1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cùng đọc và suy ngẫm - Mỗi ngày một câu chuyện ...

Chủ đề trong 'Hải Phòng' bởi ha_kennic, 01/10/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. royalgia

    royalgia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2006
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    0
    Nhân dịp bầu cử Quốc hội nói chung và bầu mod Hải Phòng nói riêng. Mình có sưu tầm bài này trên tạp chí tia sáng. Hi vọng đóng góp được tí chút vào sự thành công của các bạn.
    Dân tâm và dân chủ ​
    Dân chủ với dân tâm gắn với nhau như bóng với hình. Để thu phục được dân tâm để giành dân tâm thì phải thật lòng thực thi dân chủ, thật lòng mở rộng dân chủ. Để giành dân tâm, không có gì đơn giản hơn điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho cán bộ của Đảng và Nhà nước ngay từ những ngày mới giành được chính quyền từ Cách mạng Tháng tám năm 1945: ?oViệc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh
    Vừa rồi, việc dân đổ xô đi tìm gặp 13 đoàn kiểm tra Luật đất đai (của Bộ TN-MT) để đưa đơn khiếu kiện thì xem ra dân tâm đang bức xúc và dân chủ đang có vấn đề. Chỉ riêng ở thành phố Biên Hòa, có 32.000 trên 56.000 sổ đỏ đã ký nhưng chưa đến tay người dân. ?oCác anh làm thế thì chết dân mất?, đấy là lời của trưởng một đoàn kiểm tra.
    Hình như từ rất lâu rồi, người ta đã quên mất chuyện ?otrưng cầu ý dân? khi cần phải giải quyết một việc, một công vụ, một kế hoạch ở cộng đồng liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Người ta cũng đã quên mất công đoạn điều tra ?otiện và bất tiện? khi cần triển khai một dự án, một dịch vụ, một công việc nào đấy, có khi do một cơ quan nhà nước, một công ty, hoặc có khi do một hộ gia đình có ảnh hưởng liên quan đến cộng đồng. Thế mà giải tỏa, di dân, thay đổi căn bản cả cuộc sống của cả một cộng đồng bằng mệnh lệnh, có nơi, đến 80% hộ phải di dời phải sống vật vờ vì khu tái định cư chưa xây xong! Gọi chuyện này là gì nếu không phải là ?othất dân tâm?? Xảy ra những chuyện đại để như thế có khi không hẳn là do những cán bộ ?othất nhân tâm? gây ra, mà còn do cơ chế, hoặc còn phải đợi ?olộ trình?! Nhưng dù gì thì gì, để người dân trên danh nghĩa là chủ mà ?oquyền của dân?, ?onhững quyền không ai có thể xâm phạm được?, bị xử sự như vậy thì nói chi đến quyền làm chủ!
    Từ xưa tới nay, bất cứ thể chế chính trị nào cũng phải cố ?othu phục nhân tâm? và cố ?ogiành dân tâm?. Không hiểu huyền thoại về Nghiêu Thuấn có được bao lăm chất liệu hiện thực, song khát vọng về một đấng minh quân thương dân hết mực: ?oMột người dân đói, hãy nói rằng ta làm cho người dân ấy đói, một người dân rét hãy nói rằng ta làm cho người dân ấy rét? (nhất dân cơ, viết ngã cơ chi, nhất dân hàn viết ngã hàn chi) thì tạo ra hình tượng vua Nghiêu, người nói câu nổi tiếng ấy, là sự gửi gấm một lý tưởng, một khát vọng của đạo lý Khổng Mạnh. Chẳng thế mà, sợ rằng nếu ?ovua coi dân như cỏ rác? thì dân sẽ ?ocoi vua như cừu thù? nên Mạnh Tử phải bàn đến cái lẽ ?odân vi quý? (dân có vị trí cao nhất so với vua và nước), ?odân vi bang bản? (dân là gốc nước), và tâu vua rằng ?ođược lòng dân là được mệnh trời?. Chẳng những thế, vị á thánh của đạo nho còn dám lớn tiếng mắng vua: ?oBếp vua có thịt béo, tàu vua có ngựa mập mà dân thì có sắc đói, đồng ruộng la liệt những người chết đói, như vậy khác nào nhà vua sai thú ăn thịt người?! Bản lĩnh ấy cần cho mọi thời đại, và xem ra nó cũng rất ?ohiện đại?! Nhưng ?omắng? vua như vậy hoàn toàn không để nhằm thực thi ?odân chủ?, không nhằm đề xướng ?odân chủ?. Thực chất của việc các nhà nho muốn ?ođược lòng dân? chính vì mục tiêu ?ođược mệnh trời?, khi họ xác định ?odân là gốc nước? cũng chính là nhằm để ?ogiữ mệnh trời, bảo vệ ngôi vua? chứ không phải để đem lại quyền làm chủ cho người dân. Cho nên, tuy khẳng định ?odân vi quý?, thậm chí ?ovua lấy dân làm trời? nhưng nho gia rất triệt để trong tư tưởng ngu dân: ?odân khả sử do chi, bất khả sử tri chi? (dân có thể khiến họ noi theo, không thể khiến họ hiểu biết). Hệ tư tưởng nho giáo rất nhất quán trong quan điểm: dân phải biết giữ phận ?odân đen con đỏ?, cái số phận đã được an bài đó cũng là ?omệnh trời?, không được cưỡng mệnh trời. ?oHiện đại hóa? cái mệnh trời này, đặt cho nó một cái tên thật cập nhật, ta sẽ hiểu ra được khối điều. Chính vì thế, nhà nho xưa cứ muốn giành ?odân tâm? nhưng lại rất kỵ ?odân chủ?, rất sợ dân chủ!
    Xem ra thì một số cán bộ thoái hóa biến chất ngày nay, những ?oông quan cách mạng? bây giờ, như Bác Hồ đã từng cảnh báo, cũng có nỗi sợ đó. Những người đó nói đến dân chỉ ở đầu lưỡi, nói về dân như trưng ra một vật trang sức theo ?omốt? thời thượng của những người ?osành điệu? chứ không xuất phát tự gan ruột. Họ cũng muốn ?ogiành dân tâm? để yên vị trên cái ghế quyền lực của họ. Không thiếu những câu cách mạng đầu lưỡi, mị dân vì mục tiêu ?ogiành dân tâm? kiểu đó nhưng lại quá thiếu những việc làm thiết thực vì lợi ích của dân, tôn trọng quyền làm chủ của dân. Vì dự liệu được điều đó mà ngay từ những ngày nhà nước dân chủ cộng hòa còn trong trứng nước, Bác Hồ đã nghiêm khắc và thiết tha căn dặn cán bộ phải là ?ocông bộc của dân?, là ?ođầy tớ thật trung thành của dân?, ?okhông được đè đầu cưỡi cổ dân?, ?okhông được bịt miệng dân?! Cũng có nghĩa phải thực thi dân chủ, phải chứng tỏ trong thực tế ?odân là chủ?, phải tạo ra cơ chế để dân thực sự làm chủ. Phải có luật pháp đảm bảo quyền làm chủ của dân, phải xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
    Bác Hồ đã nghiêm khắc và thiết tha căn dặn cán bộ phải là ?ocông bộc của dân?, là ?ođầy tớ thật trung thành của dân?, ?okhông được đè đầu cưỡi cổ dân?, ?okhông được bịt miệng dân?! Cũng có nghĩa phải thực thi dân chủ, phải chứng tỏ trong thực tế ?odân là chủ?, phải tạo ra cơ chế để dân thực sự làm chủ.

    Hiến pháp của ta, từ Hiến pháp 1946 cho đến Hiến pháp 1992 đã thể hiện rất rõ dân là chủ. Thế nhưng do luật pháp chưa được hoàn chỉnh và đồng bộ nên trong thực tế, quyền làm chủ của dân thường xuyên bị vi phạm. Cứ lật một trang báo ngày, đã có thể thống kê ra bao nhiêu điều vi phạm ấy. Vụ các quan chức ở Tây Ninh dựa vào chương trình 327 để lừa dân, chiếm đất lập đồn điền, làm trang trại là một ví dụ. Mà đâu chỉ ở Tây Ninh! Vụ chia chác đất công ở quận Ngô Quyền (Hải Phòng) cũng lại dựa vào dự án Đồng Rào do chính quan chức ở đây lập ra. Hãy chỉ đọc danh sách các quan chức Hải Phòng được chia đất làm nhà ở đây mà báo Pháp Luật TP. HCM ra ngày 18.9.2005 đã nêu đủ thấy các ?ocông bộc của dân? đã ăn tàn phá hại của dân, làm xói mòn niềm tin của dân như thế nào! Thế mà, phát hiện và đưa ra ánh sáng những vụ việc đại loại như hai ví dụ trên phần lớn đều là do báo chí và dư luận quần chúng chứ không phải là do các tổ chức Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị ở những nơi xảy ra chủ động kiểm tra làm rõ. Điều này càng nói rõ tính bức xúc của việc hoàn thiện hệ thống luật pháp để có điều kiện công khai hóa sự vận hành guồng máy quản lý kinh tế xã hội, tạo điều kiện để người dân giám sát, kiểm tra nội dung hoạt động và phẩm chất, năng lực của những người đang gánh vác trách nhiệm trước dân.
    Đó là một đòi hỏi rất cơ bản của nhà nước pháp quyền. Cùng với cái đó, xây dựng và củng cố xã hội dân sự nhằm tạo ra điều kiện phát huy tính phản biện xã hội của nhân dân, quần chúng từ cơ sở. Đây chính là cách phát huy tinh thần làm chủ của người dân một cách cụ thể nhất, thiết thực nhất, cũng là cách ?ogiành dân tâm? một cách thông minh và có hiệu quả nhất.
    Tương Lai
  2. royalgia

    royalgia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2006
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    0
    Tôi là một công dân ​
    [​IMG]
    Đó là lời của vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong lá thư đáp lại quyết nghị của các cử tri ngoại thành Hà Nội yêu cầu ***** không phải ứng cử trong kỳ tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội 1/1946.
    Đứng trước thiện tình của đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng những lời lẽ không chỉ khiêm nhường mà còn mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc: ?oTôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi... Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa?? (15/12/1945).
    Đây là lần thứ hai Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng trong ngôn ngữ giao tiếp của mình. Lần thứ nhất là ngay trong buổi họp đầu tiên của Chính phủ triệu tập ngay sau ngày Tuyên ngôn Độc lập (3/9/1945) khi vị Chủ tịch đề cập tới một nhiệm vụ cấp bách (sau diệt giặc Đói và giặc Dốt) là: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bàu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống?.
    Như vậy, từ ?ocông dân? được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi trong thông điệp này đã cho thấy nội hàm gắn liền với một tư cách pháp nhân trong một xã hội dân chủ. Một xã hội chưa từng có trong thân phận của người dân Việt Nam. Thời thuộc địa, các tầng lớp trên của xã hội đã từng biết đến khái niệm ?ocitoyen? (công dân) của nền chính trị Pháp, quê hương của cuộc cách mạng tư sản 1789. Cũng từng tồn tại một cộng đồng những người ?ovào làng Tây? được hưởng một số quyền lợi của người chính quốc. Nhưng khái niệm về ?ocông dân? đối với người Việt Nam một cổ hai tròng cả thực dân và phong kiến trở nên rất xa lạ.
    Trong cộng đồng người Việt chỉ tồn tại những khái niệm về ?ođồng bào? hay ?ođồng chí? đã phổ biến như chất gắn kết sức mạnh trong công cuộc giải phóng đất nước. Hai chữ ?oquốc dân? xuất hiện cùng với cuộc nổi dậy giành độc lập khỏi tay ngoại bang đã chứa chất một niềm tự hào của một dân tộc từng bị ?ovong quốc nô?. Và hai chữ ?ocông dân? còn vô cùng mới mẻ đã xác định tư cách của mỗi con người Việt Nam trong cộng đồng của một thể chế chính trị mới mẻ và hiện đại: Dân chủ-Cộng hoà. Có thể nói rằng, ?ocông dân? là một dấu ấn của một bước chuyển lịch sử của dân tộc Việt Nam, trước đó vốn mang tập tính ?othần dân? của một xã hội quân chủ kéo dài hàng ngàn năm, chỉ biết đến sự thần phục vương quyền.
    Mục tiêu quan trọng hàng đầu sau việc chống giặc Đói, giặc Dốt và sớm xây dựng một thể chế của xã hội pháp quyền, là những nhiệm vụ có tính chất cấp bách ở những thời điểm nhất định thì một nhiệm vụ lâu dài và quyết định sự tồn vong của chế độ cũng là của nền độc lập dân tộc, chính là xây dựng ?otư cách công dân? cho những thần dân của một quốc gia lần đầu biết đến nền dân chủ.

    Vì thế, cũng trong phiên họp đầu tiên này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ ?ochúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân?. Mục tiêu của việc ?ogiáo dục lại? này chính là khắc phục được những ?othói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô?? do chế độ cũ để lại để ?olàm cho dân tộc ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập?.
    Giáo dục ?Zý thức công dân đã trở thành một mục tiêu hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sau khi đã giành được mục tiêu Độc lập dân tộc. Cuộc Tổng tuyển cử cùng với sự hình thành từng bước thể chế chính trị dân chủ cộng hoà là một bước đi đầu tiên để nhân dân có thể thể hiện quyền công dân của mình. Nhưng cũng chính trong những ngày trứng nước của chế độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người khởi xướng và cổ vũ không biết mệt mỏi mục tiêu xây dựng con người mới và nền văn hoá mới. Cuộc vận động Đời sống mới được khởi xướng ngay từ những năm tháng độc lập đầu tiên, cuộc vận động ?oSửa đổi lề lối làm việc? diễn ra ngay trong lòng của cuộc kháng chiến giữ nước cho đến các cuộc vận động chống chủ nghĩa cá nhân hay phong trào ?ongười tốt việc tốt? mà trọn vẹn cuộc đời Bác Hồ chăm lo, chính là bắt đầu từ hai chữ ?ocông dân? được nêu lên trong bức thư của vị ************* trả lời cử tri của mình tháng 12/1945.
    Cuộc vận động cho sự xác lập tư cách công dân cũng đồng thời đi đôi với việc chống lại sự quan liêu hoá của bộ máy hành pháp là hai mặt của một cuộc đấu tranh, cũng là hai mặt của công cuộc xây dựng. Chúng ta có thể tìm thấy trong tư tưởng xây dựng chế độ mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lối sống thường ngày như một tấm gương của Bác Hồ sự nhất quán phấn đấu cho mục tiêu này. Có thể tìm thấy vô vàn những dẫn chứng trong di sản trước tác của Hồ Chí Minh cũng như trong di sản phi vật thể sưu tập từ trong ký ức những thế hệ được gần gũi với Bác Hồ để đúc kết thành những bài học về việc xây dựng tư cách công dân như một tiên đề cho việc xây dựng những mẫu hình mới của người chiến sĩ cách mạng hay một con người xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của Bác Hồ.
    Những trải nghiệm của dân tộc Việt Nam hơn sáu mươi năm qua càng cho thấy giá trị sâu sắc của dòng thư Bác viết: ?oTôi là một công dân? nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử?. Để cho mỗi người dân Việt Nam tự tin và tự hào nói rằng: ?oTôi là một công dân?? quả là cả một mục tiêu lâu dài, gian khổ và cao cả. Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ ràng trong hình tượng ?oNgười công dân số Một? của một nước Việt Nam Mới!
    Dương Trung Quốc
  3. royalgia

    royalgia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2006
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    0
    Văn hóa đối thoại ​
    Với đà phát triển tăng tốc của "toàn cầu hóa" đối thoại đã vượt khỏi giới hạn một kỹ năng và trở thành một phạm trù mới của đạo đức.
    1) Một trong những tiến bộ đáng nể nhất của tư duy hiện đại là đã vượt qua thời nguyên lý loại trừ bước sang kỷ nguyên của nguyên lý bổ sung.
    Nguyên lý loại trừ có một sức ỳ thâm căn cố đế vì nó đã chế ngự tư duy nhân loại đằng đẵng hàng nghìn năm trời.
    Nó vận hành trên hai vế đúng/sai và không công nhận, tuyệt đối không công nhận có vế thứ ba.
    Cách hành xử của nó là độc thoại và cao trào của nó là định kiến: kẻ nào không đi với ta là chống lại ta.
    Phong cách của nó là khép kín, bảo thủ, hẹp hòi và độc đoán.
    Lịch sử còn nhớ lời phát ngôn nổi tiếng của Goebel một cánh tay đắc lực của Hitle: "Khi tôi nghe thấy từ văn hóa, tôi rút súng ra".
    Nguyên lý bổ sung cung cấp cho vận hành tư duy hiện đại một vế thứ ba: cái khác.
    Cách hành xử của nó là đối thoại. Phong thái của nó là cởi mở, dung nhận, thực sự cầu thị, bình đẳng và đoàn kết.
    Nó phủ-nhận mọi chân lý độc tôn, tất định.
    Nó khuyến khích mọi cuộc tranh luận, mọi ý kiến khác biệt trên con đường không có kết thúc (non finito) của hành trình chân lý.
    Nguyên lý bổ sung của Bohr và đôi bạn đồng hành nguyên lý bất định của Heisenberg và nguyên lý bất toàn của Godel hoạt động như bộ ba "ngự lâm quân pháo thủ" của tư duy hiện đại. Hiểu biết của con người ngày một trưởng thành. Con người ngày càng hiểu rằng tri thức của mình là hữu hạn, rằng chân lý là một quá trình tiếp cận trường kỳ, chân lý luôn luôn trên đường đi và không có ngày Chúa nhặt cũng như không có một công ty độc quyền chân lý.
    Xây dựng một nền văn hóa đối thoại hết sức bức thiết nhưng cũng trường kỳ khó khăn vì loài người sống quá lâu năm trong thói quen độc thoại- Nó như một bóng ma bất đắc kỳ tử luôn luôn ám ảnh hành trình đối thoại của loài người.
    2) Tôi xin phép được nhắc lại và nhấn mạnh đề phòng mọi sự hiểu lầm.
    - Độc thoại là tin rằng mình đã nắm vững chân lý và chỉ có nhiệm vụ cao cả là thuyết phục kẻ khác chấp thuận. Tật cố hữu của nó là áp đặt cửa quyền và sốt ruột. Các nhà tri thức học gọi đó là phong cách nóng (hot).
    Như trên đã nói: với người độc thoại chân lý là đã có sẵn và ở phía sau lưng nên do đó thường có tính chất bảo thủ tự mãn và đa nghi.
    - Đối thoại, ngược lại, tin rằng chân lý không phải một tiền đề (précepte) mà một hậu đề (postcete) kết quả của một quá trình phân tích, thảo luận, xây dựng của nhiều người nên phong cách của nó là thành khẩn, bình tĩnh và dân chủ. Giới học thuyết gọi đó là phong cách mát (cool).
    3) Từ thời mở cửa chúng ta đã bắt đầu xây dựng được một sinh hoạt đối thoại khá tốt. Trên báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng đã xuất hiện những cuộc thảo luận tương đối có chất lượng.
    Nhưng phải nói thật với nhau, để xây dựng được một nền văn hóa đối thoại thực chất còn rất nhiều điều cần phải làm.
    Một số cá nhân hoạt động văn hóa "nhà nọ nhà kia" hẳn hoi trong lúc tranh cãi về học thuật đã cãi nhau theo nghĩa đen với những lời lẽ rất mất vệ sinh của đám người ngoài chợ.
    Một số người còn mắc bệnh cay cú "cãi lấy được" cố tìm cách moi móc, cố tình đánh những đòn hiểm (?) để hạ "nốc ao" đối thủ.
    Chúng ta phải cố gắng trọng thị hơn nữa những bạn đối thoại với ta (đó cũng là thái độ tự trọng) và cố gắng "fair play" (chơi đẹp) đến mức tối đa có thể như những vận động viên có tư cách.
    Cái bi kịch cũng như cái lớn lao của con người là: Điều gì cũng phải học và điều gì cũng có thể học được.
    Học ăn, học nói, học gói, học mở.
    Học nói chính là văn hóa đối thoại.
    Ngay từ thời xa xưa các cụ ta đã có những lời khuyên hết sức tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc về đối thoại. Chẳng hạn: "Lời nói không mất tiền mua/Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau", "Lời chào cao hơn mâm cỗ", "Một sự nhịn là chín sự lành", "Nói phải củ cải nghe cũng được".
    Trong đối thoại một đòi hỏi quan trọng là phải biết lắng nghe.
    Một thiền sư dạy: Không phải vô cớ mà trời sinh ra con người có hai tai và một miệng.
    4) Đầu thế kỷ XX trước thiên hướng chuyên môn hóa cao của khoa học, Nitsơ đã lo rằng một ngày không xa con người sẽ chuyên môn hóa đến mức trở thành những thằng gù(?)
    Như những Cátxăngđrơ (cô đồng báo điềm gở), các trí tuệ lớn thường đứng ở điểm lâm nguy của nhân loại. Mặc dầu khả năng tiên tri lỗi lạc, Nietzsche cũng chưa vượt qua được nguyên lý loại trừ của thời đại minh.
    Cơ nguy chuyên môn đến mức "gù hóa" là có thật nhưng chưa bao giờ người ta đề cập đến những khoa học liên thông liên ngành nhiều như bây giờ.
    Nhà bác học lớn người Bỉ Prigogine còn công khai hô hào cho một khối liên minh mới giữa tất cả các ngành khoa học tự nhiên và xã hội để tạo dựng một cái nhìn nên thơ và đỡ khô cứng đối với sự sống.
    Và những câu nói "hội nhập", "toàn cầu hóa" gần như đã trở thành lời nói cửa miệng của thế kỷ XXI.
    Văn hóa đối thoại đã trở thành một yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết.
    Lê Đạt

  4. keIangthang

    keIangthang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/05/2007
    Bài viết:
    198
    Đã được thích:
    327
    Đã lâu không viết thư...[/size=4]
    Email, di động... kéo những người ở xa lại gần, nhưng lại đẩy những người ở gần xa nhau.
    Một cô bạn thân, nửa đùa nửa thật: ?oNếu bây giờ ông viết cho tôi một lá thư tỏ tình, tôi sẽ yêu ông mất?. Giật mình. Ừ nhỉ! Rồi bỗng xót xa khi chưa bao giờ viết cho người mình yêu một lá thư, dù chỉ để thăm hỏi vu vơ.
    1. Bạn mail cho tôi, thông báo về ngày đại hỉ của cuộc đời mình. Thông tin bạn cung cấp rất nhiều, nhưng sao tôi vẫn thấy thiếu, thấy trống vắng một điều gì... mơ hồ không rõ.
    ... Nhớ lúc chia tay, bạn nói nghẹn ngào: ?oNhớ viết thư cho tao nhé!?. Rồi những lá thư qua lại, nối tình cảm hai đứa ở hai phương trời xa tắp. Mỗi lần nhận thư, nhìn nét chữ thân quen, tôi như thấy bạn vẫn hiện hữu đâu đây, gần tôi lắm.
    Rồi thời đại công nghệ thông tin bùng nổ. Cuộc đời vẫn thế nhưng nhịp sống đã hối hả hơn, bận bịu hơn với nhiều mối quan hệ níu kéo, ràng buộc...
    Bạn không còn viết thư bằng giấy học trò pha màu mực tím. Và tôi cũng thế. ?oKhông có thời gian bạn ơi. Một lá thư viết mãi mấy tháng không xong. Bận quá. Thôi tôi mail cho mau nhé?. Ừ, thì phải vậy thôi. Thời buổi mỗi giây được tính bằng tiền mà.
    Chiều thành phố trời dìu dịu. Ngồi nhìn mây bay , bỗng thèm đọc quá một lá thư viết bằng giấy học trò, để tình cảm được tự do tuôn trào theo ký ức.
    Lâu lắm rồi mình không mail cho nhau. Bởi mỗi khi đối diện với máy tính, tôi chẳng biết viết gì ngoài những dòng hỏi thăm nghe có vẻ khách sáo. Riết rồi hai đứa chẳng buồn check mail. Còn gạch nối giữa tôi và các mối quan hệ, cũng chỉ là những cú phôn vội vã.
    2. Một cô bạn thân, nửa đùa nửa thật: ?oNếu bây giờ ông viết cho tôi một lá thư tỏ tình, tôi sẽ yêu ông mất?. Giật mình. Ừ nhỉ! Đi qua tuổi học trò, qua cái thời ngỗ nghịch, rồi... Tôi bỗng xót xa khi chưa bao giờ viết cho những người mình yêu thương một lá thư dù chỉ để thăm hỏi vu vơ.
    Bỗng nhớ ngày xưa. Mỗi khi vui - buồn, tôi đều ghi vào nhật ký, trân trọng giữ gìn như báu vật của đời. Thói quen ấy đến nay không còn, dù chỉ là bất chợt. Hôm nay vui không nói. Nhưng ngày mai tôi buồn, cũng không thể kéo lê nỗi buồn lang thang khắp phố. Đành kiếm chỗ trú ẩn ở quán cà phê hay gào thét trong những tụ điểm karaoke đã quá ư ồn ào và... Chợt thấy thấm thía: ?oNếu ông viết cho tôi một lá thư tình, tôi sẽ yêu ông mất?.
  5. keIangthang

    keIangthang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/05/2007
    Bài viết:
    198
    Đã được thích:
    327
    Đã lâu không viết thư...[/size=4]
    Email, di động... kéo những người ở xa lại gần, nhưng lại đẩy những người ở gần xa nhau.
    Một cô bạn thân, nửa đùa nửa thật: ?oNếu bây giờ ông viết cho tôi một lá thư tỏ tình, tôi sẽ yêu ông mất?. Giật mình. Ừ nhỉ! Rồi bỗng xót xa khi chưa bao giờ viết cho người mình yêu một lá thư, dù chỉ để thăm hỏi vu vơ.
    1. Bạn mail cho tôi, thông báo về ngày đại hỉ của cuộc đời mình. Thông tin bạn cung cấp rất nhiều, nhưng sao tôi vẫn thấy thiếu, thấy trống vắng một điều gì... mơ hồ không rõ.
    ... Nhớ lúc chia tay, bạn nói nghẹn ngào: ?oNhớ viết thư cho tao nhé!?. Rồi những lá thư qua lại, nối tình cảm hai đứa ở hai phương trời xa tắp. Mỗi lần nhận thư, nhìn nét chữ thân quen, tôi như thấy bạn vẫn hiện hữu đâu đây, gần tôi lắm.
    Rồi thời đại công nghệ thông tin bùng nổ. Cuộc đời vẫn thế nhưng nhịp sống đã hối hả hơn, bận bịu hơn với nhiều mối quan hệ níu kéo, ràng buộc...
    Bạn không còn viết thư bằng giấy học trò pha màu mực tím. Và tôi cũng thế. ?oKhông có thời gian bạn ơi. Một lá thư viết mãi mấy tháng không xong. Bận quá. Thôi tôi mail cho mau nhé?. Ừ, thì phải vậy thôi. Thời buổi mỗi giây được tính bằng tiền mà.
    Chiều thành phố trời dìu dịu. Ngồi nhìn mây bay , bỗng thèm đọc quá một lá thư viết bằng giấy học trò, để tình cảm được tự do tuôn trào theo ký ức.
    Lâu lắm rồi mình không mail cho nhau. Bởi mỗi khi đối diện với máy tính, tôi chẳng biết viết gì ngoài những dòng hỏi thăm nghe có vẻ khách sáo. Riết rồi hai đứa chẳng buồn check mail. Còn gạch nối giữa tôi và các mối quan hệ, cũng chỉ là những cú phôn vội vã.
    2. Một cô bạn thân, nửa đùa nửa thật: ?oNếu bây giờ ông viết cho tôi một lá thư tỏ tình, tôi sẽ yêu ông mất?. Giật mình. Ừ nhỉ! Đi qua tuổi học trò, qua cái thời ngỗ nghịch, rồi... Tôi bỗng xót xa khi chưa bao giờ viết cho những người mình yêu thương một lá thư dù chỉ để thăm hỏi vu vơ.
    Bỗng nhớ ngày xưa. Mỗi khi vui - buồn, tôi đều ghi vào nhật ký, trân trọng giữ gìn như báu vật của đời. Thói quen ấy đến nay không còn, dù chỉ là bất chợt. Hôm nay vui không nói. Nhưng ngày mai tôi buồn, cũng không thể kéo lê nỗi buồn lang thang khắp phố. Đành kiếm chỗ trú ẩn ở quán cà phê hay gào thét trong những tụ điểm karaoke đã quá ư ồn ào và... Chợt thấy thấm thía: ?oNếu ông viết cho tôi một lá thư tình, tôi sẽ yêu ông mất?.
  6. ha_kennic

    ha_kennic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/07/2005
    Bài viết:
    1.208
    Đã được thích:
    0
    ..........*.................*..................*...................*.....
    ...ko fải là xì pem , xoá oánh chết....
  7. ha_kennic

    ha_kennic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/07/2005
    Bài viết:
    1.208
    Đã được thích:
    0
    ..........*.................*..................*...................*.....
    ...ko fải là xì pem , xoá oánh chết....
  8. keIangthang

    keIangthang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/05/2007
    Bài viết:
    198
    Đã được thích:
    327
    Mẹ Tôi
    Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.
    Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường để kiếm tôi làm tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế với tôi? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên.
    - Ê, tao thấy rồi! ****** chỉ có một mắt!
    Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó, đi học về tôi nói thẳng với bà.
    - Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười!
    Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý gì đến những lời nói đó, vì lúc ấy lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng để ý gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi nhà, không còn liên hệ gì với mẹ tôi. Vì thế tôi cố gắng học hành thật chăm chỉ; và sau cùng, tôi có được một học bổng đi học ở một tiểu bang xa.
    Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ côi từ nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở một thành phố sang trọng. Tôi mua cho mẹ một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gởi một ít tiền về biếu ba, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.
    Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyện, hét lên.
    - Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!
    Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời.
    - Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ!
    Và lặng lẽ quay đi. Tôi không liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ đã làm con bị chúng bạn trêu chọc nhục nhã, bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con sao?
    Một hôm, nhận được một lá thư mời họp mặt của trường cũ gởi đến tận nhà, tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó, và do không có thân nhân, sở an sinh xã hội đã lo mai táng chu đáo.
    Ồ, thế là từ nay tôi không còn phải bận tâm về bà nữa. Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi.
    "Con yêu quý,
    Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám bất ngờ tìm đến nhà con và làm cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp mặt, nhưng mẹ sợ mẹ không bước nổi ra giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây.
    Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn hỏng mất một con mắt. Mẹ không thể ngồi nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sĩ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh về những gì mẹ đã làm cho con. Con đã nhìn thấy cả thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ.
    Mẹ yêu con lắm,
    ST.
  9. keIangthang

    keIangthang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/05/2007
    Bài viết:
    198
    Đã được thích:
    327
    Mẹ Tôi
    Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.
    Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường để kiếm tôi làm tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế với tôi? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên.
    - Ê, tao thấy rồi! ****** chỉ có một mắt!
    Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó, đi học về tôi nói thẳng với bà.
    - Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười!
    Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý gì đến những lời nói đó, vì lúc ấy lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng để ý gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi nhà, không còn liên hệ gì với mẹ tôi. Vì thế tôi cố gắng học hành thật chăm chỉ; và sau cùng, tôi có được một học bổng đi học ở một tiểu bang xa.
    Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ côi từ nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở một thành phố sang trọng. Tôi mua cho mẹ một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gởi một ít tiền về biếu ba, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.
    Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyện, hét lên.
    - Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!
    Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời.
    - Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ!
    Và lặng lẽ quay đi. Tôi không liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ đã làm con bị chúng bạn trêu chọc nhục nhã, bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con sao?
    Một hôm, nhận được một lá thư mời họp mặt của trường cũ gởi đến tận nhà, tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó, và do không có thân nhân, sở an sinh xã hội đã lo mai táng chu đáo.
    Ồ, thế là từ nay tôi không còn phải bận tâm về bà nữa. Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi.
    "Con yêu quý,
    Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám bất ngờ tìm đến nhà con và làm cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp mặt, nhưng mẹ sợ mẹ không bước nổi ra giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây.
    Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn hỏng mất một con mắt. Mẹ không thể ngồi nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sĩ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh về những gì mẹ đã làm cho con. Con đã nhìn thấy cả thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ.
    Mẹ yêu con lắm,
    ST.
  10. royalgia

    royalgia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2006
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    0
    Bệnh sai chính tả trong trường học​
    Lao Động Cuối tuần số 21 Ngày 03/06/2007

    (LĐCT) - Chính tả, là viết đúng mặt chữ, theo quy định chuẩn tiếng Việt. Tôi còn nhớ những năm 60 của thế kỷ trước, có một lần Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong buổi nói chuyện với các thầy giáo, cô giáo và đại biểu sinh viên của trường, Thủ tướng dành nhiều thời gian nói về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
    Thủ tướng nói: "Thật đáng ngạc nhiên khi xem lá đơn của một sinh viên có dòng chữ: "Đơn xin ra nhập Đoàn"! Sinh viên này chưa vào Đoàn, mà đã xin ra rồi. Viết "gia nhập" thành "ra nhập" vừa sai chính tả, vừa sai về dùng từ Hán- Việt. Nhà trường phải dạy cho sinh viên nói đúng, viết đúng, tiến tới nói hay và viết hay tiếng Việt".
    Tôi cứ thấm thía mãi lời của Thủ tướng - tác giả của bài viết nổi tiếng "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" và rất nhiều tác phẩm chính luận rất có giá trị khác. Cho đến nay, thì bệnh sai chính tả đang trở thành căn bệnh trầm trọng trong nhà trường, từ cấp tiểu học, đến bậc đại học và cả sau đại học! Người viết sai chính tả, không chỉ là học sinh, sinh viên, mà còn là giáo viên PT và giảng viên ở các trường ĐH.
    Trong các loại lỗi chính tả, thì nặng nhất là viết sai phụ âm đầu: lầm lẫn giữa l với n, ch - tr, s - x, r - d - gi. Đây là loại lỗi phổ biến của học sinh, sinh viên, giáo viên miền Bắc. Tiếp đó, là lỗi về viết hoa: viết hoa rất tuỳ tiện, hoặc không viết hoa sau dấu chấm và khi viết tên riêng.
    Bên cạnh đó, là viết sai vần, sai dấu ghi thanh: lẫn lộn giữa các dấu "sắc" - "hỏi"- "ngã"- "nặng"( người miền Trung, miền Nam thường mắc loại lỗi này). Càng ở các lớp dưới, thì sai chính tả càng nhiều. Các trường ở nông thôn, miền núi, hải đảo sai chính tả nhiều hơn các trường ở thị xã, thành phố. Có học sinh lớp 12 (một trường quốc lập) viết: "Trúc sinh trúc mọc bên đình,/Em sinh, em đứng một mình cũng sinh".
    Tôi thường chấm thi môn Văn trong các kỳ thi tuyển sinh ĐH- CĐ, rất sửng sốt thấy nhiều thí sinh viết sai chính tả một cách loạn xạ, nhiều khi tới mức ngô nghê, tức cười. Thế mà các em này cũng tốt nghiệp THPT, và còn đỗ vào các trường ĐH- CĐ để học các môn khoa học xã hội- nhân văn, khi yêu cầu đầu tiên là phải thông thạo về các kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ!
    Nhiều học sinh THPT viết sai chính tả đến mức... khủng khiếp: "Chuyện ngắn vợ trồng A phủ là tác phẩm lổi tiếng của tô hoài"; "Mị là một cô ghái đẹp"; "Anh Chàng đã lãnh đạo nhân dân lổi dậy phá kho thóc..." (là anh Tràng trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân); v.v...
    Sinh viên các trường ĐH-CĐ nói chung viết sai chính tả đã là điều không thể chấp nhận; nhưng không ít sinh viên các khoa KHXH & NV, trong đó có cả khoa Ngữ văn, khoa Báo chí cũng rất... "hồn nhiên" viết sai chính tả.
    Một sinh viên sư phạm sắp ra trường mà trong một giáo án tập giảng, sai tới 19 lỗi chính tả! Cách đây hơn chục năm, trên báo Hà Nội Mới có thông tin: Một học sinh lớp 9 đã sửa nhiều lỗi chính tả trong một luận án tiến sĩ! Chuyện thật, mà cứ như bịa! Ngay ở Đài Truyền hình Việt Nam, mà "bắn" chữ cũng phạm nhiều lỗi chính tả. Có lần, một phóng sự của nhà đài có hàng chữ: "Kinh tế chang trại"(!); và nhiều lỗi chính tả khác...
    Bệnh sai chính tả trong trường học trước hết là do chất lượng yếu kém của việc dạy và học môn Văn và tiếng Việt ở các cấp phổ thông, mà chủ yếu là từ lỗi phát âm của nhiều giáo viên, nhất là các giáo viên sinh ra ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Một số giáo viên dạy Văn mà phát âm các tiếng có phụ âm đầu l và n còn ngọng líu ngọng lô, huống chi giáo viên dạy các bộ môn khác.
    Ví như: "Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Nân (Lân)"; "Hôm nay, nớp ta vắng mấy bạn? Nớp trưởng điểm danh!"; hoặc: Các em về nhà nàm cho cô các bài tập; phải nuôn nuôn cố gắng học tập... ". Có giáo viên lại biến n thành l; ví như: "Các em phải lắm cho được các kiến thức chính của bài học"!
    Nói ngọng (phát âm sai), thường dẫn đến viết sai chính tả. Trong việc chấm bài, trả bài, đáng lý giáo viên phải dành thời gian sửa lỗi chính tả cho học sinh; nhưng vì thầy, cô cũng viết sai, vì tắc trách, hoặc vì nhiều lý do khác, nên đã bỏ qua khâu quan trọng này.
    Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân thuộc nhận thức phiến diện và sai lạc của không ít giáo viên các cấp. Họ coi chính tả là chuyện... nhỏ, viết thế nào thì viết, miễn sao nói được nội dung!
    Sai chính tả là vi phạm chuẩn mực ngôn ngữ. Nó chứng tỏ sự thiếu hụt tri thức văn hoá của người viết. Viết sai chính tả làm giảm hiệu quả thông tin, nhiều khi làm người đọc hiểu sai ý định của người viết và gây phản cảm khi tiếp nhận văn bản. Nhà trường là nơi dạy người, dạy chữ; do đó giáo viên và học sinh, sinh viên không thể viết sai chính tả.
    Đào Ngọc Đệ (Hải Phòng)

Chia sẻ trang này