nhắn, nở-nang, sắc-sảo, vững-vàng, xót-xa.
    - Từ kép gồm hai âm không có nghĩa riêng, nhưng khi ghép lại, hai âm tạo thành một từ có nghĩa chung: bâng-khuâng, hững-hờ, lai-láng, mênh-mông, mơn- mởn, ngậm-ngùi, thênh-thang.
    - Từ kép gồm hai câu có nghĩa riêng: biển-dâu, ****-ong, cay- đắng, đầy- đủ, mắm-muối, mệt-mỏi, phẳng-lặng, vàng-thau.
    - Từ kép gồm hai âm đồng nghĩa: chợ-búa, dơ-bẩn, dư-thừa, đau- ốm, gầy- ốm, hình-ảnh, lẫn-lộn, lựa-chọn, mập-béo, nhỏ-bé, nông-cạn, ô-dù, sắc-bén, thổi- nấu, thương-yêu, to-lớn, rơi-rớt.
    - Từ kép gồm hai từ đồng âm: chậm-chậm, đời-đời, hàng-hàng, hay-hay, hiu-hiu, lớp-lớp, mãi-mãi, ngày-ngày, rầu-rầu, xa-xa...
    2.3 Nhân danh (tên tục, tên hiệu): Nguyễn-Du, Tố-Như, Trương-Vĩnh- Ký, Ðào- Duy-Anh, Dương-Quảng-Hàm, Trần-Trọng-Kim, Nguyễn-Hiến-Lê, Vương-Hồng- Sển.
    2.4 Ðịa danh: Việt-Nam, Hoa-Kỳ.

    2.5 Danh từ riêng phiên âm
    : Hoa-Thịnh-Ðốn, Mạc-Tư-Khoa.
    2.6 Từ có quan hệ qua lại với nhau: từ điển Hán-Việt, bang giao Mỹ- Việt, luật hỏi-ngã, thi văn cổ-kim, văn hóa Ðông-Tây, phát triển khoa-học- kỹ-thuật.
    2.7 Danh từ chung phiên âm: cát-xết, vi-đê-o. Ðối với một số tên chung phiên âm đã hoàn toàn Việt hóa, ta bỏ luôn cái gạch nối: cà phê, cà vạt, câu lạc bộ, đô la, ga ra, nóc ao, ra đa, ra gu, ti vi, xích lô.
    2.8 Một số từ ngữ mà các âm tiết không thể tách rời: chợ-nhà- ***g, khô-cá- chỉ- vàng, tại-vì-bởi.

    2.9 Giữa các con số chỉ ngày tháng năm
    : ngày 1-1-1998
    2.10 Giữa hai nhóm số chỉ năm để nói lên khoảng cách thời gian: 1975 - 1998.
    Trên đây là những qui tắc trong việc sử dụng cái gạch nối khoảng trước năm 1975. Tuy nhiên cũng phải ghi nhận là việc dùng cái gạch nối này của những người làm văn hóa chưa thống nhất. Có tác giả áp dụng triệt để các nguyên tắc, nhưng cũng có tác giả chỉ áp dụng một cách đại khái hay tương đối, tùy theo quan niệm của mỗi cá nhân. Thậm chí, có trường hợp cùng một tác giả mà trong một bài viết, đối với các từ ghép (cả Hán-Việt lẫn thuần Việt) có lúc dùng cái gạch nối, có lúc không.
    Xin trích dẫn một đoạn trong lời tựa "Vì sao có sách này?" của cuốn "Giản-yếu Hán-Việt Từ-điển" của nhà học giả tiền bối Ðào-Duy-Anh, viết ngày 1-3-1931, Nxb Minh Tân, Paris, in lại năm 1949:
    Vô luận nước nào, văn-tự đã phát đạt đến một trình độ khá khá đều phải có những sách Tự-điển hoặc Từ-điển để làm tiêu-chuẩn và căn-cứ cho người học. Quốc-văn của ta ngày nay đã có chiều phát đạt, thế mà ta chưa thấy có một bộ sách Tự-điển hoặc Từ-điển nào, đó thực là một điều khuyết-điểm lớn mà ai cũng phải công-nhận.
    Trong đoạn văn trên đây, theo nguyên tắc, những từ in nghiêng phải có cái gạch nối, vì đó là những từ Hán-Việt và từ ghép thuần Việt. Nhưng vì sao tác giả không dùng gạch nối? Sự kiện này cho thấy, việc sử dụng cái gạch nối khó đạt đến sự thống nhất như trên lý thuyết.
  6. kevin_thi

    kevin_thi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    3. Ngữ pháp mới
    3.1 Trong năm trường hợp ghi từ mục 2.1 đến 2.5 trên đây, tuyệt đại số những sách báo xuất bản trong nước và tại hải ngoại, ta đã xóa bỏ hẳn cái gạch nối. Sự "cải cách" này đã diễn ra âm thầm. Có phải chăng nó đã xuất phát từ một "ngữ pháp bất thành văn." Các tác giả tiền bối lần hồi bỏ cái gạch nối. Thế là các tác giả hậu bối cũng theo gương.
    3.2 Trong năm trường hợp kế tiếp, từ mục 2.6 đến 2.10, ta vẫn duy trì cái gạch nối.
    3.3 Từ ngày trong nước và ở hải ngoại hai phương tiện điện thoại và điện thư (fax) được phổ biến, ta đã dùng cái gạch nối để phân cách các nhóm số của hai hệ thống này. Ðiện thoại: 714 - 500-4000, Ðiện thư: 714 - 800-7000.
    3.4 Chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên nhân nào khiến cho, sau năm 1975, cái gạch nối đã được xóa đi trong năm trường hợp từ 2.1 đến 2.5.
    Thực tế cho thấy, việc dùng gạch nối ở năm trường hợp nói trên đã gây một số bất tiện và phiền phức.
    - Người viết phải bận tâm đến cái gạch nối, mất thời giờ suy nghĩ, thời giờ viết lên giấy và thời giờ dò lại bài xem có sai sót không?
    - Trong ngành ấn loát, người đánh máy và người sắp chữ phải nhọc công và khổ sở vì cái gạch nối. Trước kia, trong thời kỳ ngành ấn loát nước ta còn lạc hậu, việc sắp chữ để làm bản in "typo" được thực hiện theo lối thủ công. Trong công việc sắp chữ, thêm một cái gạch nối kể như thêm một con chữ.
    Việc xóa bỏ gạch nối không ảnh hưởng trầm trọng đến câu văn về mặt ngữ nghĩa. Người đọc bình thường dễ dàng phân biệt từ đơn và từ ghép. Cả người viết và người đọc đã mặc nhiên hiểu ngầm là các từ ghép Hán- Việt và thuần Việt luôn luôn được nối với nhau bằng cái "gạch nối vô hình." Ta đã "hi sinh" cái hợp lý để đổi lấy cái thực dụng, cái giản tiện. Ngày trước, có cái gạch nối là hợp lý. Ngày nay không có cái gạch nối cũng hợp lý. Ngữ pháp chung qui chỉ là một qui ước, một sự giao ước giữa người viết và người đọc.
    4. Viết dính liền
    Từ xưa tới nay, cả ở trong nước lẫn ở hải ngoại, một số người có xu hướng viết dính các âm tiết ở hai trường hợp 2.1 và 2.2: tựdo, vữngvàng, ngônngữhọc, kimtựtháp, hàngkhôngmẫuhạm. Giải pháp này là để thay thế cái gạch nối đối với các từ ghép. Tuy nhiên, việc cải cách này gặp một trở ngại khác và xét không ổn nên không được hưởng ứng. Lý do là những từ viết dính liền có thể sẽ bị đọc và và bị hiểu sai lệch.
    4.1 Những từ ghép dính liền có thể được đọc một cách khác:
    Bình an viết bìnhan có thể đọc là bì nhan hoặc bìn han
    Giáo án viết giáoán có thể đọc là giá oán hoặc gi áo án
    Phátââm --> phát âm --> phá tâm
    Phát hành --> pháth ành --> phá thành
    Tình ái --> tìn hái --> tì nhái --> tìn hái
    4.2 Những từ vốn chỉ có một âm nay có thể được đọc tách rời thành hai âm:
    Thúy có thể đọc là thú y
    Khối --> kho ái hoặc khó ai
    5. Kết
    Những người chủ trương duy trì cái gạch nối trong những từ ghép Hán-Việt và thuần Việt và những người chủ trương viết dính liền những từ ghép lại này đều có lý. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối với bất cứ ngôn ngữ nào cũng vậy, người ta không thể ép nó vào một khuôn mẫu hợp lý được. Nói và viết, đúng hay sai là một thói quen, lập đi lập lại qua nhiều thế hệ. Mà thói quen xuất phát từ sự thực dụng. Và một khi đã thông dụng thì mọi người đều phải theo. Khó mà đem môn lý luận ra để phê phán được. Trừ phi, có điểm nào quá vô lý, nếu muốn sửa đổi thì phải có sự đồng thuận của số đông.
  7. gentletiger

    gentletiger Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/04/2003
    Bài viết:
    859
    Đã được thích:
    0
    Cú pháp là các phương pháp dùng từ để đặt câu, không phải dùng tiếng. Vì một từ thì luôn có nghĩa nhưng một tiếng thì có thể vô nghĩa. Ví dụ: tiếng "côm" trong từ "lôm côm".
    Có những từ một tiếng: đi, đứng, nói, cười... có những từ hai tiếng: sinh hoạt, chiến tranh... có những từ ba tiếng: hợp chủng quốc, bất động sản, Phi Luật Tân... có những từ nhiều tiếng: Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Diễn đàn Quốc tế Khu vực...
    Câu là đơn vị nhỏ nhất và hoàn chỉnh của lời nói.
    Trong tiếng Việt không có mệnh đề mà chỉ có "ngữ danh từ", "ngữ động từ", "ngữ tính từ" và "cụm chủ vị".
    Tôi thấy kevin_thi chưa nắm vững các khái niệm căn bản trong tiếng Việt. Bạn không nên áp đặt các khái niệm của ngoại ngữ vào tiếng Việt vì tiếng Việt có rất nhiều, tôi xin nhấn mạnh là rất nhiều điểm đặc trưng riêng, hoàn toàn khác biệt với các ngôn ngữ nước ngoài.
  8. kevin_thi

    kevin_thi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Cú pháp là phép tắc dùng các tiếng để đặt câu văn cho chỉnh.
    Ở đây tôi muốn nói đến ngôn ngữ ( Các tiếng ), bạn dùng ( từ ). Còn câu văn nói một cách đầy đủ là ( Văn bản ) bạn viết một đọan văn bản, thì đầy đủ nghĩa hôn là bạn viết một đọan văn.
    Mong chỉ giáo
    thân mến
  9. gentletiger

    gentletiger Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/04/2003
    Bài viết:
    859
    Đã được thích:
    0
    Mỗi từ trong câu đều có một chức năng riêng nên ta phân tích cú pháp theo từ. Nếu phân tích cú pháp theo tiếng thì có những tiếng vô nghĩa và ta không thể xác định được chức năng của những tiếng đó.
    Xét ví dụ sau:
    "Đề nghị các bạn tuân thủ qui định của diễn đàn khi gửi bài lên diễn đàn !"
    Tiếng "đề" là vô nghĩa nên không xác định được chức năng của nó trong câu. Tiếng "nghị" cũng vô nghĩa. Từ "đề nghị" là một động từ. Câu này bắt đầu bằng một động từ nên thuộc loại câu mệnh lệnh với từ lệnh là "đề nghị".
    Từ "các bạn" là danh từ có chức năng là chủ ngữ của cụm chủ vị "các bạn tuân thủ". Cụm chủ vị này có chức năng là bổ ngữ, bổ nghĩa cho động từ "đề nghị".
    Từ "tuân thủ" là động từ có chức năng là vị ngữ của cụm chủ vị "các bạn tuân thủ".
    Từ "qui định" là danh từ, có chức năng là chủ ngữ của cụm chủ vị "qui định của diễn đàn". Cụm chủ vị này có chức năng là bổ ngữ, bổ nghĩa cho động từ "tuân thủ".
    Từ "của" là tính từ sở hữu, có chức năng là vị ngữ của cụm chủ vị "qui định của diễn đàn".
    Từ "diễn đàn" là danh từ, đứng sau tính từ "của" nên có chức năng là bổ ngữ, bổ nghĩa cho "của".
    Từ "khi" là giới từ, có chức năng liên kết ngữ động từ "gửi bài lên diễn đàn" vào câu. Ngữ động từ này có chức năng là trạng ngữ, bổ nghĩa cho cả câu.
    Từ "gửi" là động từ, có chức năng xác định ngữ loại của ngữ "gửi bài lên diễn đàn".
    Từ ''bài" là danh từ, đứng sau động từ "gửi"nên có chức năng là bổ ngữ, bổ nghĩa cho "gửi".
    Từ "lên" là tính từ, có chức năng là bổ ngữ, bổ nghĩa cho "gửi".
    Từ "diễn đàn" cuối câu là danh từ có chức năng là bổ ngữ, bổ nghĩa cho tính từ "lên".
    Như vậy trong câu mệnh lệnh này, ta có một động từ mệnh lệnh "đề nghị", hai cụm chủ vị làm bổ ngữ và một ngữ động từ làm trạng ngữ trong câu.
  10. yeungon

    yeungon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/08/2003
    Bài viết:
    1.308
    Đã được thích:
    0
    Tôi đọc chưa kỹ nhưng thấy có mấy chỗ có thể coi là nhạy cảm.
    Cú pháp (syntax) theo tôi hiểu là nghiên cứu các quy tắc ghép từ thành câu chứ (như gentletiger đã nói). Nhưng phải hiểu câu trong cú pháp là câu của hệ thống ngôn ngữ (system-sentence) có tính trìu tượng không thuộc của ai, chứ không phải câu của tình huống (context-sentence) tương đương với phát ngôn (utterance: bản thân utteracne cũng phải hiểu là gồm cả dạng nói và dạng viết) có tính cụ thể, của một cá nhân nào đó đưọc dùng ở một thời điểm và trong một không gian nhất định. Hai khái niệm này là theo J. Lyons. Như vậy có thể nói cú pháp xem xét câu trong chân không chứ không phải trong ngữ cảnh.

Chia sẻ trang này