1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cùng suy ngẫm về ứng xử và khả năng chiến tranh của TQ và các nước ĐNÁ xung quanh vấn đề Biển Đông

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi losspassword, 08/05/2009.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Minturu

    Minturu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2009
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Nghĩ đã rồi hẵng phát biểu. Đây là những người không trong ca trực chứ kể cả đêm 30 cũng phải đứng gác đó ạ. Còn tình hình ngoài đó chắc rất căng nên chỉ nghe tiếng máy bay thôi là phải sẵn sàng rồi chứ chờ báo động thì chắc đã lên thiêng đàng mất rồi nếu nó đánh thật
  2. dycacyce

    dycacyce Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/07/2008
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    1
    Mời xem lại trang 34:
    Lịch sử quan hệ Việt-Trung
    nhìn từ góc độ đại chiến lược
    Vũ Hồng Lâm*

    Tóm tắt: Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, cũng như nhiều quan hệ địa chính trị khác, có hai mặt: hình thức và thực chất. Hai mặt này không phải bao giờ cũng tương đồng. Về mặt hình thức, quan hệ Việt-Trung được định vị trong khuôn khổ một mô hình thế giới có tính chuẩn tắc mà cả hai thế lực cầm quyền ở Trung Quốc và ở Việt Nam cùng công nhận. Song về thực chất, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phản ánh sự cọ sát, đụng độ hoặc thỏa hiệp giữa những viễn tượng khác nhau về trật tự thế giới, xét cho cùng là phản ánh tương quan lực lượng giữa các thế lực lãnh đạo đại diện cho các viễn tượng thế giới khác nhau. Sự chia sẻ và tranh chấp trật tự thế giới được thực hiện thông qua đại chiến lược và được thể hiện thông qua lễ nghi. Tìm hiểu đại chiến lược của Việt Nam và Trung Quốc, giải mã lễ nghi trong tiếp xúc và trao đổi giữa hai nước (đúng hơn là hai thế lực địa chính trị), sẽ cho câu trả lời về tính chất và đặc điểm của mối quan hệ Việt-Trung. Bài viết này điểm qua mối quan hệ Việt-Trung trong 22 thế kỷ lịch sử của nó, đặc biệt tập trung vào giai đoạn từ thập niên 1970 cho đến nay.
    Tổng quan
    .... .... ...........
    Được dycacyce sửa chữa / chuyển vào 09:21 ngày 01/06/2009
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trích từ bài viết của NSThinking Gửi lúc 21:33, 31/05/09
    --------------------------------------------------------------------------------
    Khả năng, các cú đánh phủ đầu liên hoàn China vào các lực lượng phòng thủ Trường Sa mở đầu cho cuộc chiến high-tech thế kỷ 21 sẽ bắt đầu khác với các cuộc chiến tranh quy ước từ trước tới nay:
    1. Trước tiên, mở màn là cú đánh làm ?omù? vệ tinh Vinasat 1 và các hệ thống vệ tinh khác trong vùng biển Đông khu vực tranh chấp.
    2. Song song đó, lần đầu tiên bom xung kích từ trường (bom ViBa) được sử dụng phóng từ tầu chiến hoặc tên lửa tầm xa sẽ phá hủy và làm tê liệt tất cả các hệ thống điện tử (thông tin liên lạc, máy tính điều khiển, máy móc khí tài?) của hạm đội phòng thủ trên biển, tầu ngầm dưới nước và các vũ khí khí tài trên các đảo trên bán kính khoảng 50-70 km quanh khu vực trọng điểm.
    Tín hiệu bất thường trước cuộc tiến công có thể nhận thấy, khi các hạm đội China ?" như từ trước tới nay luôn gầm ghè và bám sát các hạm đội phòng thủ đảo ?" bỗng nhiên lùi xa hẳn khu vực sẽ nổ ra tranh chấp trong bán kính rộng. Điều này ví như tín hiệu cảnh báo sóng thần, khi nước biển đột ngột rút ra ngoài xa trước khi sóng thần tràn lên đất liền.
    3. Sau đó, khi hệ thống phòng thủ trên biển và trên đảo sử dụng high-tech (ra-đa, hệ thống phòng không, tên lửa, điện đài?) bị tiêu diệt và cô lập hoàn toàn với đất liền, đòn tấn công tổng lực thông thường sẽ diễn ra và số phận quần đảo Trường Sa, với các vũ khí phòng thủ thông thường, không thể trụ vững lâu dài được.
    Lợi dụng yếu tố bất ngờ trong cuộc chiến giới hạn trên biển, China nhiều cơ hội giành phần thắng nhanh gọn. Cơ hội này sẽ tăng lên, nếu họ cũng tấn công bất ngờ như vậy vào các quân cảng, sân bay, hệ thống phòng thủ bờ biển? của ta. Khả năng này ko cao, vì nó khơi mào cho một cuộc chiến tranh tổng lực, điều mà China chưa muốn mạo hiểm thởi điểm này?.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    Vàng 01: Vinasat không phải là vệ tinh QS http://vi.wikipedia.org/wiki/Vinasat-1
    Vàng 02: Bom xung điện từ trường phóng từ tầu chiến he he ( tầu phóng bom cái này mình mới nghe thấy đấy nha) và BC đã cọppy được tên lửa hành trinh Tomahow rồi?, cái này bạn phải nói rõ hơn là làm cách nào để BC có thể mà tê liệt được vũ khí của đối phương trong bán kính 70 km xung quanh đảo TS, mà các tầu phóng tiễn của ta có mang được các tên lửa có tầm bắn hơn 70 km

    Vàng 03: Mình không hiểu BC sẽ tiêu diệt hệ thống này của ta (ra-đa, hệ thống phòng không, tên lửa, điện đài?)ntn? cụ thể dùng vũ khí loại gì, bắn từ cái gì, dẫn bắn ntn ( túm lại là cơ sơ khoa học)?
    Vàng 04: Có phải ở trong tiểu thuyết đòn rồng hoặc mấy kịch bản trong diễn đàn Sino không bạn. Nếu với trang bị của BC bây giờ mà bạn lập được kế hoạch khả thi như thế này thì Quân đội Giải phóng quân BC sẽ mời bạn làm Tổng TM trưởng
    Túm lại ta phải đánh giá đúng sức mạnh của đối phương trên cơ sở khoa học quân sự, không nên đánh giá họ quá thấp để bị mất cảnh giác - bị bất ngờ, cũng không nên đánh giá quá cao để biến sức mạnh của họ thành huyền thoại
  4. dycacyce

    dycacyce Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/07/2008
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    1
    Chú có thể đọc hồi ký của thứ trưởng Trần Quang Cơ thì sẽ hiểu hơn cái đoạn trích này.
    Nếu có thời gian, tôi sẽ post cho mọi người về Hồi ký của Trần Quang Cơ để hiểu rõ hơn mối quan hệ Việt Nam-TQ
  5. dycacyce

    dycacyce Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/07/2008
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    1
    Hai đại chiến lược, hai thế giới quan (tt)
    Hai năm 1988-89 là thời gian bản lề cho chính sách đối ngoại của Việt Nam suốt những năm sau. Thời gian này hình thành thế ?ohai chân? trong tư duy đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời hậu Chiến tranh Lạnh dựa trên hai đại chiến lược khác nhau. Sở dĩ là hai mà không phải là một vì chúng mang hai ý đồ khác nhau và dựa trên hai quan điểm trái ngược nhau về thế giới.
    Chiến lược lớn thứ nhất dựa trên thế giới quan Mác-Lê, nhìn thế giới qua lăng kính ?o2 phe, 4 mâu thuẫn?, coi mâu thuẫn giữa ?ochủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản? là mâu thuẫn cơ bản nhất, đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản là động lực cơ bản cho vận động chính trị toàn cầu. Bước vào thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô đặt ra cho Việt Nam một yêu cầu mới. Từ góc nhìn của thế giới quan Mác-Lê, mục tiêu lớn của Việt Nam được xác định là phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội thế giới, Việt Nam phải coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược, Mỹ là kẻ thù chiến lược, phải đặt trọng điểm an ninh quốc gia vào chống ?odiễn biến hòa bình?. Chiến lược lớn này lấy ?ochống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội? làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm các chương 9, 10 và 14 trong hồi ký của Trần Quang Cơ (2001/2003) về quan điểm chiến lược theo hướng này của Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh).
    Chiến lược lớn thứ hai dựa trên thế giới quan mới được hình thành trong thời kỳ ?ođổi mới tư duy? cuối những năm 80. Thế giới quan này gồm hai chiều: kinh tế và chính trị. Về kinh tế, nó coi thế giới như một thị trường thống nhất, liên thuộc vào nhau, vận động theo xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Các nước muốn sống còn không có cách nào khác là phải tham gia vào ?ophân công lao động quốc tế mới?, phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới và hội nhập khu vực. Về chính trị, mâu thuẫn cơ bản được coi là mâu thuẫn giữa các quốc gia-dân tộc, cục diện thế giới về cơ bản được xem là chịu sự chi phối của mối tương quan giữa các ?onước lớn?. Chiến lược của Việt Nam trong tình hình mới (các nước lớn hòa hoãn, chuyển sang chạy đua kinh tế, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập khu vực gia tăng) là phải ?ohội nhập? mạnh mẽ vào thế giới và khu vực, đặc biệt tranh thủ nguồn lực của các trung tâm tài chính-công nghệ thế giới (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu), thực hiện ngoại giao đa phương, tạo thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Trọng điểm an ninh quốc gia, theo chiến lược lớn thứ hai, là chống ?otụt hậu?. Chiến lược lớn này lấy ?ophát triển, hiện đại hóa? làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm cuốn sách của Nguyễn Cơ Thạch (1998) và thư gửi Bộ chính trị của Võ Văn Kiệt (1995) về quan điểm chiến lược theo hướng này).
    Một câu hỏi đặt ra là tại sao ở Trung Quốc các mục tiêu phát triển, hiện đại hóa, cũng như chống đế quốc (TQ dùng từ ?obá quyền?), bảo vệ chủ nghĩa xã hội cùng nằm trong một đại chiến lược mà ở Việt Nam lại là hai? Mấu chốt nằm ở chỗ Trung Quốc không chống đế quốc theo định nghĩa của Lênin (đế quốc đồng nghĩa với tư bản) mà chống bất cứ nước nào có mưu đồ bá quyền trên thế giới cũng như ở châu Á (Trung Quốc từng gọi Liên Xô là ?ođế quốc xã hội?), và Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc chứ không bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới như Việt Nam (lời Đại sứ Trung Quốc nói với Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 27/7/1990, xem hồi ký Trần Quang Cơ, tr. 19). Như vậy tuy nhìn bề ngoài thì mục tiêu của Trung Quốc và Việt Nam có vẻ không khác nhau là mấy nhưng về nội dung thì khác nhau cơ bản vì dựa trên hai thế giới quan khác hẳn nhau. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công đã chỉ ra điều này tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 19/6/1990: ?oTrung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích chung của chủ nghĩa xã hội. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu. Không nên ảo tưởng? (Trần Quang Cơ 2003: 43). Điều có vẻ nghịch lý là chiến lược ?ophát triển, hiện đại hóa? (không chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) dựa trên một thế giới quan giống với của Trung Quốc, trong khi chiến lược ?ochống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội? (chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) lại có một thế giới quan khác hẳn của Trung Quốc.
  6. dycacyce

    dycacyce Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/07/2008
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    1
    Hai đại chiến lược, hai thế giới quan (tt)
    Trong những năm 90, một sự ?ophân công lao động? giữa hai chiến lược lớn đối ngoại đã được dàn xếp. Sự phân công này thể hiện rõ trong cơ cấu và cơ chế lãnh đạo sau Đại hội Đảng 7. ************* Lê Đức Anh, đại diện chiến lược ?ochống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội?, phụ trách khối ngoại giao-quốc phòng-an ninh. Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đại diện cho chiến lược ?ophát triển, hiện đại hóa?, phụ trách mảng kinh tế. Tổng bí thư Đỗ Mười đóng vai trò dàn xếp giữa hai chiến lược, là người quyết định cuối cùng.
    Hai nhà lãnh đạo cao cấp thúc đẩy đường lối ?ophát triển? và đại diện cho thế giới quan và quan điểm chiến lược này là Nguyễn Cơ Thạch (Ngoại trưởng 1980-1991) và Võ Văn Kiệt (Thủ tướng 1991-1996). Những người kiên quyết giữ vững thế giới quan Mác-Lê và chủ trương đường lối chiến lược tương ứng là Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư 1986-1991), Lê Đức Anh (************* 1991-1996), Đào Duy Tùng (Thường trực Ban Bí thư 1991-1996), Nguyễn Đức Bình (lý thuyết gia trưởng của Đảng 1991-1996), Lê Khả Phiêu (Tổng bí thư 1997-2001). Như vậy, mặc dù chính sách ngoại giao ?ođa dạng hóa, đa phương hóa? được các kỳ Đại hội Đảng liên tục khẳng định tính chính thống, quan điểm ?ohai phe, bốn mâu thuẫn? vẫn ở thế thượng phong. Thế thượng phong của đại chiến lược ?ochống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội? có phần do cú sốc tâm lý bởi các ?osự kiện định hướng? của các năm 1989-90-91. Đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, các đảng ?obạn? mất chính quyền ở hàng loạt nước, sự tan rã của Liên Xô.
    Suy nghĩ thông thường cho rằng các sự kiện này khiến cho Việt Nam mất đi nguồn viện trợ lớn, thị trường truyền thống và chỗ dựa chính về ngoại giao. Thật ra, các sự kiện Đông Âu năm 1989-90 không có mấy ảnh hưởng ?okhách quan? lên nền kinh tế Việt Nam mà phần nhiều là ảnh hưởng ?ochủ quan? lên tâm lý người lãnh đạo. Số liệu thống kê cho thấy năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô và gạo ở mức độ đáng kể. Năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, trong khi chỉ 3 năm trước (1986) lượng gạo xuất khẩu là 0,158 triệu tấn. Cũng ngay trong năm 1989, giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi (các nước tư bản) tăng vọt lên 1,139 tỉ đô la từ con số 350 triệu đô la của năm 1988. Trong khi năm 1988, xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ không chuyển đổi (các nước xã hội chủ nghĩa) còn chiếm 55,6 % tổng giá trị xuất khẩu thì năm 1989, xuất khẩu sang các nước tư bản đã chiếm 58,5% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 1991, tuy xuất khẩu sang thị trường các nước xã hội chủ nghĩa sụt hẳn xuống còn 80 triệu rúp từ con số 1,1 tỉ rúp của năm trước, nhưng xuất khẩu sang các nước tư bản cũng tăng mạnh lên gần 1,9 tỉ đô la, khiến tổng giá trị xuất khẩu năm 1991 tuy thấp hơn năm 1990 nhưng vẫn cao hơn năm 1989 (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1986-1991. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1992, tr. 93-94). Do sự chuyển hướng chiến lược trong các năm 1987-88 cho nên ngay trong thời gian xảy ra các sự biến ở Đông Âu và Liên Xô (1989-91), Việt Nam đã tạo được xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, tạo được chỗ bám vào thị trường thế giới. Vốn đầu tư nước ngoài (đăng ký) tăng từ 371 triệu đô la năm 1988 lên 582 triệu năm 1989, 839 triệu năm 1990 và 1,322 tỉ năm 1991. Xuất khẩu sang các nước tư bản tăng từ 448 triệu đô la năm 1988 lên 1,138 tỉ năm 1989, 1,352 tỉ năm 1990, và 2,010 tỉ năm 1991. Nhập khẩu từ các nước tư bản cũng tăng từ 804 triệu đô la năm 1988 lên 879 triệu năm 1989, 1,372 tỉ năm 1990, và 2,049 tỉ năm 1991. Như vậy ngay trong năm 1991, tức là trước khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã thu được ở thị trường các nước tư bản khoảng 2 tỉ đô la tiền xuất khẩu, gấp đôi số tiền thu được từ bán hàng sang các nước xã hội chủ nghĩa vào thời điểm đỉnh cao trước đây (1,1 tỉ rúp năm 1990). Mặt khác, nếu viện trợ kinh tế và vay nợ từ các nước xã hội chủ nghĩa (ước khoảng 1-2 tỉ đô la một năm trong những năm 80) mất đi thì Việt Nam lại được bù đắp một khoản tương ứng từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài cũng như các khoản viện trợ và cho vay từ các nước tư bản. Năm 1991 Việt Nam nhận được 1,079 tỉ đô la cho vay và 526 triệu viện trợ từ nước ngoài. Ngoài ra còn có hơn 1,3 tỉ đô la đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cam kết. (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1995. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1996, tr. 51, 64, 253; các số liệu thống kê chỉ có tính tương đối, lưu ý sự khác nhau giữa TCTK 1992 và TCTK 1996 về giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi năm 1991). Tóm lại, không thể nói sự tan rã của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa đã tác hại nặng nề lên nền kinh tế Việt Nam.
    Ngược lại, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước liên tiếp đã gây phản ứng tâm lý mạnh trong đông đảo cán bộ lãnh đạo Việt Nam. Sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa gây ra hụt hẫng nghiêm trọng trong hình dung về thế giới của họ. Nhìn thế giới qua lăng kính ?o2 phe, 4 mâu thuẫn? nhiều người trong số họ lo sợ rằng sau Đông Âu sẽ đến lượt Việt Nam, cảm nhận mối nguy hiểm lớn nhất xuất phát từ Mỹ, coi liên minh giữa các chế độ xã hội chủ nghĩa còn lại là yêu cầu khách quan của tình thế. Yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đối với họ trở nên cấp bách hơn yêu cầu phát triển, hiện đại hóa. Hai yêu cầu này tự chúng không mâu thuẫn với nhau. Song đặt trong hoàn cảnh thực tế, muốn phát triển, hiện đại hóa thì phải cộng tác với các trung tâm kinh tế và khoa học hiện đều do các nước tư bản phương Tây nắm, yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trở nên mâu thuẫn với yêu cầu phát triển, hiện đại hóa.
    Do người lãnh đạo cao nhất trong thời kỳ 1990-91 nhiệt tâm theo đuổi mục tiêu đại chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh toàn cầu với chủ nghĩa tư bản/đế quốc, mặc dù Bộ Chính trị bất đồng về đánh giá tình hình quốc tế cũng như phương hướng đối ngoại, động cơ đại chiến lược này đã chi phối Việt Nam trong quá trình ?obình thường hóa? quan hệ với Trung Quốc cũng như trong việc tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 10/4/1990: ?oViệt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau ? Một Campuchia thân thiện với Trung Quốc, thân thiện với Việt Nam là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho Campuchia ? Không để Liên Hợp Quốc nhúng tay vào vì Liên Hợp Quốc là Mỹ, Thái Lan là Mỹ? (Trần Quang Cơ 2003: 33).
  7. dycacyce

    dycacyce Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/07/2008
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    1
    Hai đại chiến lược, hai thế giới quan (tt)
    Cùng một chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nhưng mỗi đại chiến lược có một động cơ khác nhau. Chiến lược lớn thứ nhất xuất phát từ động cơ ?ođoàn kết với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc?. Chiến lược lớn thứ hai xuất phát từ động cơ ?ođa phương hóa quan hệ, phá thế bị bao vây?. Quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trong các năm 1990-91, về lý thì là ?othực hiện Nghị quyết 13 Bộ Chính trị? nhưng thực chất không phải nhằm đa phương hóa, tạo thế cân bằng giữa các nước lớn, như tinh thần của những người dự thảo Nghị quyết 13, mà động cơ thực sự, như Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh giải thích cho lãnh đạo Campuchia về cuộc gặp cấp cao Việt-Trung ở Thành Đô, là: ?Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc? (Trần Quang Cơ 2003: 51).
    Mặc dù Trung Quốc nhiều lần nói thẳng với Việt Nam là họ không chấp nhận ?ogiải pháp đỏ? ở Campuchia cũng như không thể bắt tay với Việt Nam theo kiểu hai nước xã hội chủ nghĩa liên minh lại chống Mỹ, và mặc dù trong Bộ Chính trị cũng đã có nhiều ý kiến rằng đại chiến lược của Trung Quốc là tranh thủ Mỹ và phương Tây để thực hiện ?obốn hiện đại hóa?, do đó không thể liên minh chiến lược với Việt Nam, song các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam vẫn hy vọng một ngày kia Trung Quốc sẽ ?ohiểu ra? mà bắt tay với Việt Nam chống Mỹ (Trần Quang Cơ 2001/2003). Trong cuộc gặp cấp cao Việt-Trung 5-10/11/1991 hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ, Việt Nam lại đề nghị Trung Quốc ?ođoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc?, song Trung Quốc đã khẳng định hai bên là ?ođồng chí, không là đồng minh? (Thayer 1994). Cho đến tận cuối những năm 1990, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu vẫn tiếp tục đề nghị Trung Quốc kết đồng minh bảo vệ chủ nghĩa xã hội và một lần nữa lại bị bác bỏ (N.S.P., ?oThư Hà Nội?, Diễn Đàn, số 104, tháng 2/2001).
    Vậy tại sao vẫn kéo dài tình trạng ?olưỡng giáo đồng nguyên? mà không hợp được hai mục tiêu vào làm một, chẳng hạn như mô hình Trung Quốc? Có thể do nhiều nguyên nhân tác động rất phức tạp với nhau. Cũng có thể vì những lý do rất giản dị như thói quen, nếp nghĩ, niềm tin của một số người rất có thế lực v.v. Bài viết này chỉ nêu một giả thuyết có tính gợi ý. Thứ nhất, như trên đã phân tích, mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và chống bá quyền của Trung Quốc khác mục tiêu bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc của Việt Nam về nội dung nên không thể lấy Trung Quốc làm gương. Mặt khác nếu hai đại chiến lược khác nhau cả về mục tiêu phấn đấu lẫn thế giới quan làm nền tảng thì không còn điểm chung nào để có thể hòa vào làm một. Thứ hai, vì cả hai đại chiến lược của Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh đều không tới, đều bất cập, nhưng mỗi cái cũng lại có điểm mạnh riêng, và điểm mạnh của chiến lược này lại là điểm yếu của chiến lược kia, cho nên cả hai đứng riêng bổ xung cho nhau thì dễ mà cái này đồng hóa cái kia thì khó, và cũng chưa tìm ra được cái nào khác thay thế, cho nên cứ nhùng nhằng ?olưỡng giáo đồng nguyên?.
    Đại chiến lược chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh Việt-Trung cùng phe chống Mỹ, cũng như khi xưa, cả hai cùng là ?ovăn minh? chống lại ?oman di?, thì nay, cùng ?oxã hội chủ nghĩa? (hiểu: tiến bộ) chống ?otư bản đế quốc? (hiểu: *********). Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải liên minh với cường quốc xã hội chủ nghĩa lớn nhất. Nhưng không gặp thời cơ vì muộn nhất là từ 1978, Trung Quốc đã không còn coi Việt Nam cùng phe, đồng thời luôn đặt yêu cầu hợp tác với Mỹ lên trên yêu cầu chống Mỹ. Vì thế điểm mấu chốt của chiến lược này không thực thi được.
    Đại chiến lược phát triển, hiện đại hóa nhấn mạnh hội nhập, hợp tác với phương Tây, giữ thế cân bằng giữa các cường quốc. Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán phát triển, hiện đại hóa đòi hỏi phải có hòa bình, phải tranh thủ được các nước phát triển nhất. Nhìn chung, chiến lược này là hợp thời vì nó phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và việc tạo thế cân bằng giữa các cường quốc (chủ yếu là giữa Trung Quốc và Mỹ) có thể coi là khả thi trong điều kiện quan hệ các nước lớn đang ở giai đoạn hòa hoãn. Vậy thì điểm yếu của chiến lược ?ohiện đại hóa? và cũng là điểm mạnh của chiến lược ?ochống đế quốc? nằm ở đâu? Ở đây thử nêu giả thuyết là chiến lược ?obảo vệ chủ nghĩa xã hội? có thể đáp ứng tốt hơn chiến lược ?ohiện đại hóa? về hai nhu cầu: hãnh diện và an toàn.
    Chiến lược ?ohiện đại hóa? nhận Việt Nam là nước nhỏ, chịu sự chi phối của quan hệ nước lớn, không đóng vai trò gì quan trọng trên trường quốc tế. Nó đề ra mục tiêu phấn đấu là ?ohóa rồng? như các nước công nghiệp hóa ở Đông Á nhưng không nêu cụ thể hơn. Hóa thành rồng gì? Rồng đầu đàn hay rồng cuối đàn, rồng to hay rồng nhỏ? Nếu chỉ hóa rồng chung chung thì đó mới chỉ là một nửa mong ước của người Việt Nam. Tâm lý Việt Nam thích ?ota phải nhất?, không thích làm kẻ ?othường thường bậc trung?, càng không thích làm kẻ ?ovô danh tốt tiểu?. Tuy vẫn quen ?oluồn lách? nhưng vẫn thích được tiếng là ?omũi nhọn?, ?otiền đồn?.
    Mặt khác, nếu Việt Nam muốn hóa rồng thì phải chọn lựa: 1) hoặc là phải bỏ hệ ý thức vô sản để có thể theo mô hình Đông Á, 2) hoặc vẫn giữ hệ ý thức đó và một mình làm chuyện vô tiền khoáng hậu, 3) hoặc theo sau Trung Quốc, họ đi đâu mình theo đó. Quá trình đổi mới của Việt Nam đã không theo lựa chọn 1. Hiện còn quá sớm để kết luận liệu Việt Nam theo hướng 2 hay hướng 3. Vì nếu đi theo Trung Quốc, Việt Nam rồi cũng sẽ phải từ bỏ ý thức hệ vô sản, phải chấp nhận tư sản, cả trong Hiến pháp lẫn trong Đảng. Có thể Việt Nam còn đang chờ xem, nếu Trung Quốc thành công thì sẽ làm theo. Dù thế nào, việc không chọn hướng 1 mà chọn hướng 2 hoặc 3 có nghĩa rằng nhu cầu an toàn là rất lớn đối với Việt Nam. Thậm chí, trong mắt một số người, hướng thứ ba còn cho sự an toàn kép: cứ để Trung Quốc nghĩ hộ và làm trước, chờ họ thành công mình sẽ làm theo, thêm nữa, bắt chước Trung Quốc sẽ làm Trung Quốc vừa lòng (Điều sau này không hẳn đã đúng). Tuy theo hướng này cũng có rủi ro. Như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có lần nói: ?oNếu Trung Quốc thành công, chúng tôi sẽ thành công. Nếu Trung Quốc thất bại, chúng tôi sẽ thất bại? (Nayan Chanda, ?oFriend of Foe??, Far Eastern Economic Review, 22/6/2000, tr. 32).
    Sau 11/9/2001, thời kỳ chuyển tiếp ?ohậu Chiến tranh Lạnh? kết thúc, tất cả các nước lớn đều điều chỉnh lại chiến lược của mình. Hay nói đúng hơn, thời kỳ nhì nhằng chiến lược sau CTL đã chấm dứt, các nước lớn đã rõ hơn về đường hướng và mục tiêu đại chiến lược của mình. Liệu Việt Nam có thể đóng vai trò gì trong mô hình trật tự thế giới mới của Mỹ và Trung Quốc? Đây sẽ là một câu hỏi quyết định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trích từ bài của hitnrun viết lúc 00:59 ngày 31/05/2009:
    --------------------------------------------------------------------------------
    Tớ ghóp ý thế này:
    1. Bài viết nếu của bạn thì nên ghi nguồn tham khảo, để xem bạn đọc dựa vào đâu, hay bạn tự nghĩ.
    2. Bài của người khác thì ghi nguồn.
    3. cái đoạn trích này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần, nhưng các tác giả không ghi dựa vào nguồn tài liệu nào??????
    Nhưng tớ đọc "Red Brotherhood at war" thì điều trên sai sự thật, có gì phản bác không!???

    ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    Bạn hít and run nói không phải là không có lý vì toppíc này là "ứng xử và khả năng chiến tranh của TQ và các nước ĐNÁ xung quanh vấn đề Biển Đông" mà bạn dycacyce đưa cả hoà ước Westfalen của chiến tranh tôn giáo ở châu Âu vào thì miên man quá. Tuy vậy nếu chủ topíc và Mod không có ý kiến gì thì cứ để bạn dycacyce tiếp tục từ góc độ đại chiến lược của bạn ấy
  9. dycacyce

    dycacyce Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/07/2008
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    1
    Lịch sử quan hệ Việt-Trung
    nhìn từ góc độ đại chiến lược

    Kết luận
    Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm lịch sử của nó đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Có lúc Việt Nam là quận huyện của Trung Quốc mà cũng có lúc Việt Nam lại thuộc về Pháp, lấn lướt được Trung Hoa. Có lúc Việt Nam chịu thần phục Trung Quốc nhưng có lúc lại liên minh với Liên Xô để đối đầu lại Trung Hoa. Mỗi giai đoạn như vậy, trong nội bộ Việt Nam cũng như Trung Quốc đều có các quan điểm khác nhau. Phía Việt Nam có phe nhấn mạnh điểm đồng và có phe nhấn mạnh điểm dị. Phía Trung Quốc có phái coi Việt Nam như kẻ trong nhưng cũng có phái xem Việt Nam như người ngoài.
    Tuy nhiên, xuyên suốt gần 22 thế kỷ, tương quan vị thế giữa Việt và Trung vẫn mang một hằng số. Quan hệ Việt-Trung có thể ví như quan hệ giữa một người và một con chip (micro- processor) gắn vào thân thể người đó:
    không rời nhau được, nhưng lại
    không đồng hóa được nhau, nhất là
    không bao giờ cùng đẳng cấp,
    và nhiều đặc điểm khác.
    Xuyên suốt gần 22 thế kỷ, cái nhìn của Trung Quốc về Việt Nam giống như cái nhìn của một người về con chip gắn vào thân thể người đó. Cái nhìn của Việt Nam về Trung Quốc giống như cái nhìn của con chip về cơ thể mà nó gắn vào.
  10. NSThinking

    NSThinking Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/03/2004
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    --------------------------------------------------------------------------------
    Khả năng, các cú đánh phủ đầu liên hoàn China vào các lực lượng phòng thủ Trường Sa mở đầu cho cuộc chiến high-tech thế kỷ 21 sẽ bắt đầu khác với các cuộc chiến tranh quy ước từ trước tới nay:
    1. Trước tiên, mở màn là cú đánh làm ?omù? vệ tinh Vinasat 1 và các hệ thống vệ tinh khác trong vùng biển Đông khu vực tranh chấp.
    2. Song song đó, lần đầu tiên bom xung kích từ trường (bom ViBa) được sử dụng phóng từ tầu chiến hoặc tên lửa tầm xa sẽ phá hủy và làm tê liệt tất cả các hệ thống điện tử (thông tin liên lạc, máy tính điều khiển, máy móc khí tài?) của hạm đội phòng thủ trên biển, tầu ngầm dưới nước và các vũ khí khí tài trên các đảo trên bán kính khoảng 50-70 km quanh khu vực trọng điểm.
    Tín hiệu bất thường trước cuộc tiến công có thể nhận thấy, khi các hạm đội China ?" như từ trước tới nay luôn gầm ghè và bám sát các hạm đội phòng thủ đảo ?" bỗng nhiên lùi xa hẳn khu vực sẽ nổ ra tranh chấp trong bán kính rộng. Điều này ví như tín hiệu cảnh báo sóng thần, khi nước biển đột ngột rút ra ngoài xa trước khi sóng thần tràn lên đất liền.
    3. Sau đó, khi hệ thống phòng thủ trên biển và trên đảo sử dụng high-tech (ra-đa, hệ thống phòng không, tên lửa, điện đài?) bị tiêu diệt và cô lập hoàn toàn với đất liền, đòn tấn công tổng lực thông thường sẽ diễn ra và số phận quần đảo Trường Sa, với các vũ khí phòng thủ thông thường, không thể trụ vững lâu dài được.
    Lợi dụng yếu tố bất ngờ trong cuộc chiến giới hạn trên biển, China nhiều cơ hội giành phần thắng nhanh gọn. Cơ hội này sẽ tăng lên, nếu họ cũng tấn công bất ngờ như vậy vào các quân cảng, sân bay, hệ thống phòng thủ bờ biển? của ta. Khả năng này ko cao, vì nó khơi mào cho một cuộc chiến tranh tổng lực, điều mà China chưa muốn mạo hiểm thởi điểm này?.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    >>>Vàng 01: Vinasat không phải là vệ tinh QS http://vi.wikipedia.org/wiki/Vinasat-1
    => Đúng, nhưng là phương tiện liên lạc với đất liền. Mục đích China là phải làm nhiễu, cô lập toàn bộ các phương tiện (gây nhiễu cả các hệ thống vệ tinh khác Mỹ, Nga... trong khu vực tranh chấp) thông tin liên lạc của ta.
    >>>Vàng 02: Bom xung điện từ trường phóng từ tầu chiến he he ( tầu phóng bom cái này mình mới nghe thấy đấy nha) và BC đã cọppy được tên lửa hành trinh Tomahow rồi?, cái này bạn phải nói rõ hơn là làm cách nào để BC có thể mà tê liệt được vũ khí của đối phương trong bán kính 70 km xung quanh đảo TS, mà các tầu phóng tiễn của ta có mang được các tên lửa có tầm bắn hơn 70 km
    Vàng 03: Mình không hiểu BC sẽ tiêu diệt hệ thống này của ta (ra-đa, hệ thống phòng không, tên lửa, điện đài?)ntn? cụ thể dùng vũ khí loại gì, bắn từ cái gì, dẫn bắn ntn ( túm lại là cơ sơ khoa học)?
    => Thực ra, đây là loại vũ khí tối hậu trong các trận chiến Anti-Hightech tương lai và quyết định cục diện chiến trường. Loại này đã sử dụng trong chiến tranh Iraq lần II và chiến tranh Nam Tư. Bom xung từ với cường độ cực mạnh trong vài giây phá hoại tất cả các hệ thống điện, máy tính... (thậm chí kích nổ các vi mạch trong các hệ thống vũ khí...).
    Còn lắp trên tên lửa (DF-1, DF-2 có tầm bắn 500-1500 km), máy bay, tàu chiến, tàu ngầm.. thì chỉ đơn thuần là vấn đề kỹ thuật, không khó với China.
    >>>Vàng 04: Có phải ở trong tiểu thuyết đòn rồng hoặc mấy kịch bản trong diễn đàn Sino không bạn. Nếu với trang bị của BC bây giờ mà bạn lập được kế hoạch khả thi như thế này thì Quân đội Giải phóng quân BC sẽ mời bạn làm Tổng TM trưởng.
    => Không hề dính dáng đến các kịch bản này mà dựa trên kinh nghiệm các cuộc chiến đã xảy ra. Anti-Hightech trong kỷ nguyên Hightech là tư tưởng chỉ đạo chiến tranh nên Việt Nam cần tỉnh táo, sử dụng song song các phương tiện thô sơ như điện thoại hữu tuyến, chim bồ câu đưa thư (hê hê)... cho trường hợp cần thiết.
    Trong cuộc xung đột quy ước, hạn chế trên biển Đông thì những đòn chiến thuật như trên là khả năng cao nhất mà China tính đến. Họ cần đánh bất ngờ, bao vây cô lập quần đảo và tiêu diệt gọn nên ko dám để cuộc chiến kéo dài.
    Tôi tự đặt mình vào vị trí China (Tổng Tham mưu trưởng hêhê..) để xem họ có khả năng gì và phải làm thế nào thôi!
    >>>Túm lại ta phải đánh giá đúng sức mạnh của đối phương trên cơ sở khoa học quân sự, không nên đánh giá họ quá thấp để bị mất cảnh giác - bị bất ngờ, cũng không nên đánh giá quá cao để biến sức mạnh của họ thành huyền thoại
    => Với khả năng thực lực của họ khi đã có vũ khí hạt nhân và vũ khí bắn hạ vệ tinh, theo tôi, không phải điều mới mẻ. Xung đột với China lần này không còn như các cuộc xung đột 1979, 1984-1989 nữa nên chúng ta phải "refresch F5" mình.
    Nên nhớ, chiến trường thế kỷ 21quyết định bởi vũ khí Higtech-Nano và Anti-Hightech-Nano (Super-Mini UAV, Sateliite và Sub-Marine... ).
    Tôi phải trao đổi công khai với các bạn những điều này để không cho họ cơ hội lập được huyền thoại với chúng ta!
    -------------------------------------------------------------------------------------------

    " Không để Tổ Quốc bị bất ngờ "
    Được nsthinking sửa chữa / chuyển vào 12:00 ngày 01/06/2009
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này