1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cùng tìm hiểu về Hà Nội xưa và nay

Chủ đề trong 'Public Hà Nội' bởi GodFatherHN, 07/02/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hltangoc

    hltangoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Bánh cuốn​
    ]
    Có ai ở Hải Phòng, Nam Định, Thanh Nghệ chẳng hạn, về Hà Nội, mà đã có lần được thưởng thức món bánh cuốn Thanh Trì Zn với đậu rán sốt, tất còn lâu lắm mới có thể quên được món quà đặc biệt Hà Nội đó.
    Khắp các nẻo đường, người ta vẫn được thấy những người đàn bà mặc áo nâu dài, đội cái món quà đó đi bán từ lúc trời vừa hừng sáng.
    Cơ nghiệp của họ không có gì: một cái thúng đội đầu, trên có đậy một cái mẹt. Anh gọi, người bán hàng hạ thúng ở trên đầu xuống. Anh nhìn vào sẽ cũng chẳng thấy gì lạ hơn: một chai nước mắm, một chai giấm, một chén ớt, dZm cái chén, cái đĩa và mươi đôi đũa.
    Thế thôi, nhưng thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi, anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ đi, nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ... nhớ quá, nhớ khôn nguôi!
    Hồi còn tạm lánh ở một làng vắng vẻ Khu Ba, có những buổi sáng êm trời, tôi vẫn vọng phía Thanh Trì nghĩ đến những hàng bánh cuốn đó và thấy thèm như thèm một hương yêu.
    Nỗi "sầu Hà Nội" làm cho lòng người ta rã rời, se sắt. Lúc đó, mặc hết cả, người ta chỉ còn biết cầm lấy cái gậy mà đi ngay, đi đến bất cứ chợ quê nào cũng được, miễn là có hàng bánh cuốn để ngồi sà xuống một cái ghế nào đó, Zn một đĩa bánh xem có thể vơi được phần nào sự thèm khát miếng ngon Hà Nội không.
    Không tài nào vơi được. Tôi đã đi nhiều chợ quê, Zn thử hết các mặt bánh cuốn, nhưng hoặc là bánh tráng dày quá, hoặc là bột xay nồng quá, hoặc là hành mỡ gia thô quá nên bánh nào cũng vậy chỉ làm cho tôi nhớ hơn thứ bánh cuốn Thanh Trì.
    Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm vào thì thanh nhẹ, mát rượi đi. ở trong thúng, bánh được xếp thành lớp kiểu như bực thang, trên những lá chuối xanh trong màu ngọc thạch, sắc trắng của bánh nổi bật lên nhưng nổi bật lên một cách hiền lành.
    Ngay từ lúc trông thấy bàn tay người bán bánh bóc từng chiếc một, rồi cuộn lại một cách lơ là, bày trên những chiếc đĩa khiêm nhường, ta đã thấy yêu ngay những cái bánh óng ả, mềm mại đó rồi. Có khi đương cầm đũa, ta muốn bỏ ngay ra để lấy ngón tay nhón từng chiếc bánh đưa lên cho khẽ chạm lấy môi ta như kiểu một cái hôn yêu trong buổi trao duyên thứ nhất.
    Bánh thơm dìu dịu, êm êm. Cầm một chiếc, dầm vào trong chén nước chấm rồi đưa lên miệng, ta sẽ thấy cả một sự tiết tấu nhịp nhàng của bánh thơm dịu hoà với nước chấm dịu hiền, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá.
    Vì thế, nhiều người Zn bánh chuyên chú nhất về nước chấm rồi mới xem đến bánh có mỏng và óng mượt không. Đương Zn ngon, mà gần hết, thiếu đi mất một tí nước mắm, phải pha lấy ở nhà, có thể coi như là hỏng một bữa quà.
    Để làm nổi hẳn vị của nước chấm lên, người hàng bánh thường gia thêm vào chai nước chấm một hai con cà cuống bZm nhỏ, nó đem đến cho ta một cái thú đậm đà hơn là cái thú cà cuống nước bán từng ve nhỏ ở các hiệu bán đồ nấu phố Hàng Đường.
    Ai muốn Zn nước mắm không giấm, nhưng vắt chanh xin tuỳ ý. ớt, lấy cay lắm hay vừa, cứ việc theo sở thích của từng người.
    Ta chấm chiếc bánh trắng vào trong chén nước chấm màu hổ phách, đưa lên miệng và chưa nhai đã tưởng như bánh "chưa đến môi đã trôi đến cổ" mất rồi....
    Cái ngon của nó dịu hiền, óng mướt, nhưng đối với một số người thì có lẽ như thế hơi có ý "thanh nhã" quá nên người ta thỉnh thoảng đã điểm vào một miếng thịt quay ba chỉ, bì giòn tan. Một thứ thì mềm mà thanh, một thứ thì nục nạc mà lại giòn, tạo ra một "mâu thuẫn" cũng hơi là lạ.
    Nhưng Zn bánh cuốn Thanh Trì, không gì trác tuyệt hơn là điểm vào mấy miếng đậu thật nóng, rán thật phồng trông óng ả óng ánh như kim nhũ.
    Chẳng hiểu bây giờ ở Thanh Nghệ, Nam Định, Hải Phòng đã có ai làm được đậu phụ ngon chưa, chớ vào khoảng mười lZm nZm trở lại đây thì cái thứ đậu phụ rán thật phồng, Zn bùi mà không chua, quả là một thức Zn đặc biệt Hà Nội, không nơi nào làm được.
    ấy là vì nhà tôi trông sang phố Hàng Hòm, mà ở đầu phố Hàng Hòm thời đó có một hàng cơm chuyên rán đậu thật sớm để bán cho những người Zn bánh cuốn Thanh Trì.
    Củi trong lò nhóm to, mỡ đầy lòng chảo hò reo lách tách. Một người đàn bà ngồi trong bóng tối lấy đũa vớt những cái đậu rán đã già rồi đập đập vào bên thành chảo mấy cái, đặt lên hai thanh tre bắc ngang chảo để cho mỡ rỏ xuống cho kỳ hết. Nhưng có bao giờ đậu để được lâu đâu: mẻ này chưa xong thì đã có người đến mua mẻ khác rồi. Quang cảnh vừa ấm nóng mà lại vừa yên vui đáo để.
    Hàng đậu rán ấy bây giờ không còn nữa. Cùng với cửa hàng đó, cái thứ đậu thái dài bằng ngón tay cũng không còn. Bây giờ, ở các chợ cũng có người bắc chảo rán đậu để bán, nhưng đậu thái một kiểu khác, to bản hơn mà cũng có vẻ dày hơn xưa, tuy vậy Zn với bánh cuốn hãy còn ngon lắm.
    Cái thú này là phải Zn hết đến đâu thì lại bưng thêm lên đến đấy. Như thế, đậu nóng hổi mà lại giòn. Ǎn bánh cuốn cần phải thế; trong cái giòn của vỏ đậu lại có mềm của lòng đậu thành thử lúc nhai, cái nóng hoà hợp với cái mát, cái giòn hoà hợp với cái mềm, tạo thành một cái gì vừa dẻo, tiết tấu như bản nhạc nhè nhẹ, trầm trầm.
    Ngoài bánh cuốn Thanh Trì ra, còn có nhiều bánh cuốn khác, mỗi thứ có một vị khác nhau. Bánh cuốn nhân mộc nhĩ, thường bán gánh, dày mình mà Zn vào hơi thô, nhưng nhai sậm sựt cũng có một cái hay riêng.
    Thứ bánh cuốn trong có chiên một ít hành tai tái, Zn hôi mà mất vẻ thanh. Đáng kể hơn là thứ bánh cuốn nhân thịt hiện nay bán nhiều ở cái nẻo đường, trong những gian nhà thấp bé, tối tZm: một người con gái nhà nghèo ngồi bên cạnh một hai nồi nước nóng, trên có cZng một mảnh vải phin mỏng, múc từng thìa bột xay sẵn, tãi ra trên vải, rồi tra nhân vào bánh, cuộn lại rồi hấp lên.
    Nhân thứ bánh này làm bằng thịt lợn bZm nhỏ, gia hành với một chút mộc nhĩ vào.
    Bánh làm xong, người ta phết một chút mỡ rồi rắc một ít ruốc tôm lên mặt bánh.
    Bánh này Zn nóng, bùi, ngẫm nghĩ thì cũng có một cái ngon riêng, nhưng chóng chán. Có lẽ cũng vì thế mà người ta luôn luôn tìm cách đổi vị đi: ai thích lạp xường thì có thứ nhân lạp xường, ai thích thịt gà thì có nhân thịt gà - và có nhà treo biển ở cửa gọi thế là "bánh cuốn nhân cải cách"! Buổi sáng mùa thu, đi qua một hàng bánh cuốn "cải cánh" đó, thấy khói toả nghi ngút từ nồi nước hấp bánh lên như phủ những cái bánh đã hấp rồi trong một lớp the mơ hồ, khách đi đường cũng thấy nở lên một cái thú dùng thử dZm ba chiếc.
    Ǎn vào đến đâu, ấm ngay lòng đến đấy. Thú hơn một bực là mình được ngồi ngay đầu quán mà Zn, được chiếc nào, Zn chiếc đó, thiếu nước chấm thì gọi lấy thêm ngay.
    Thường thường, bánh cuốn nhân thịt vẫn bán vào buổi sáng, nhưng ban đêm những cửa hàng bánh cuốn đó mở cửa để bán cho khách chơi đêm.
    Trong những cửa hàng này, được nói đến nhiều nhất là hàng bánh "bà hai Tàu" ở chợ Hôm. Đó là một gian hàng bé nhỏ và tiều tuỵ, ngoài bán đồ thiếc, ngổn ngang những tấm tôn kêu loảng xoảng. Hàng bánh cuốn dọn ở bên trong.
    Một cái bàn con để người bán hàng bày những cái bát nhân và cạnh đấy, một cái bàn khác và bốn cái ghế tồi để cho khách ngồi: đó là tất cả cửa hàng. Nếu ông là người thấy khung cảnh đẹp mà xơi quà mới ngon miệng, xin đừng vào! Người khách vào Zn ở đây bình dân lắm, nhất là phải biết chờ đợi, chứ vào mà muốn Zn ngay, không được.
    Bà hai Tàu bán một ngày hai buổi bánh: buổi sớm từ sáu, bảy đến mười giờ, và buổi tối từ chín, mười giờ đến một giờ khuya. Thường thường, cả hai buổi đó đều đông đảo khách Zn, phần đông là những người cầm bát đĩa đến mua về nhà, ai đến trước mua trước, ai đến sau mua sau, có khi phải sắp hàng, thành thử có khi mười giờ mình đến trông thấy người ta mua về kìn kìn, mà mình cứ phải ngồi đợi thèm nhỏ nước miếng, bực không thể nào chịu được.
    Đặc điểm của bánh cuốn ở đây là bột bánh nhỏ mà mịn - áng chừng là gạo dùng để xay thành bột được nhà hàng chọn toàn thứ gié cánh, tám thơm.
    Ngoài ra, nhân bánh cũng khác các hàng khác, hoặc thịt lợn mông, hoặc thịt gà, còn nước chấm thì cũng tạm vậy, không có gì đặc biệt.
    Thích dùng bánh cuốn nhân, mà thật là muốn chìu vị giác, người ta cần phải hơi cầu kỳ một chút: xuống phố Lê Lợi, tìm đến một hiệu riêng - hiệu Ninh Thịnh - chuyên bán mấy thứ quà Việt Nam: bánh cuốn, xôi vò, chè đường. Ǎn ở đây, người ta có cảm tưởng Zn quà ở ngay chính nhà mình. Một phòng khách kê cái sập, bộ xa lông; tường vẽ hoa xanh đỏ; đây đó, một vài bức vẽ ***g trong khung kính. ở ngoài, không có cửa hàng. Ông bà biết thì vào dùng thử mấy món quà, chớ không có bày bán hay kêu la ầm ĩ.
    Bánh cuốn ở nhà này đặc biệt về điểm nhân thịt nhưng không Zn nóng, mà Zn nguội. Hình dáng cũng khác hẳn mọi nơi: không tròn, không to, cũng không phải hình chữ nhật, nhưng vừa xinh, dài khoảng một ngón tay cái, mặt bánh muôn muốt, nhân không nhiều, nhưng thơm ngon mà thỉnh thoảng nhai lại giòn.
    Vì là thứ quà Zn nguội, nên nhà không có lò tráng, mà cũng chẳng có nồi nước sôi hấp bánh. Bánh làm sẵn từ buổi sáng, có khách đến, cứ việc xếp đem ra. Nước mắm thì pha giấm hay chanh, tuỳ ý, cà cuống nước để ngoài, ai muốn gia ít hay nhiều đều được.
    Thứ bánh này Zn dẻo mà mát, nên hợp với buổi trưa trong ngày, những ông nào nhàn rỗi, nghỉ trưa xong đi chơi dZm ba bước trong một trời gió phây phây rồi tà tà đi vào thưởng thức dZm ba chiếc, rõ thực là thần tiên đấy.
    Ǎn từ từ, nhấm nháp thôi, đừng vội, và ông sẽ thấy bột bánh mướt đáo để, mà nhân bánh thì tinh vi, tương tự phong vị nhân bánh bẻ. Thứ bánh này không có ruốc tôm bày ở trên, Zn không chóng ngấy, nhưng nếu ông thích đậm miệng hơn một chút thì vẫn có thể điểm vào đó một hai chiếc chả lợn của một cửa hàng gần đấy, đã nục lại không pha bột, rán cứ vàng ửng lên như da đồng.
    Không hiểu đối với các khách khác ra sao, cứ riêng tôi thấy thì thứ bánh nguội này dễ Zn hơn bánh khác.
    Những khi đi thưởng thức bánh này, tôi thường nhớ lại một quãng thời gian đã qua rồi, khoảng ba mươi nhZm, ba mươi sáu nZm nay. Cứ vào khoảng hai ba giờ chiều, có một bà cụ đội một thúng bánh cuốn nhân thịt đến bán cho những nhà Zn quen ở phố tôi - một phố xưa cũ có bán những pho kinh đóng bằng bìa cậy và những truyện Kiều Cung oán chữ nôm in mộc bản, bày bán trên những giàn sách bằng tre. Bà cụ ấy già lắm, lưng lại còng, đội thúng bánh đi bán, trông lại càng cóng quá.
    Vì thế người ta gọi cụ là "cụ Còng" và bánh cuốn của cụ - độc nhất trong hồi đó - là bánh cuốn cụ Còng - chớ chẳng gọi là bánh cuốn nhân thịt, nhân tôm gì hết!
    Bây giờ, mỗi khi ngồi thưởng thức thứ bánh cuốn Ninh Thịnh, nhai nhè nhẹ rồi ngồi mà suy nghĩ, tôi lại tưởng thấy lại ở đầu lưỡi cái dư vị bánh cuốn cụ Còng - Zn cứ êm lừ: nhân làm thanh cảnh, mà lại chấm với nước mắm ô long hảo hạng, chết thật! ngon đến thế là cùng...
    Tức một nỗi là cái ngon đó nó thoang thoảng như da thịt của người đàn bà đẹp vừa gội đầu bằng nước nấu lá mùi; người ta mang mang tự hỏi không biết mùi thơm đó từ đâu ra, từ hương nước mắm hay từ da thịt? Hương đó thoảng qua, rồi mất đi, rồi hiện lại, không ai còn biết lấy gì làm chuẩn đích để níu cái hương đó lại và phân tách xem sao. Cũng thế, hương vị thứ bánh cuốn cụ Còng cũng thoang thoảng như vậy, không thể lấy riêng một món nào để làm tiêu chuẩn cho sự ngon lành.
    Có lẽ tất cả bánh, nước chấm và nhân cùng hoà hợp lại mà tạo ra một cái ngon "toàn diện", chớ không phải riêng bột ngon hay là nhân ngon.
    Mọi thứ đều tiết tấu như thế, người Zn bánh, nếu gia nhiều ớt quá vào nước chấm, có thể làm hại cho sự quân bình của cái ngon. Vì thế, bà cụ Còng không thích để cho khách hàng pha lấy nước chấm và hễ thấy ai gia nhiều ớt quá thì cụ ngZn tay lại.
    Ba mươi mấy nZm đã qua rồi, bà cụ Còng nay đã chết, nhưng bánh cuốn của cụ, tôi lại thấy hiện ra ở trong bánh của nhà Ninh Thịnh, tuy rằng hình dáng có khác nhau chút ít - một thứ gói tròn và một thứ gói vuông.
    Có lẽ cách làm của hai thứ bánh này cũng chẳng khác nhau mấy tí; nhưng không hiểu tại bột, tại thịt hay tại nấm hương, mộc nhĩ bây giờ không được bằng thời trước, hay chỉ tại người mình cùng với ngày tháng có suy đi, mà tôi không thể nào thấy cái thèm muốn Zn cả một thúng hàng trZm cái bánh như ngày trước nữa.
    Vũ Bằng[/right
  2. hltangoc

    hltangoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Bánh cuốn​
    ]
    Có ai ở Hải Phòng, Nam Định, Thanh Nghệ chẳng hạn, về Hà Nội, mà đã có lần được thưởng thức món bánh cuốn Thanh Trì Zn với đậu rán sốt, tất còn lâu lắm mới có thể quên được món quà đặc biệt Hà Nội đó.
    Khắp các nẻo đường, người ta vẫn được thấy những người đàn bà mặc áo nâu dài, đội cái món quà đó đi bán từ lúc trời vừa hừng sáng.
    Cơ nghiệp của họ không có gì: một cái thúng đội đầu, trên có đậy một cái mẹt. Anh gọi, người bán hàng hạ thúng ở trên đầu xuống. Anh nhìn vào sẽ cũng chẳng thấy gì lạ hơn: một chai nước mắm, một chai giấm, một chén ớt, dZm cái chén, cái đĩa và mươi đôi đũa.
    Thế thôi, nhưng thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi, anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ đi, nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ... nhớ quá, nhớ khôn nguôi!
    Hồi còn tạm lánh ở một làng vắng vẻ Khu Ba, có những buổi sáng êm trời, tôi vẫn vọng phía Thanh Trì nghĩ đến những hàng bánh cuốn đó và thấy thèm như thèm một hương yêu.
    Nỗi "sầu Hà Nội" làm cho lòng người ta rã rời, se sắt. Lúc đó, mặc hết cả, người ta chỉ còn biết cầm lấy cái gậy mà đi ngay, đi đến bất cứ chợ quê nào cũng được, miễn là có hàng bánh cuốn để ngồi sà xuống một cái ghế nào đó, Zn một đĩa bánh xem có thể vơi được phần nào sự thèm khát miếng ngon Hà Nội không.
    Không tài nào vơi được. Tôi đã đi nhiều chợ quê, Zn thử hết các mặt bánh cuốn, nhưng hoặc là bánh tráng dày quá, hoặc là bột xay nồng quá, hoặc là hành mỡ gia thô quá nên bánh nào cũng vậy chỉ làm cho tôi nhớ hơn thứ bánh cuốn Thanh Trì.
    Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm vào thì thanh nhẹ, mát rượi đi. ở trong thúng, bánh được xếp thành lớp kiểu như bực thang, trên những lá chuối xanh trong màu ngọc thạch, sắc trắng của bánh nổi bật lên nhưng nổi bật lên một cách hiền lành.
    Ngay từ lúc trông thấy bàn tay người bán bánh bóc từng chiếc một, rồi cuộn lại một cách lơ là, bày trên những chiếc đĩa khiêm nhường, ta đã thấy yêu ngay những cái bánh óng ả, mềm mại đó rồi. Có khi đương cầm đũa, ta muốn bỏ ngay ra để lấy ngón tay nhón từng chiếc bánh đưa lên cho khẽ chạm lấy môi ta như kiểu một cái hôn yêu trong buổi trao duyên thứ nhất.
    Bánh thơm dìu dịu, êm êm. Cầm một chiếc, dầm vào trong chén nước chấm rồi đưa lên miệng, ta sẽ thấy cả một sự tiết tấu nhịp nhàng của bánh thơm dịu hoà với nước chấm dịu hiền, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá.
    Vì thế, nhiều người Zn bánh chuyên chú nhất về nước chấm rồi mới xem đến bánh có mỏng và óng mượt không. Đương Zn ngon, mà gần hết, thiếu đi mất một tí nước mắm, phải pha lấy ở nhà, có thể coi như là hỏng một bữa quà.
    Để làm nổi hẳn vị của nước chấm lên, người hàng bánh thường gia thêm vào chai nước chấm một hai con cà cuống bZm nhỏ, nó đem đến cho ta một cái thú đậm đà hơn là cái thú cà cuống nước bán từng ve nhỏ ở các hiệu bán đồ nấu phố Hàng Đường.
    Ai muốn Zn nước mắm không giấm, nhưng vắt chanh xin tuỳ ý. ớt, lấy cay lắm hay vừa, cứ việc theo sở thích của từng người.
    Ta chấm chiếc bánh trắng vào trong chén nước chấm màu hổ phách, đưa lên miệng và chưa nhai đã tưởng như bánh "chưa đến môi đã trôi đến cổ" mất rồi....
    Cái ngon của nó dịu hiền, óng mướt, nhưng đối với một số người thì có lẽ như thế hơi có ý "thanh nhã" quá nên người ta thỉnh thoảng đã điểm vào một miếng thịt quay ba chỉ, bì giòn tan. Một thứ thì mềm mà thanh, một thứ thì nục nạc mà lại giòn, tạo ra một "mâu thuẫn" cũng hơi là lạ.
    Nhưng Zn bánh cuốn Thanh Trì, không gì trác tuyệt hơn là điểm vào mấy miếng đậu thật nóng, rán thật phồng trông óng ả óng ánh như kim nhũ.
    Chẳng hiểu bây giờ ở Thanh Nghệ, Nam Định, Hải Phòng đã có ai làm được đậu phụ ngon chưa, chớ vào khoảng mười lZm nZm trở lại đây thì cái thứ đậu phụ rán thật phồng, Zn bùi mà không chua, quả là một thức Zn đặc biệt Hà Nội, không nơi nào làm được.
    ấy là vì nhà tôi trông sang phố Hàng Hòm, mà ở đầu phố Hàng Hòm thời đó có một hàng cơm chuyên rán đậu thật sớm để bán cho những người Zn bánh cuốn Thanh Trì.
    Củi trong lò nhóm to, mỡ đầy lòng chảo hò reo lách tách. Một người đàn bà ngồi trong bóng tối lấy đũa vớt những cái đậu rán đã già rồi đập đập vào bên thành chảo mấy cái, đặt lên hai thanh tre bắc ngang chảo để cho mỡ rỏ xuống cho kỳ hết. Nhưng có bao giờ đậu để được lâu đâu: mẻ này chưa xong thì đã có người đến mua mẻ khác rồi. Quang cảnh vừa ấm nóng mà lại vừa yên vui đáo để.
    Hàng đậu rán ấy bây giờ không còn nữa. Cùng với cửa hàng đó, cái thứ đậu thái dài bằng ngón tay cũng không còn. Bây giờ, ở các chợ cũng có người bắc chảo rán đậu để bán, nhưng đậu thái một kiểu khác, to bản hơn mà cũng có vẻ dày hơn xưa, tuy vậy Zn với bánh cuốn hãy còn ngon lắm.
    Cái thú này là phải Zn hết đến đâu thì lại bưng thêm lên đến đấy. Như thế, đậu nóng hổi mà lại giòn. Ǎn bánh cuốn cần phải thế; trong cái giòn của vỏ đậu lại có mềm của lòng đậu thành thử lúc nhai, cái nóng hoà hợp với cái mát, cái giòn hoà hợp với cái mềm, tạo thành một cái gì vừa dẻo, tiết tấu như bản nhạc nhè nhẹ, trầm trầm.
    Ngoài bánh cuốn Thanh Trì ra, còn có nhiều bánh cuốn khác, mỗi thứ có một vị khác nhau. Bánh cuốn nhân mộc nhĩ, thường bán gánh, dày mình mà Zn vào hơi thô, nhưng nhai sậm sựt cũng có một cái hay riêng.
    Thứ bánh cuốn trong có chiên một ít hành tai tái, Zn hôi mà mất vẻ thanh. Đáng kể hơn là thứ bánh cuốn nhân thịt hiện nay bán nhiều ở cái nẻo đường, trong những gian nhà thấp bé, tối tZm: một người con gái nhà nghèo ngồi bên cạnh một hai nồi nước nóng, trên có cZng một mảnh vải phin mỏng, múc từng thìa bột xay sẵn, tãi ra trên vải, rồi tra nhân vào bánh, cuộn lại rồi hấp lên.
    Nhân thứ bánh này làm bằng thịt lợn bZm nhỏ, gia hành với một chút mộc nhĩ vào.
    Bánh làm xong, người ta phết một chút mỡ rồi rắc một ít ruốc tôm lên mặt bánh.
    Bánh này Zn nóng, bùi, ngẫm nghĩ thì cũng có một cái ngon riêng, nhưng chóng chán. Có lẽ cũng vì thế mà người ta luôn luôn tìm cách đổi vị đi: ai thích lạp xường thì có thứ nhân lạp xường, ai thích thịt gà thì có nhân thịt gà - và có nhà treo biển ở cửa gọi thế là "bánh cuốn nhân cải cách"! Buổi sáng mùa thu, đi qua một hàng bánh cuốn "cải cánh" đó, thấy khói toả nghi ngút từ nồi nước hấp bánh lên như phủ những cái bánh đã hấp rồi trong một lớp the mơ hồ, khách đi đường cũng thấy nở lên một cái thú dùng thử dZm ba chiếc.
    Ǎn vào đến đâu, ấm ngay lòng đến đấy. Thú hơn một bực là mình được ngồi ngay đầu quán mà Zn, được chiếc nào, Zn chiếc đó, thiếu nước chấm thì gọi lấy thêm ngay.
    Thường thường, bánh cuốn nhân thịt vẫn bán vào buổi sáng, nhưng ban đêm những cửa hàng bánh cuốn đó mở cửa để bán cho khách chơi đêm.
    Trong những cửa hàng này, được nói đến nhiều nhất là hàng bánh "bà hai Tàu" ở chợ Hôm. Đó là một gian hàng bé nhỏ và tiều tuỵ, ngoài bán đồ thiếc, ngổn ngang những tấm tôn kêu loảng xoảng. Hàng bánh cuốn dọn ở bên trong.
    Một cái bàn con để người bán hàng bày những cái bát nhân và cạnh đấy, một cái bàn khác và bốn cái ghế tồi để cho khách ngồi: đó là tất cả cửa hàng. Nếu ông là người thấy khung cảnh đẹp mà xơi quà mới ngon miệng, xin đừng vào! Người khách vào Zn ở đây bình dân lắm, nhất là phải biết chờ đợi, chứ vào mà muốn Zn ngay, không được.
    Bà hai Tàu bán một ngày hai buổi bánh: buổi sớm từ sáu, bảy đến mười giờ, và buổi tối từ chín, mười giờ đến một giờ khuya. Thường thường, cả hai buổi đó đều đông đảo khách Zn, phần đông là những người cầm bát đĩa đến mua về nhà, ai đến trước mua trước, ai đến sau mua sau, có khi phải sắp hàng, thành thử có khi mười giờ mình đến trông thấy người ta mua về kìn kìn, mà mình cứ phải ngồi đợi thèm nhỏ nước miếng, bực không thể nào chịu được.
    Đặc điểm của bánh cuốn ở đây là bột bánh nhỏ mà mịn - áng chừng là gạo dùng để xay thành bột được nhà hàng chọn toàn thứ gié cánh, tám thơm.
    Ngoài ra, nhân bánh cũng khác các hàng khác, hoặc thịt lợn mông, hoặc thịt gà, còn nước chấm thì cũng tạm vậy, không có gì đặc biệt.
    Thích dùng bánh cuốn nhân, mà thật là muốn chìu vị giác, người ta cần phải hơi cầu kỳ một chút: xuống phố Lê Lợi, tìm đến một hiệu riêng - hiệu Ninh Thịnh - chuyên bán mấy thứ quà Việt Nam: bánh cuốn, xôi vò, chè đường. Ǎn ở đây, người ta có cảm tưởng Zn quà ở ngay chính nhà mình. Một phòng khách kê cái sập, bộ xa lông; tường vẽ hoa xanh đỏ; đây đó, một vài bức vẽ ***g trong khung kính. ở ngoài, không có cửa hàng. Ông bà biết thì vào dùng thử mấy món quà, chớ không có bày bán hay kêu la ầm ĩ.
    Bánh cuốn ở nhà này đặc biệt về điểm nhân thịt nhưng không Zn nóng, mà Zn nguội. Hình dáng cũng khác hẳn mọi nơi: không tròn, không to, cũng không phải hình chữ nhật, nhưng vừa xinh, dài khoảng một ngón tay cái, mặt bánh muôn muốt, nhân không nhiều, nhưng thơm ngon mà thỉnh thoảng nhai lại giòn.
    Vì là thứ quà Zn nguội, nên nhà không có lò tráng, mà cũng chẳng có nồi nước sôi hấp bánh. Bánh làm sẵn từ buổi sáng, có khách đến, cứ việc xếp đem ra. Nước mắm thì pha giấm hay chanh, tuỳ ý, cà cuống nước để ngoài, ai muốn gia ít hay nhiều đều được.
    Thứ bánh này Zn dẻo mà mát, nên hợp với buổi trưa trong ngày, những ông nào nhàn rỗi, nghỉ trưa xong đi chơi dZm ba bước trong một trời gió phây phây rồi tà tà đi vào thưởng thức dZm ba chiếc, rõ thực là thần tiên đấy.
    Ǎn từ từ, nhấm nháp thôi, đừng vội, và ông sẽ thấy bột bánh mướt đáo để, mà nhân bánh thì tinh vi, tương tự phong vị nhân bánh bẻ. Thứ bánh này không có ruốc tôm bày ở trên, Zn không chóng ngấy, nhưng nếu ông thích đậm miệng hơn một chút thì vẫn có thể điểm vào đó một hai chiếc chả lợn của một cửa hàng gần đấy, đã nục lại không pha bột, rán cứ vàng ửng lên như da đồng.
    Không hiểu đối với các khách khác ra sao, cứ riêng tôi thấy thì thứ bánh nguội này dễ Zn hơn bánh khác.
    Những khi đi thưởng thức bánh này, tôi thường nhớ lại một quãng thời gian đã qua rồi, khoảng ba mươi nhZm, ba mươi sáu nZm nay. Cứ vào khoảng hai ba giờ chiều, có một bà cụ đội một thúng bánh cuốn nhân thịt đến bán cho những nhà Zn quen ở phố tôi - một phố xưa cũ có bán những pho kinh đóng bằng bìa cậy và những truyện Kiều Cung oán chữ nôm in mộc bản, bày bán trên những giàn sách bằng tre. Bà cụ ấy già lắm, lưng lại còng, đội thúng bánh đi bán, trông lại càng cóng quá.
    Vì thế người ta gọi cụ là "cụ Còng" và bánh cuốn của cụ - độc nhất trong hồi đó - là bánh cuốn cụ Còng - chớ chẳng gọi là bánh cuốn nhân thịt, nhân tôm gì hết!
    Bây giờ, mỗi khi ngồi thưởng thức thứ bánh cuốn Ninh Thịnh, nhai nhè nhẹ rồi ngồi mà suy nghĩ, tôi lại tưởng thấy lại ở đầu lưỡi cái dư vị bánh cuốn cụ Còng - Zn cứ êm lừ: nhân làm thanh cảnh, mà lại chấm với nước mắm ô long hảo hạng, chết thật! ngon đến thế là cùng...
    Tức một nỗi là cái ngon đó nó thoang thoảng như da thịt của người đàn bà đẹp vừa gội đầu bằng nước nấu lá mùi; người ta mang mang tự hỏi không biết mùi thơm đó từ đâu ra, từ hương nước mắm hay từ da thịt? Hương đó thoảng qua, rồi mất đi, rồi hiện lại, không ai còn biết lấy gì làm chuẩn đích để níu cái hương đó lại và phân tách xem sao. Cũng thế, hương vị thứ bánh cuốn cụ Còng cũng thoang thoảng như vậy, không thể lấy riêng một món nào để làm tiêu chuẩn cho sự ngon lành.
    Có lẽ tất cả bánh, nước chấm và nhân cùng hoà hợp lại mà tạo ra một cái ngon "toàn diện", chớ không phải riêng bột ngon hay là nhân ngon.
    Mọi thứ đều tiết tấu như thế, người Zn bánh, nếu gia nhiều ớt quá vào nước chấm, có thể làm hại cho sự quân bình của cái ngon. Vì thế, bà cụ Còng không thích để cho khách hàng pha lấy nước chấm và hễ thấy ai gia nhiều ớt quá thì cụ ngZn tay lại.
    Ba mươi mấy nZm đã qua rồi, bà cụ Còng nay đã chết, nhưng bánh cuốn của cụ, tôi lại thấy hiện ra ở trong bánh của nhà Ninh Thịnh, tuy rằng hình dáng có khác nhau chút ít - một thứ gói tròn và một thứ gói vuông.
    Có lẽ cách làm của hai thứ bánh này cũng chẳng khác nhau mấy tí; nhưng không hiểu tại bột, tại thịt hay tại nấm hương, mộc nhĩ bây giờ không được bằng thời trước, hay chỉ tại người mình cùng với ngày tháng có suy đi, mà tôi không thể nào thấy cái thèm muốn Zn cả một thúng hàng trZm cái bánh như ngày trước nữa.
    Vũ Bằng[/right
  3. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    THÀNH ĐẠI LA
    Thành Ðại La là một kiến trúc vĩ đại, có đầu tiên ở trên đất này. La thành không phải là một tên riêng, chỉ có nghĩa là một bức thành lớn bao quanh một bức thành nhỏ ở bên trong. La thành có từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc, những căn cứ của những đất đã chiếm được đều đắp hai lần thành, thành ngoài gọi là La thành.
    Suốt cả thời kỳ Bắc thuộc (111 trước Công lịch đến 939 sau Công lịch), bọn vua quan phong kiến Trung Quốc sang xâm lược nước ta, đều đóng căn cứ địa ở mấy nơi bên tả ngạn sông Hồng, như Liên Lâu (Tiên Du, Bắc Ninh), rồi đến Long Biên (phía Bắc sông Ðuống). Ðến đời Ðường, thường có quân Chà Và ở ngoài bể tràn vào và quân Nam Chiếu ở mạn Vân Nam tràn xuống, kéo đến vây đánh phủ Ðô hộ; hơn nữa nhân dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của bọn xâm lược, cũng thường nổi lên chống đánh. Năm 824, Ðô hộ là Lý Nguyên Gia, tin theo thuyết phong thuỷ, cho rằng trước cửa thành Long Biên có dòng nước chảy ngược, nên nhân dân hay nổi lên "làm phản". Lý Nguyên Gia bèn rời phủ trị sang địa phận huyện Tống Bình, gần sông Tô Lịch. Lúc đầu chỉ xây một toà thành nhỏ, sau đó nhận thấy nơi ấy có địa thế hiểm yếu, liền lập phủ trị vĩnh viễn ở đó, đắp rộng cao thêm thành, làm cho dân ta hồi đó phải phục dịch rất khổ sở.
    Ðến năm 866, nhà Ðường đổi An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, sai Cao Biền sang làm Tiết độ sứ. Cao Biền là một tướng có nhiều tài lược và mưu trí, đã dùng nhiều thủ đoạn để loè nạt dân chúng, như việc phá những thác ngầm ở dọc sông: đêm đến, hắn cho đục đá đặt thuốc nổ, làm nổ tung những thác ấy, rồi nói phao lên là vì trời giúp vua Ðường sai thiên lôi xuống phá thác, làm cho nhân dân sợ hãi. Muốn củng cố thêm căn cứ thống trị, Cao Biền cho đắp lại thành Ðại La, bốn mặt dài hơn 1.982 trượng linh 5 thước, cao 2 trượng linh 6 thước. Muốn ngăn ngừa không cho nước sông Tô, sông Hồng tràn vào phủ trị, Cao Biền lại cho đắp một đường đê bao bọc ở ngoại thành, dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng, dày 2 trượng, trong thành cho nhân dân làm nhà ở hơn bốn chục vạn nóc. Ðường đê bao ngoài thành gọi là Ðại La thành, cũng gọi là Ngoại La thành.
    Với Cao Biền, ngày nay ở dân gian ta vẫn còn những truyền thuyết hoang đường, như nói Cao Biền thấy ở đất Giao Châu ta có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu. Vì vậy, ở nông thôn, làng nào có nhiều giếng khơi, người ta vẫn nói đó là giếng do Cao Biền đào ra. Lại như, mỗi khi thấy người nào yếu sức, tay chân cử động run rẩy, thường vẫn nói câu đã gần thành tục ngữ: "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non". Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh" nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc một trăm lần thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hoá thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững. Lại còn chuyện nói Cao Biền đắp La thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở; một đêm Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo cho Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Ðền thờ ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm.
    Từ năm 939, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nước ta bắt đầu độc lập tự chủ, nhưng đời Ngô Vương Quyền lại đóng đô ở Cổ Loa, hai đời Ðinh, Lê thì đóng đô ở Hoa Lư, thành Ðại La trở nên hoang phế. Mãi đến năm 1010, Lý Thái Tổ mới dời kinh đô đến đó, nhưng lại đắp một thành khác nhỏ hẹp hơn gọi là thành Thăng Long. Nền cũ của thành Ðại La, phần lớn không còn lại dấu vết, chỉ còn nhận thấy những khoảng từ Thanh Nhàn (giáp Thanh Trì) đi lên cửa ô Cầu Dền sang ô Chợ Dưà, rồi thẳng đến ô Cầu Giấy, ngược lên đến làng Bưởi. Năm kia, ta đã cho theo dấu cũ ấy, sửa chữa lại nhiều nơi, đắp cao lên làm thành thân đê, đề phòng nạn lụt. Còn phần đê La Thành về phía sông Hồng, từ đời Lý đã nhập vào với đê Cơ Xá, và từ đời Trần đã nhập vào với đê Quai Vạc, chuyên ngăn nước sông Hồng.
    Ðê Ðại La thành này khi còn độc lực giữ việc chống nước lụt cho nội thành, thường bị sạt lở. Năm 1243, đời vua Thái Tôn nhà Trần, nước sông Hồng lên to quá, phá vỡ một đoạn thân thành, làm cho nội thành bị ngập lụt. Cũng từ đó, các đời vua Trần mới nghĩ đến việc đắp đê quai vạc suốt từ đầu nguồn trở xuống cho đến miền bể, dọc hai bên bờ sông Hồng.
    Bài thơ "Ðiếu cổ La thành" của nhà thơ Tế Xuyên, đời cuối Lê đã mai mỉa dã tâm xâm lược của Cao Biền, tốn công, nhọc lòng đắp nên thành ấy, kết cục bọn phong kién thống trị Trung Quốc đều phải diệt vong. Sau chiến công trên sông Bạch Ðằng năm 939, nước ta hoàn toàn tự chủ. Bài thơ đại ý như sau:
    "Ðại La thành tốn công xây,
    Cao Biền tưởng chiếm đất này dài lâu.
    Nào ngờ mấy chục năm sau,
    Vùi quân xâm lược dòng sâu Bạch Ðằng"​

    Doãn Kế Thiện (Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội)
    Được heongoc sửa chữa / chuyển vào 19:03 ngày 11/10/2004
  4. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    THÀNH ĐẠI LA
    Thành Ðại La là một kiến trúc vĩ đại, có đầu tiên ở trên đất này. La thành không phải là một tên riêng, chỉ có nghĩa là một bức thành lớn bao quanh một bức thành nhỏ ở bên trong. La thành có từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc, những căn cứ của những đất đã chiếm được đều đắp hai lần thành, thành ngoài gọi là La thành.
    Suốt cả thời kỳ Bắc thuộc (111 trước Công lịch đến 939 sau Công lịch), bọn vua quan phong kiến Trung Quốc sang xâm lược nước ta, đều đóng căn cứ địa ở mấy nơi bên tả ngạn sông Hồng, như Liên Lâu (Tiên Du, Bắc Ninh), rồi đến Long Biên (phía Bắc sông Ðuống). Ðến đời Ðường, thường có quân Chà Và ở ngoài bể tràn vào và quân Nam Chiếu ở mạn Vân Nam tràn xuống, kéo đến vây đánh phủ Ðô hộ; hơn nữa nhân dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của bọn xâm lược, cũng thường nổi lên chống đánh. Năm 824, Ðô hộ là Lý Nguyên Gia, tin theo thuyết phong thuỷ, cho rằng trước cửa thành Long Biên có dòng nước chảy ngược, nên nhân dân hay nổi lên "làm phản". Lý Nguyên Gia bèn rời phủ trị sang địa phận huyện Tống Bình, gần sông Tô Lịch. Lúc đầu chỉ xây một toà thành nhỏ, sau đó nhận thấy nơi ấy có địa thế hiểm yếu, liền lập phủ trị vĩnh viễn ở đó, đắp rộng cao thêm thành, làm cho dân ta hồi đó phải phục dịch rất khổ sở.
    Ðến năm 866, nhà Ðường đổi An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, sai Cao Biền sang làm Tiết độ sứ. Cao Biền là một tướng có nhiều tài lược và mưu trí, đã dùng nhiều thủ đoạn để loè nạt dân chúng, như việc phá những thác ngầm ở dọc sông: đêm đến, hắn cho đục đá đặt thuốc nổ, làm nổ tung những thác ấy, rồi nói phao lên là vì trời giúp vua Ðường sai thiên lôi xuống phá thác, làm cho nhân dân sợ hãi. Muốn củng cố thêm căn cứ thống trị, Cao Biền cho đắp lại thành Ðại La, bốn mặt dài hơn 1.982 trượng linh 5 thước, cao 2 trượng linh 6 thước. Muốn ngăn ngừa không cho nước sông Tô, sông Hồng tràn vào phủ trị, Cao Biền lại cho đắp một đường đê bao bọc ở ngoại thành, dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng, dày 2 trượng, trong thành cho nhân dân làm nhà ở hơn bốn chục vạn nóc. Ðường đê bao ngoài thành gọi là Ðại La thành, cũng gọi là Ngoại La thành.
    Với Cao Biền, ngày nay ở dân gian ta vẫn còn những truyền thuyết hoang đường, như nói Cao Biền thấy ở đất Giao Châu ta có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu. Vì vậy, ở nông thôn, làng nào có nhiều giếng khơi, người ta vẫn nói đó là giếng do Cao Biền đào ra. Lại như, mỗi khi thấy người nào yếu sức, tay chân cử động run rẩy, thường vẫn nói câu đã gần thành tục ngữ: "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non". Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh" nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc một trăm lần thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hoá thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững. Lại còn chuyện nói Cao Biền đắp La thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở; một đêm Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo cho Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Ðền thờ ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm.
    Từ năm 939, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nước ta bắt đầu độc lập tự chủ, nhưng đời Ngô Vương Quyền lại đóng đô ở Cổ Loa, hai đời Ðinh, Lê thì đóng đô ở Hoa Lư, thành Ðại La trở nên hoang phế. Mãi đến năm 1010, Lý Thái Tổ mới dời kinh đô đến đó, nhưng lại đắp một thành khác nhỏ hẹp hơn gọi là thành Thăng Long. Nền cũ của thành Ðại La, phần lớn không còn lại dấu vết, chỉ còn nhận thấy những khoảng từ Thanh Nhàn (giáp Thanh Trì) đi lên cửa ô Cầu Dền sang ô Chợ Dưà, rồi thẳng đến ô Cầu Giấy, ngược lên đến làng Bưởi. Năm kia, ta đã cho theo dấu cũ ấy, sửa chữa lại nhiều nơi, đắp cao lên làm thành thân đê, đề phòng nạn lụt. Còn phần đê La Thành về phía sông Hồng, từ đời Lý đã nhập vào với đê Cơ Xá, và từ đời Trần đã nhập vào với đê Quai Vạc, chuyên ngăn nước sông Hồng.
    Ðê Ðại La thành này khi còn độc lực giữ việc chống nước lụt cho nội thành, thường bị sạt lở. Năm 1243, đời vua Thái Tôn nhà Trần, nước sông Hồng lên to quá, phá vỡ một đoạn thân thành, làm cho nội thành bị ngập lụt. Cũng từ đó, các đời vua Trần mới nghĩ đến việc đắp đê quai vạc suốt từ đầu nguồn trở xuống cho đến miền bể, dọc hai bên bờ sông Hồng.
    Bài thơ "Ðiếu cổ La thành" của nhà thơ Tế Xuyên, đời cuối Lê đã mai mỉa dã tâm xâm lược của Cao Biền, tốn công, nhọc lòng đắp nên thành ấy, kết cục bọn phong kién thống trị Trung Quốc đều phải diệt vong. Sau chiến công trên sông Bạch Ðằng năm 939, nước ta hoàn toàn tự chủ. Bài thơ đại ý như sau:
    "Ðại La thành tốn công xây,
    Cao Biền tưởng chiếm đất này dài lâu.
    Nào ngờ mấy chục năm sau,
    Vùi quân xâm lược dòng sâu Bạch Ðằng"​

    Doãn Kế Thiện (Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội)
    Được heongoc sửa chữa / chuyển vào 19:03 ngày 11/10/2004
  5. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    THÀNH CỔ HÀ NỘI​
    Trên đất Thăng Long đã từng toạ lạc một toà Hoàng thành hoa lệ, trải suốt các triều Lý - Trần - Lê và được xây dựng lại thành toà trấn thành thời Nguyễn. Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Ðại La và đổi tên là Thăng Long. Trải qua 8 thế kỷ, toà thành đã trở thành trung tâm chính trị và đô thị phồn thịnh nhất Ðại Việt. Cuối triều Lý, hoàng cung Thăng Long bị đốt cháy. Tới triều Trần, thành Thăng Long được xây dựng lại nhưng rồi lại bị lũ xâm lược Nguyên - Mông dày xéo, tàn phá. Sau khi đánh đuổi giặc Minh năm 1428, Lê Thái Tổ cho xây dựng lại Thăng Long và đổi tên là Ðông Ðô rồi Ðông Kinh... Vậy là, qua bao cuộc chiến tranh và cuối cùng là sự phá hoại của thực dân Pháp, toà thành cổ kính mang tên Thăng Long - Hà Nội gần như mất hết dấu vết, chỉ còn tồn tại trong hoài niệm của bao thế hệ người Hà Nội.
    Thành cổ Hà Nội do nhà Nguyễn xây dựng từ năm 1803 theo kiến trúc châu Âu nhưng có tầm vóc nhỏ hơn thành của những vương triều trước. Mặc dù, tính tới nay thành cổ còn chưa đủ 200 năm tuổi nhưng đã có không ít nhà bảo tàng học, sử học thảo luận nhiều lần nhằm thống nhất về cách nhìn.
    Năm 1959, ông Trần Huy Bá đưa ra ý kiến hoạch định ranh giới Hoàng thành Thăng Long đời Lý - Trần là phía Bắc từ trường Ðua Ngựa tới đền Quan Thánh, phía Ðông từ đến Quan Thánh tới Văn Miếu, phía Nam từ Văn Miếu tới cuối đường xe điện Cầu Giấy, phía Tây từ cuối đường xe điện Cầu Giấy tới trường Ðua Ngựa. Ðã có khá nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ giả thuyết này. Tới tháng 4/1996, ông Trần Quốc Vượng và ông Vũ Tuấn Sản đã lập luận, chứng minh Thăng Long đời Lý vẫn giữ nguyên vẹn vị trí cũ cho đến đời Nguyễn. Núi Nùng (tức núi Long Ðỗ) vẫn là trung tâm của Thăng Long qua bao thế kỷ...
    Năm 1998, Bộ Quốc phòng đã bắt đầu trao lại 3 khu vực Cửa Bắc, Hậu Lâu và Ðoan Môn cho Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội quản lý và tôn tạo nhằm phục vụ kỷ niệm Thăng Long - Hà Nội 990 và 1000 năm. Công tác khai quật khảo cổ học đã được khẩn trương tiến hành tại cả 3 nơi và đã cho nhiều kết quả bất ngờ, trả lời được nhiều vấn đề sau bao năm tranh luận nghiên cứu. Bắc Môn được xác định chính là Cửa Bắc của thành Hà Nội thời Nguyễn. Nơi đây được xem xét từng lớp dấu vết để phá dỡ những gì được vá víu từ thời Pháp thuộc, sửa sang tu bổ lại những gì vốn có của toà thành thời Nguyễn, xây lại vọng lâu trên cửa thành.
    Lầu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc Lâu) là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc chính là Hành cung của Thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau Hành cung nhưng lại là phía Bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía Bắc Hành cung nên mới có tên là Tĩnh Bắc Lâu. Nơi đây còn có tên là Hậu Lâu (lầu phía sau), hoặc là Lầu Công chúa, bởi tương truyền xưa kia đây là lầu xây để công chúa ở mỗi khi theo vua đi tuần du. Tại Tĩnh Bắc Lâu, các nhà khảo cổ học đã khai quật một diện tích gần 200m2. Vách hố khai quật cho phép nhìn rõ một dòng nước vốn chảy qua đây, dưới lòng lạch có những hòn tảng kê chân cột, bên bờ có xếp 3 bậc đá mang vết cánh hoa sen. Di vật tìm thấy trong hố khai quật rất nhiều. Có gạch ngói của nhiều đời từ trước thời Lý cho đến thời Lê: Cạnh có chữ, ngói bò hình lá đề, hình rồng phượng, đồ gốm đủ loại, đủ thời...
    Kết quả khảo cổ tại Đoan Môn khá bất ngờ : ở độ sâu 1,9m phát hiện một con đường lát gạch theo hướng Bắc - Nam nằm chính giữa Ðoan Môn. Tại đây được trải 12 lớp sỏi, gạch, đất sét đầm nén kỹ dài tới 1m rồi mới lát 5 lớp gạch bìa lên trên. Hai bên đường cắm gạch theo kiểu dăm cối để tạo thành những ô hoa chanh đẹp mắt. Công việc tu bổ, tôn tạo lại Ðoan Môn đã vấp phải nhiều khó khăn. Các lớp gạch tại đây đa phần đã bị mục ruỗng, không còn khả năng liên kết, chịu lực; các đường nét trang trí hoạ tiết bị gẫy vỡ, có nguy cơ sập đổ cả tầng lầu phía trên... Chính vì thế, công việc tôn tạo di tích Ðoan Môn vẫn chưa xong để khánh thành vào dịp này.
    Thế là sau gần 2 thế kỷ, nay một phần thành cổ Hà Nội lại được "hồi sinh", mở cửa đón nhân dân thủ đô và cả nước vào thăm, đưa họ tìm lại về cội nguồn mảnh đất rồng bay qua bóng dáng của kinh thành cổ. Thành cổ là một trong mười công trình đầu tiên gắn biển Công trình trọng điểm kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội
    (Theo người Hà Nội)
  6. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    THÀNH CỔ HÀ NỘI​
    Trên đất Thăng Long đã từng toạ lạc một toà Hoàng thành hoa lệ, trải suốt các triều Lý - Trần - Lê và được xây dựng lại thành toà trấn thành thời Nguyễn. Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Ðại La và đổi tên là Thăng Long. Trải qua 8 thế kỷ, toà thành đã trở thành trung tâm chính trị và đô thị phồn thịnh nhất Ðại Việt. Cuối triều Lý, hoàng cung Thăng Long bị đốt cháy. Tới triều Trần, thành Thăng Long được xây dựng lại nhưng rồi lại bị lũ xâm lược Nguyên - Mông dày xéo, tàn phá. Sau khi đánh đuổi giặc Minh năm 1428, Lê Thái Tổ cho xây dựng lại Thăng Long và đổi tên là Ðông Ðô rồi Ðông Kinh... Vậy là, qua bao cuộc chiến tranh và cuối cùng là sự phá hoại của thực dân Pháp, toà thành cổ kính mang tên Thăng Long - Hà Nội gần như mất hết dấu vết, chỉ còn tồn tại trong hoài niệm của bao thế hệ người Hà Nội.
    Thành cổ Hà Nội do nhà Nguyễn xây dựng từ năm 1803 theo kiến trúc châu Âu nhưng có tầm vóc nhỏ hơn thành của những vương triều trước. Mặc dù, tính tới nay thành cổ còn chưa đủ 200 năm tuổi nhưng đã có không ít nhà bảo tàng học, sử học thảo luận nhiều lần nhằm thống nhất về cách nhìn.
    Năm 1959, ông Trần Huy Bá đưa ra ý kiến hoạch định ranh giới Hoàng thành Thăng Long đời Lý - Trần là phía Bắc từ trường Ðua Ngựa tới đền Quan Thánh, phía Ðông từ đến Quan Thánh tới Văn Miếu, phía Nam từ Văn Miếu tới cuối đường xe điện Cầu Giấy, phía Tây từ cuối đường xe điện Cầu Giấy tới trường Ðua Ngựa. Ðã có khá nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ giả thuyết này. Tới tháng 4/1996, ông Trần Quốc Vượng và ông Vũ Tuấn Sản đã lập luận, chứng minh Thăng Long đời Lý vẫn giữ nguyên vẹn vị trí cũ cho đến đời Nguyễn. Núi Nùng (tức núi Long Ðỗ) vẫn là trung tâm của Thăng Long qua bao thế kỷ...
    Năm 1998, Bộ Quốc phòng đã bắt đầu trao lại 3 khu vực Cửa Bắc, Hậu Lâu và Ðoan Môn cho Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội quản lý và tôn tạo nhằm phục vụ kỷ niệm Thăng Long - Hà Nội 990 và 1000 năm. Công tác khai quật khảo cổ học đã được khẩn trương tiến hành tại cả 3 nơi và đã cho nhiều kết quả bất ngờ, trả lời được nhiều vấn đề sau bao năm tranh luận nghiên cứu. Bắc Môn được xác định chính là Cửa Bắc của thành Hà Nội thời Nguyễn. Nơi đây được xem xét từng lớp dấu vết để phá dỡ những gì được vá víu từ thời Pháp thuộc, sửa sang tu bổ lại những gì vốn có của toà thành thời Nguyễn, xây lại vọng lâu trên cửa thành.
    Lầu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc Lâu) là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc chính là Hành cung của Thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau Hành cung nhưng lại là phía Bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía Bắc Hành cung nên mới có tên là Tĩnh Bắc Lâu. Nơi đây còn có tên là Hậu Lâu (lầu phía sau), hoặc là Lầu Công chúa, bởi tương truyền xưa kia đây là lầu xây để công chúa ở mỗi khi theo vua đi tuần du. Tại Tĩnh Bắc Lâu, các nhà khảo cổ học đã khai quật một diện tích gần 200m2. Vách hố khai quật cho phép nhìn rõ một dòng nước vốn chảy qua đây, dưới lòng lạch có những hòn tảng kê chân cột, bên bờ có xếp 3 bậc đá mang vết cánh hoa sen. Di vật tìm thấy trong hố khai quật rất nhiều. Có gạch ngói của nhiều đời từ trước thời Lý cho đến thời Lê: Cạnh có chữ, ngói bò hình lá đề, hình rồng phượng, đồ gốm đủ loại, đủ thời...
    Kết quả khảo cổ tại Đoan Môn khá bất ngờ : ở độ sâu 1,9m phát hiện một con đường lát gạch theo hướng Bắc - Nam nằm chính giữa Ðoan Môn. Tại đây được trải 12 lớp sỏi, gạch, đất sét đầm nén kỹ dài tới 1m rồi mới lát 5 lớp gạch bìa lên trên. Hai bên đường cắm gạch theo kiểu dăm cối để tạo thành những ô hoa chanh đẹp mắt. Công việc tu bổ, tôn tạo lại Ðoan Môn đã vấp phải nhiều khó khăn. Các lớp gạch tại đây đa phần đã bị mục ruỗng, không còn khả năng liên kết, chịu lực; các đường nét trang trí hoạ tiết bị gẫy vỡ, có nguy cơ sập đổ cả tầng lầu phía trên... Chính vì thế, công việc tôn tạo di tích Ðoan Môn vẫn chưa xong để khánh thành vào dịp này.
    Thế là sau gần 2 thế kỷ, nay một phần thành cổ Hà Nội lại được "hồi sinh", mở cửa đón nhân dân thủ đô và cả nước vào thăm, đưa họ tìm lại về cội nguồn mảnh đất rồng bay qua bóng dáng của kinh thành cổ. Thành cổ là một trong mười công trình đầu tiên gắn biển Công trình trọng điểm kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội
    (Theo người Hà Nội)
  7. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    VĂN HIẾN THĂNG LONG​
    Từ lâu, đã có một thành ngữ quen thuộc với mọi người khi nói về đặc tính của Thăng Long - Hà Nội: Ngàn năm văn hiến. Vậy văn hiến là gì? Nếu như hai khái niệm văn hoá và văn minh hiện được dùng phổ biến có nguồn gốc từ phương Tây thì khái niệm văn hiến là hoàn toàn gốc từ phương Ðông. Phương Tây không có khái niệm này. Chỉ ở Việt Nam và Trung Quốc, khái niệm văn hiến mới được dùng phổ biến.
    Ở Việt Nam, từ văn hiến xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428) rồi sau đó được tiếp tục sử dụng trong ngôn ngữ Việt Nam.
    Như nước Ðại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu​
    Nền văn hiến mà Nguyễn Trãi nói đó mang một nội dung khá rộng. Nó thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam không chỉ ở "núi sông bờ cõi đã chia" mà còn ở "phong tục Bắc, Nam cũng khác". Bản sắc ấy không chỉ ở truyền thống văn hoá Việt Nam qua các thời kỳ mạnh yếu khác nhau mà còn ở sự tiếp nối không ngừng của các thế hệ anh hùng hào kiệt trong lịch sử Việt Nam.
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Nhưng hào kiệt đời nào cũng có​
    Ở Nguyễn Trãi, con người hào kiệt và văn hoá là những nhân tố cấu thành của nền văn hiến Việt Nam. Nói tới văn hiến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã khái quát những truyền thống tốt đẹp đã tạo nên sức mạnh tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam. Văn hiến Thăng Long chính là sự thu nhỏ lại của văn hiến dân tộc và là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hiến ấy.
    Kỷ niệm 990 năm và chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long cũng là kỷ niệm những thành tựu của cả nước được hội nhập ở Thăng Long và lại từ Thăng Long toả sáng trên mọi miền của đất nước.
    Văn hiến Thăng Long không phải là của riêng vùng đất Thăng Long mà là tự hào chung của cả dân tộc Việt Nam.
    Cũng ở thế kỷ 15, bia tiến sĩ Văn Miếu năm Quang Thuận thứ 4 (1463) do Tiến sĩ Ðào Cử soạn, có ghi: "Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến".
    Thế kỷ 19 trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: "Khi nhà Lê dựng nước, văn hoá lại thịnh dần, hơn 300 nắm tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến đứng đầu trung châu điển chương rạng cả triều đại" (Văn tịch chí, bản dịch, quyển 4, trang 41).
    Vậy nội dung văn hiến là gì?
    Chu Hy (đời Tống, Trung Quốc) giải thích: "Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã". Có thể hiểu văn tức là văn hoá chỉ khuôn phép, trước tác, sách vở, hiến chỉ người hiền tài của đất nước.
    Như vậy, có thể khẳng định rằng khái niệm văn hiến bao hàm không chỉ nội dung của khái niệm văn hoá, văn minh mà còn nhấn mạnh một yếu tố quan trọng nữa, đó là những hiền tài của đất nước. Nền văn hiến của một dân tộc bao gồm cả trình độ văn hoá và số lượng hiền tài của dân tộc ấy.
    Cách viết như trên chính là cách hiểu ở Việt Nam, kể từ Nguyễn Trãi.
    Tóm lại, văn hiến là trạng thái phát triển nhất định của mỗi dân tộc. Nó nói lên xu hướng luôn luôn khắc phục tình trạng nguyên sơ lạc hậu và thấp kém để vươn tới cuộc sống ngày một phát triển hơn, tiến bộ hơn, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống vật chất và tinh thần, với sự xuất hiện ngày một nhiều những hiền tài của đất nước. Nó đánh dấu trình độ của một dân tộc đã đạt được trong quá trình sử dụng thiên nhiên, hoàn thiện đời sống xã hội và không ngừng đào tạo ra những con người ưu tú cả về trí tuệ phẩm chất và tài năng.
    Với quan niệm trên đây, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được văn hiến Thăng Long từ nguồn gốc ra đời đến những biểu hiện phong phú của nó trên các lĩnh vực của đời sống và qua các thời kỳ lịch sử.
    - Sự ra đời của văn hiến Thăng Long có thể bắt đầu từ Chiếu dời đô, từ ngày kinh đô Thăng Long ra đời (1010). Tuy nhiên, văn hiến Thăng Long không phải đã được hình thành từ con số không. Hàng ngàn năm lịch sử trước đây đã chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của nó. Văn hiến Thăng là sự tiếp nối và nâng cao của những phẩm chất bất diệt của con người Việt Nam đã được rèn đúc suốt bao nhiêu thế kỷ chiến đấu để tồn tại và phát triển. Không thể hiểu được văn hiến Thăng Long nếu như bỏ qua những giá trị vật chất và tinh thần mà tổ tiên đã tạo dựng từ trước Thăng Long và để lại cho Thăng Long.
    Sự dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long không phải là sự thay đổi địa điểm một cách bình thường như bao nhiêu cuộc thay đổi Thủ đô đã từng diễn ra trong lịch sử Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới. Sự dời đô của Việt Nam năm 1010 mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước cho đến ngày năm đó.
    Sự dời đô của Việt Nam và sự ra đời của Thăng Long thể hiện đỉnh cao của tâm hồn và bản lĩnh Việt Nam, thể hiện đầu óc tự cường của dân tộc, thể hiện khí phách anh hùng của cả lãnh tụ và toàn thể nhân dân Việt Nam.
    Việc dời đô này là sự tuyên bố vang dội bốn phương về chủ quyền bất khả xâm phạm của đất nước Việt Nam, về sức mạnh bất khả chiến thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường độc lập và phát triển.
    Thăng Long lại là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Cho nên văn hiến Thăng Long không phải là sản phẩm riêng của những con người sinh sống trên mảnh đất gọi là Thăng Long này. Nó là sự hội tụ, sự chắt lọc và nâng cao những tinh hoa trí tuệ và tâm hồn của cả nước và từ đây lại lan toả mọi miền, trở thành di sản tinh thần và niềm tự hào chung của cả đất nước.
    Văn hiến Thăng Long phản ánh tinh hoa đời sống tinh thần của dân tộc. Ðặc điểm của nền văn hiến ấy thể hiện từ cung cách tư duy đến sinh hoạt hàng ngày, từ sự bảo vệ một cách ngoan cường bản sắc dân tộc đến sự tiếp thu nhạy bén và sáng tạo những tinh hoa của nhân loại, từ sự phát minh khoa học đến sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Chính vì thế mà văn hiến Thăng Long là đỉnh cao của văn hiến dân tộc.
    Văn hiến Thăng Long cũng thể hiện ở trình độ thẩm mỹ sâu sắc và tế nhị trong hoạt động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Nó khiến cho Thủ đô luôn luôn đi đầu, luôn luôn là mẫu mực về một cuộc sống thanh lịch trong ăn, mặc, ở, trong mọi ứng xử hàng ngày.
    Người Hà Nội ngày nay đã và đang phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến đó để xây dựng thành phố của mình đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy truyền thống kết hợp với hội nhập thế giới văn minh, cùng cả nước vững vàng và hào hùng tiến vào thiên niên kỷ thứ ba
    (Theo Người Hà Nội)
  8. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    VĂN HIẾN THĂNG LONG​
    Từ lâu, đã có một thành ngữ quen thuộc với mọi người khi nói về đặc tính của Thăng Long - Hà Nội: Ngàn năm văn hiến. Vậy văn hiến là gì? Nếu như hai khái niệm văn hoá và văn minh hiện được dùng phổ biến có nguồn gốc từ phương Tây thì khái niệm văn hiến là hoàn toàn gốc từ phương Ðông. Phương Tây không có khái niệm này. Chỉ ở Việt Nam và Trung Quốc, khái niệm văn hiến mới được dùng phổ biến.
    Ở Việt Nam, từ văn hiến xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428) rồi sau đó được tiếp tục sử dụng trong ngôn ngữ Việt Nam.
    Như nước Ðại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu​
    Nền văn hiến mà Nguyễn Trãi nói đó mang một nội dung khá rộng. Nó thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam không chỉ ở "núi sông bờ cõi đã chia" mà còn ở "phong tục Bắc, Nam cũng khác". Bản sắc ấy không chỉ ở truyền thống văn hoá Việt Nam qua các thời kỳ mạnh yếu khác nhau mà còn ở sự tiếp nối không ngừng của các thế hệ anh hùng hào kiệt trong lịch sử Việt Nam.
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Nhưng hào kiệt đời nào cũng có​
    Ở Nguyễn Trãi, con người hào kiệt và văn hoá là những nhân tố cấu thành của nền văn hiến Việt Nam. Nói tới văn hiến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã khái quát những truyền thống tốt đẹp đã tạo nên sức mạnh tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam. Văn hiến Thăng Long chính là sự thu nhỏ lại của văn hiến dân tộc và là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hiến ấy.
    Kỷ niệm 990 năm và chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long cũng là kỷ niệm những thành tựu của cả nước được hội nhập ở Thăng Long và lại từ Thăng Long toả sáng trên mọi miền của đất nước.
    Văn hiến Thăng Long không phải là của riêng vùng đất Thăng Long mà là tự hào chung của cả dân tộc Việt Nam.
    Cũng ở thế kỷ 15, bia tiến sĩ Văn Miếu năm Quang Thuận thứ 4 (1463) do Tiến sĩ Ðào Cử soạn, có ghi: "Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến".
    Thế kỷ 19 trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: "Khi nhà Lê dựng nước, văn hoá lại thịnh dần, hơn 300 nắm tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến đứng đầu trung châu điển chương rạng cả triều đại" (Văn tịch chí, bản dịch, quyển 4, trang 41).
    Vậy nội dung văn hiến là gì?
    Chu Hy (đời Tống, Trung Quốc) giải thích: "Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã". Có thể hiểu văn tức là văn hoá chỉ khuôn phép, trước tác, sách vở, hiến chỉ người hiền tài của đất nước.
    Như vậy, có thể khẳng định rằng khái niệm văn hiến bao hàm không chỉ nội dung của khái niệm văn hoá, văn minh mà còn nhấn mạnh một yếu tố quan trọng nữa, đó là những hiền tài của đất nước. Nền văn hiến của một dân tộc bao gồm cả trình độ văn hoá và số lượng hiền tài của dân tộc ấy.
    Cách viết như trên chính là cách hiểu ở Việt Nam, kể từ Nguyễn Trãi.
    Tóm lại, văn hiến là trạng thái phát triển nhất định của mỗi dân tộc. Nó nói lên xu hướng luôn luôn khắc phục tình trạng nguyên sơ lạc hậu và thấp kém để vươn tới cuộc sống ngày một phát triển hơn, tiến bộ hơn, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống vật chất và tinh thần, với sự xuất hiện ngày một nhiều những hiền tài của đất nước. Nó đánh dấu trình độ của một dân tộc đã đạt được trong quá trình sử dụng thiên nhiên, hoàn thiện đời sống xã hội và không ngừng đào tạo ra những con người ưu tú cả về trí tuệ phẩm chất và tài năng.
    Với quan niệm trên đây, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được văn hiến Thăng Long từ nguồn gốc ra đời đến những biểu hiện phong phú của nó trên các lĩnh vực của đời sống và qua các thời kỳ lịch sử.
    - Sự ra đời của văn hiến Thăng Long có thể bắt đầu từ Chiếu dời đô, từ ngày kinh đô Thăng Long ra đời (1010). Tuy nhiên, văn hiến Thăng Long không phải đã được hình thành từ con số không. Hàng ngàn năm lịch sử trước đây đã chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của nó. Văn hiến Thăng là sự tiếp nối và nâng cao của những phẩm chất bất diệt của con người Việt Nam đã được rèn đúc suốt bao nhiêu thế kỷ chiến đấu để tồn tại và phát triển. Không thể hiểu được văn hiến Thăng Long nếu như bỏ qua những giá trị vật chất và tinh thần mà tổ tiên đã tạo dựng từ trước Thăng Long và để lại cho Thăng Long.
    Sự dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long không phải là sự thay đổi địa điểm một cách bình thường như bao nhiêu cuộc thay đổi Thủ đô đã từng diễn ra trong lịch sử Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới. Sự dời đô của Việt Nam năm 1010 mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước cho đến ngày năm đó.
    Sự dời đô của Việt Nam và sự ra đời của Thăng Long thể hiện đỉnh cao của tâm hồn và bản lĩnh Việt Nam, thể hiện đầu óc tự cường của dân tộc, thể hiện khí phách anh hùng của cả lãnh tụ và toàn thể nhân dân Việt Nam.
    Việc dời đô này là sự tuyên bố vang dội bốn phương về chủ quyền bất khả xâm phạm của đất nước Việt Nam, về sức mạnh bất khả chiến thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường độc lập và phát triển.
    Thăng Long lại là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Cho nên văn hiến Thăng Long không phải là sản phẩm riêng của những con người sinh sống trên mảnh đất gọi là Thăng Long này. Nó là sự hội tụ, sự chắt lọc và nâng cao những tinh hoa trí tuệ và tâm hồn của cả nước và từ đây lại lan toả mọi miền, trở thành di sản tinh thần và niềm tự hào chung của cả đất nước.
    Văn hiến Thăng Long phản ánh tinh hoa đời sống tinh thần của dân tộc. Ðặc điểm của nền văn hiến ấy thể hiện từ cung cách tư duy đến sinh hoạt hàng ngày, từ sự bảo vệ một cách ngoan cường bản sắc dân tộc đến sự tiếp thu nhạy bén và sáng tạo những tinh hoa của nhân loại, từ sự phát minh khoa học đến sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Chính vì thế mà văn hiến Thăng Long là đỉnh cao của văn hiến dân tộc.
    Văn hiến Thăng Long cũng thể hiện ở trình độ thẩm mỹ sâu sắc và tế nhị trong hoạt động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Nó khiến cho Thủ đô luôn luôn đi đầu, luôn luôn là mẫu mực về một cuộc sống thanh lịch trong ăn, mặc, ở, trong mọi ứng xử hàng ngày.
    Người Hà Nội ngày nay đã và đang phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến đó để xây dựng thành phố của mình đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy truyền thống kết hợp với hội nhập thế giới văn minh, cùng cả nước vững vàng và hào hùng tiến vào thiên niên kỷ thứ ba
    (Theo Người Hà Nội)
  9. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    NÉT ÐẸP VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI HÀ NỘI THANH LỊCH​
    Hà Nội, thủ đô một đất nước có bốn ngàn năm văn hiến. Nơi hội tụ những tài năng, những trí tuệ tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Từ xa xưa, đã được nhân dân cả nước ca ngợi: "Ngàn năm văn vật đất Thăng Long" hoặc "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An"...
    Những câu mến yêu đó nhằm nói về những nét đẹp văn hoá trong cử chỉ, lời ăn tiếng nói và hành động của người Thăng Long, người kinh kỳ, kẻ chợ, người Hà Nội, người thủ đô.
    Xin được lược kê đôi nét về cử chỉ:
    Hào hoa mà không kênh kiệu, khoe vẻ giàu sang.
    Phong nhã mà không lề mề, chậm chạp, lù dù.
    Linh hoạt mà không xấc xược, láu lỉnh, kệch cỡm.
    Vui tươi duyên dáng mà không suồng sã, lẳng lơ.
    Vừa thông minh, lịch thiệp mà không ba hoa, hời hợt.
    Vừa chững chạc, khiêm nhường, vừa ân cần, tế nhị... khiến cho ai đó mỗi khi gặp gỡ, giao thiệp đều cảm thấy hài lòng, quý trọng và cảm kích những giây phút hội ngộ đầy thoải mái. Khi ra về vẫn luyến tiếc và mong sao có dịp tái ngộ, hàn huyên.
    Khi gặp người quen thì tươi cười chào hỏi, dù người đó ít tuổi hơn, vai vế trong họ hàng và xã hội có kém hơn... Lại càng chủ động hỏi han ân cần để kẻ dưới khỏi tủi thân hoặc chê trách.
    Trái lại, đối với người có chức, quyền cao hoặc giàu sang thì người Hà Nội thanh lịch có ý lảng tránh... để khỏi mắc tiếng "Thấy người sang bắt quàng làm họ". Bởi họ biết rõ đó là của phù vân, là quyền chức "nhất thời".
    Nhưng, đối với các vị đáng bậc cha chú, người Hà Nội thanh lịch phải ngả mũ chào, tỏ lòng tôn kính với mong muốn được phụ giúp việc gì đó có ích để các bậc trên được hài lòng về con cháu.
    Trong mối quan hệ bạn bè nam nữ, thanh niên Hà Nội làm quen với phái nữ bằng những cử chỉ và lời nói lịch sự tế nhị biểu lộ một chiều sâu tâm hồn trong sáng, một trí tuệ thông minh... Chinh phục ai đó bằng hành động cao thượng, bằng sự cảm mến, quý trọng, tận hưởng.
    Còn các thanh nữ thủ đô thuỳ mị, duyên dáng kín đáo. Yêu ai, ghét ai cũng để trong lòng. Nhưng cô ấy khinh bỉ ra mặt những kẻ ăn nói thô lỗ, bỉ ổi, sỗ sàng, ăn nói huênh hoang "trưởng giả học làm sang".
    Phụ nữ Hà Nội thanh lịch được tiếp xúc rộng rãi biết phân biệt người có tài, có đức với kẻ ba hoa con ông cháu cha, áo quần bảnh bao, ăn tiêu xa hoa khoe của. Các nàng chỉ cười bằng ánh mắt. Lấy nón che nghiêng hoặc khăn che miệng khi tủm tỉm cười. Họ rất sợ đi với bạn quen lối cười hô hố, cười toe toét rũ rượi, ảnh hưởng lây tới tư cách mình.
    Lời nói và giọng nói thanh thiếu nữ Hà Nội đến là dễ nghe, bởi chất dịu dàng, duyên dáng, kèm theo chữ ạ rất nhỏ cuối mỗi câu, nghe sao mà xao xuyên. Ví dụ:
    - "Thưa ông, mẹ cháu xin gửi lại ông tờ báo ạ!".
    - "Thưa thầy, thầy giảng giúp cho em bài này ạ!"
    - "Chị ơi! Ðây có phải nhà bác A không ạ?"
    Nghe vậy ai nỡ nào trả lời cộc lốc, hững hờ được.
    Những bữa cỗ đông người dự, người Hà Nội thanh lịch bao giờ cũng gắp những miếng ngon nhất mời các vị cao tuổi với lời lẽ trân trọng: "Xin mời cụ nếm thử ạ!". Sau cùng, mới nhận miếng nhỏ nhất cho mình.
    Ðến dự lễ cưới với thái độ vui tươi, nhưng không lợi dụng sự mừng vui ấy mà rượu chè say khướt và nói năng bừa bãi, khôi hài bằng những câu dung tục, rẻ tiền.
    Còn đi dự lễ tang, dù thân hay sơ, người Hà Nội có văn hoá không phì phèo thuốc lá, trò chuyện oang oang, cười nói nhởn nhơ, mà phải có cử chỉ, nét mặt u buồn tỏ ý chia sẻ nỗi đau thương. Khi đi đường gặp đám tang, người Hà Nội đều ngả mũ chào linh hồn người quá cố.
    Ðến bệnh viên thăm bệnh nhân, thăm hỏi ân cần, nhẹ nhàng... Khỏi phiền người khác đang đau mệt cần yên tĩnh.
    Những nét đẹp "văn hoá" không chỉ dành riêng cho thanh niên hoặc người nhiều tuổi. Nó thấm sâu, lan rộng tới các em thiếu niên, nhi đồng.
    Tôi xin kể mẩu chuyện này:
    Năm 1975 một buổi tối tôi đi tàu điện từ chợ Hôm lên Bờ Hồ lo không kịp chuyến tàu cuối vào Ngã Tư Sở. Cho nên tàu mới đến Bờ Hồ từ trên toa tôi đã hỏi rất to một cách bâng quơ: "Tàu nào vào Ngã Tư Sở đó các bác ơi?".
    Có nhiều tiếng đáp của các em nhỏ: "Ðây, đây, lại đây ông ơi!". Mừng quá, tôi đi về phía các em. Tôi được nghe những lời nói chân tình: "Chúng cháu cũng về chuyến này, ông ạ!". Rồi các em chìa tay dìu tôi lên và hỏi ríu rít: "Ông về đâu ạ?". "Ông xuống đoạn nào ạ?". Những tiếng ạ luôn vang lên tai tôi đã nói lên đầy đủ nếp sống văn hoá. Khi lấy lại tiền vé thừa cho tôi, các em ân cần đưa tận tay, nói rành rõ: "Ðây là tờ 5 hào, đây là tờ 2 hào, ông ạ!". Ngồi trên toa, tôi lắng nghe các em nói chuyện, đôi khi tranh cãi sôi nổi với những lý lẽ sắc bén về bố cục, về đường vét về màu sắc một bức tranh nào đó của danh hoạ Picasso, Levitan, Tô Ngọc Vân... khiến tôi tin là các em vừa được học ở một lớp học vẽ nào đó.
    Gần đến gò Ðống Ða, trước khi xuống, các em chào từ biệt tôi kèm theo lời dặn dò: "Chúng cháu xuống đây. Ông chuẩn bị đến chỗ đỗ sắp tới là Ngã Tư Sở đó ạ!". Dứt khoát đó không phải là sự bột phát, ngẫu nhiên mà có nguồn gốc từ xa xưa. Bất giác, tôi liên tưởng tới trí tuệ thông minh của người Âu Việt, Lạc Việt mà tiêu biểu nền văn minh đó là kỹ thuật đúc trống đồng. Dù phải trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, rồi gần trăm năm hết Pháp, Nhật, đến Mỹ xâm chiếm, nhưng ngoài trí tuệ thông minh và lòng dũng cảm, nhân dân ta còn biết chắt lọc, lược bỏ đi những gì là cổ hủ, lạc hậu. Và tiếp thu những tinh hoa của các nền văn minh lớn của nhân loại: "Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp, Nhật, Mỹ... để tạo nên một sắc thái độc đáo vừa tài hoa, vừa thanh lịch Việt Nam mà kết tinh là ở thủ đô Hà Nội".
    Người Hà Nội thanh lịch biết tuỳ nghi sử dụng các kiểu quần khăn mũ, hài hoà màu sắc, phù hợp với hoàn cảnh công việc hoặc nghi lễ... khác hẳn lối tuỳ tiện Âu Mỹ, dự quốc lễ vẫn ăn mặc hở hang như dạo mát trên bãi biển. Hoặc ăn uống xô bồ không cần để ý tới ai, cứ nhồm nhoàm nhai, mút tay mỡ chùn chụt... dù đó là giữa hội nghị văn học quốc tế (xem "Một thời lầm lỗi" của Lê Lựu sang thăm Mỹ 1989). Người Hà Nội rất hay "xin lỗi" dù họ chẳng có lỗi. Có một hôm tôi đang ngồi nói chuyện với ông anh họ, bác gái ở trong nhà đi ra, khẽ né mình rồi nói nhẹ.
    Người Hà Nội cũng hay nói "cảm ơn". Mua sách báo xong cũng "cảm ơn". Cắt tóc, bơm xe xong, dù trả tiền rồi, vẫn "cảm ơn". Sự cảm ơn lẫn nhau tạo nên một không khí ấm áp tình người, làm cho ta tạm quên giây phút những vất vả cuộc đời.
    Những dẫn chứng trên, dẫu sao vẫn chỉ là sơ lược những nét duyên dáng thanh lịch của người Hà Nội
    Mai Khánh (Người Hà Nội)
  10. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    NÉT ÐẸP VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI HÀ NỘI THANH LỊCH​
    Hà Nội, thủ đô một đất nước có bốn ngàn năm văn hiến. Nơi hội tụ những tài năng, những trí tuệ tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Từ xa xưa, đã được nhân dân cả nước ca ngợi: "Ngàn năm văn vật đất Thăng Long" hoặc "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An"...
    Những câu mến yêu đó nhằm nói về những nét đẹp văn hoá trong cử chỉ, lời ăn tiếng nói và hành động của người Thăng Long, người kinh kỳ, kẻ chợ, người Hà Nội, người thủ đô.
    Xin được lược kê đôi nét về cử chỉ:
    Hào hoa mà không kênh kiệu, khoe vẻ giàu sang.
    Phong nhã mà không lề mề, chậm chạp, lù dù.
    Linh hoạt mà không xấc xược, láu lỉnh, kệch cỡm.
    Vui tươi duyên dáng mà không suồng sã, lẳng lơ.
    Vừa thông minh, lịch thiệp mà không ba hoa, hời hợt.
    Vừa chững chạc, khiêm nhường, vừa ân cần, tế nhị... khiến cho ai đó mỗi khi gặp gỡ, giao thiệp đều cảm thấy hài lòng, quý trọng và cảm kích những giây phút hội ngộ đầy thoải mái. Khi ra về vẫn luyến tiếc và mong sao có dịp tái ngộ, hàn huyên.
    Khi gặp người quen thì tươi cười chào hỏi, dù người đó ít tuổi hơn, vai vế trong họ hàng và xã hội có kém hơn... Lại càng chủ động hỏi han ân cần để kẻ dưới khỏi tủi thân hoặc chê trách.
    Trái lại, đối với người có chức, quyền cao hoặc giàu sang thì người Hà Nội thanh lịch có ý lảng tránh... để khỏi mắc tiếng "Thấy người sang bắt quàng làm họ". Bởi họ biết rõ đó là của phù vân, là quyền chức "nhất thời".
    Nhưng, đối với các vị đáng bậc cha chú, người Hà Nội thanh lịch phải ngả mũ chào, tỏ lòng tôn kính với mong muốn được phụ giúp việc gì đó có ích để các bậc trên được hài lòng về con cháu.
    Trong mối quan hệ bạn bè nam nữ, thanh niên Hà Nội làm quen với phái nữ bằng những cử chỉ và lời nói lịch sự tế nhị biểu lộ một chiều sâu tâm hồn trong sáng, một trí tuệ thông minh... Chinh phục ai đó bằng hành động cao thượng, bằng sự cảm mến, quý trọng, tận hưởng.
    Còn các thanh nữ thủ đô thuỳ mị, duyên dáng kín đáo. Yêu ai, ghét ai cũng để trong lòng. Nhưng cô ấy khinh bỉ ra mặt những kẻ ăn nói thô lỗ, bỉ ổi, sỗ sàng, ăn nói huênh hoang "trưởng giả học làm sang".
    Phụ nữ Hà Nội thanh lịch được tiếp xúc rộng rãi biết phân biệt người có tài, có đức với kẻ ba hoa con ông cháu cha, áo quần bảnh bao, ăn tiêu xa hoa khoe của. Các nàng chỉ cười bằng ánh mắt. Lấy nón che nghiêng hoặc khăn che miệng khi tủm tỉm cười. Họ rất sợ đi với bạn quen lối cười hô hố, cười toe toét rũ rượi, ảnh hưởng lây tới tư cách mình.
    Lời nói và giọng nói thanh thiếu nữ Hà Nội đến là dễ nghe, bởi chất dịu dàng, duyên dáng, kèm theo chữ ạ rất nhỏ cuối mỗi câu, nghe sao mà xao xuyên. Ví dụ:
    - "Thưa ông, mẹ cháu xin gửi lại ông tờ báo ạ!".
    - "Thưa thầy, thầy giảng giúp cho em bài này ạ!"
    - "Chị ơi! Ðây có phải nhà bác A không ạ?"
    Nghe vậy ai nỡ nào trả lời cộc lốc, hững hờ được.
    Những bữa cỗ đông người dự, người Hà Nội thanh lịch bao giờ cũng gắp những miếng ngon nhất mời các vị cao tuổi với lời lẽ trân trọng: "Xin mời cụ nếm thử ạ!". Sau cùng, mới nhận miếng nhỏ nhất cho mình.
    Ðến dự lễ cưới với thái độ vui tươi, nhưng không lợi dụng sự mừng vui ấy mà rượu chè say khướt và nói năng bừa bãi, khôi hài bằng những câu dung tục, rẻ tiền.
    Còn đi dự lễ tang, dù thân hay sơ, người Hà Nội có văn hoá không phì phèo thuốc lá, trò chuyện oang oang, cười nói nhởn nhơ, mà phải có cử chỉ, nét mặt u buồn tỏ ý chia sẻ nỗi đau thương. Khi đi đường gặp đám tang, người Hà Nội đều ngả mũ chào linh hồn người quá cố.
    Ðến bệnh viên thăm bệnh nhân, thăm hỏi ân cần, nhẹ nhàng... Khỏi phiền người khác đang đau mệt cần yên tĩnh.
    Những nét đẹp "văn hoá" không chỉ dành riêng cho thanh niên hoặc người nhiều tuổi. Nó thấm sâu, lan rộng tới các em thiếu niên, nhi đồng.
    Tôi xin kể mẩu chuyện này:
    Năm 1975 một buổi tối tôi đi tàu điện từ chợ Hôm lên Bờ Hồ lo không kịp chuyến tàu cuối vào Ngã Tư Sở. Cho nên tàu mới đến Bờ Hồ từ trên toa tôi đã hỏi rất to một cách bâng quơ: "Tàu nào vào Ngã Tư Sở đó các bác ơi?".
    Có nhiều tiếng đáp của các em nhỏ: "Ðây, đây, lại đây ông ơi!". Mừng quá, tôi đi về phía các em. Tôi được nghe những lời nói chân tình: "Chúng cháu cũng về chuyến này, ông ạ!". Rồi các em chìa tay dìu tôi lên và hỏi ríu rít: "Ông về đâu ạ?". "Ông xuống đoạn nào ạ?". Những tiếng ạ luôn vang lên tai tôi đã nói lên đầy đủ nếp sống văn hoá. Khi lấy lại tiền vé thừa cho tôi, các em ân cần đưa tận tay, nói rành rõ: "Ðây là tờ 5 hào, đây là tờ 2 hào, ông ạ!". Ngồi trên toa, tôi lắng nghe các em nói chuyện, đôi khi tranh cãi sôi nổi với những lý lẽ sắc bén về bố cục, về đường vét về màu sắc một bức tranh nào đó của danh hoạ Picasso, Levitan, Tô Ngọc Vân... khiến tôi tin là các em vừa được học ở một lớp học vẽ nào đó.
    Gần đến gò Ðống Ða, trước khi xuống, các em chào từ biệt tôi kèm theo lời dặn dò: "Chúng cháu xuống đây. Ông chuẩn bị đến chỗ đỗ sắp tới là Ngã Tư Sở đó ạ!". Dứt khoát đó không phải là sự bột phát, ngẫu nhiên mà có nguồn gốc từ xa xưa. Bất giác, tôi liên tưởng tới trí tuệ thông minh của người Âu Việt, Lạc Việt mà tiêu biểu nền văn minh đó là kỹ thuật đúc trống đồng. Dù phải trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, rồi gần trăm năm hết Pháp, Nhật, đến Mỹ xâm chiếm, nhưng ngoài trí tuệ thông minh và lòng dũng cảm, nhân dân ta còn biết chắt lọc, lược bỏ đi những gì là cổ hủ, lạc hậu. Và tiếp thu những tinh hoa của các nền văn minh lớn của nhân loại: "Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp, Nhật, Mỹ... để tạo nên một sắc thái độc đáo vừa tài hoa, vừa thanh lịch Việt Nam mà kết tinh là ở thủ đô Hà Nội".
    Người Hà Nội thanh lịch biết tuỳ nghi sử dụng các kiểu quần khăn mũ, hài hoà màu sắc, phù hợp với hoàn cảnh công việc hoặc nghi lễ... khác hẳn lối tuỳ tiện Âu Mỹ, dự quốc lễ vẫn ăn mặc hở hang như dạo mát trên bãi biển. Hoặc ăn uống xô bồ không cần để ý tới ai, cứ nhồm nhoàm nhai, mút tay mỡ chùn chụt... dù đó là giữa hội nghị văn học quốc tế (xem "Một thời lầm lỗi" của Lê Lựu sang thăm Mỹ 1989). Người Hà Nội rất hay "xin lỗi" dù họ chẳng có lỗi. Có một hôm tôi đang ngồi nói chuyện với ông anh họ, bác gái ở trong nhà đi ra, khẽ né mình rồi nói nhẹ.
    Người Hà Nội cũng hay nói "cảm ơn". Mua sách báo xong cũng "cảm ơn". Cắt tóc, bơm xe xong, dù trả tiền rồi, vẫn "cảm ơn". Sự cảm ơn lẫn nhau tạo nên một không khí ấm áp tình người, làm cho ta tạm quên giây phút những vất vả cuộc đời.
    Những dẫn chứng trên, dẫu sao vẫn chỉ là sơ lược những nét duyên dáng thanh lịch của người Hà Nội
    Mai Khánh (Người Hà Nội)

Chia sẻ trang này