1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cùng tìm hiểu về Hà Nội xưa và nay

Chủ đề trong 'Public Hà Nội' bởi GodFatherHN, 07/02/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0

    HÀ NỘI BA MƯƠI SÁU PHỐ PHƯỜNG - Thạch Lam
    Quà ... Tức Là Người
    Chúng ta đaf lâ?n lượt điê?m qua các thức qua? rong ơ? Ha? Nội, ca? qua? ngọt như đươ?ng mía lâfn qua? nặm như muối Trương Lâfm. Tất ca? nhưfng thứ qua? đó chứng to? cái thay đô?i lắm ma?u cu?a sự thươ?ng thức cu?a ngươ?i Ha? Nội, cái phong phú va? cái tế nhị vô cu?ng. Có ca? một chút ưa thích cái quá nóng, cái rơ?n rợn, thế na?o nhi?? Ca? một chút ta? hiếu nưfa. Ớt thi? thích ớt rất cay, ca? cuống thi? rất hăng, chanh thi? ưa thứ chanh non cốm. Trong cái chua dấm dứt cu?a nước bún ốc, trong cái béo ngậy ngọt cu?a thịt lươn, trong cái vị khai nô?ng cu?a sứa đo?, biết đón hươ?ng cái thú mi?nh la?m ghê mi?nh, như ăn chua với gư?ng, khế dấm với nước mắm, chứ không thă?ng thắn, không thật tha? như qua? mộc mạc va? gia?n dị các nơi la?m bă?ng gạo mới, đôf na?nh nhưfng món qua? lương thiện không đánh lư?a vị miệng va? dạ da?y. Nhưfng ngươ?i cu?a Ha? Nội ba mươi sáu phố phươ?ng phức tạp hơn, va? đáng yêu hơn cu?ng vi? chôf ấy.
    Nga?y trước, nga?y tôi co?n nho?, đaf được thươ?ng thức một thứ qua? rong đặc biệt gọi la? bánh bật cươ?i. Gói qua? phong giấy tựa như phong thuốc la?o, nhưng phô?ng hơn. Giá cufng re?; có một xu hai phong. Ke? bán ha?ng la? một ngươ?i có tuô?i, mất sắc va? miệng tươi, đon đa? mơ?i cha?o các cậu bé ơ? trươ?ng vê? hay thơ thâ?n chơi ơ? vệ he?. Ấy hi?nh dung ngươ?i đa?n ba? ấy tôi chi? có nhớ được có thế, vi? không ai được trông thấy ngươ?i ấy hai lâ?n.
    Xin mafi mới được đô?ng xu mới, tôi vội va?ng va? hí hư?ng ra mua thứ bánh lạ lu?ng ấy. Đem vê? mơ? ra khoe với mẹ, thi? chi? thấy bay ra ...hai con ruô?i. Nó bay đi mất. Tôi ôm mặt khóc, co?n ca? nha? thi? nô?i lên cươ?i. Nhưng tươ?ng mất một xu mua được một trận cươ?i (tuy cươ?i mi?nh) tươ?ng cufng la? không đắt va? con mụ kia thật đáng thươ?ng tiê?n vi? đaf biết đánh trúng va?o các lo?ng ham lạ cu?a tre? con Ha? Nội.
    Nhưng cái tục lệ đẹp đef ấy nay mất dâ?n đi ... Sự sa?nh ăn va? cái thươ?ng thức cu?a ngươ?i nơi văn vật đaf kém sắc sa?o, ý nhị rô?i chăng? Có thê? mới ra đơ?i được nhưfng thứ phục linh cấu xanh đo? va? nhây nhớt, nhưfng thứ kem "Việt Nam" va? "Ha?i Pho?ng" va? "Thượng Ha?i" va? trăm thứ ba? dă?n vư?a nhạt vư?a tanh, cái thứ ghê gớm "che? trân châu! glacé"; co?n có thứ kẹo rắn như đá núi Cai Kinh cu?a chú Khách đập hai tho?i sắt va?o nhau la?m hiệu, cái thú thịt bo? khô với cu? ca?i (hay đu đu??) đâ?m đậm, chế thêm ít phâ?m đo?, một thứ qua? bâ?n thi?u va? độc vô cu?ng ma? các học tro? Ha? Nội hay ưa thích ... Tôi co?n tha hơn cái thứ "kẹo vư?ng, kẹo bột" nga?y xưa tuy nó không ngon, nhưng ít ra cufng đem lại cho phố phươ?ng Ha? Nội cái tiếng rao kéo da?i va? hơi buô?n cu?a luf tre? bán ha?ng.
    Người Hà Nội

  2. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0

    HÀ NỘI BA MƯƠI SÁU PHỐ PHƯỜNG - Thạch Lam
    Quà ... Tức Là Người
    Chúng ta đaf lâ?n lượt điê?m qua các thức qua? rong ơ? Ha? Nội, ca? qua? ngọt như đươ?ng mía lâfn qua? nặm như muối Trương Lâfm. Tất ca? nhưfng thứ qua? đó chứng to? cái thay đô?i lắm ma?u cu?a sự thươ?ng thức cu?a ngươ?i Ha? Nội, cái phong phú va? cái tế nhị vô cu?ng. Có ca? một chút ưa thích cái quá nóng, cái rơ?n rợn, thế na?o nhi?? Ca? một chút ta? hiếu nưfa. Ớt thi? thích ớt rất cay, ca? cuống thi? rất hăng, chanh thi? ưa thứ chanh non cốm. Trong cái chua dấm dứt cu?a nước bún ốc, trong cái béo ngậy ngọt cu?a thịt lươn, trong cái vị khai nô?ng cu?a sứa đo?, biết đón hươ?ng cái thú mi?nh la?m ghê mi?nh, như ăn chua với gư?ng, khế dấm với nước mắm, chứ không thă?ng thắn, không thật tha? như qua? mộc mạc va? gia?n dị các nơi la?m bă?ng gạo mới, đôf na?nh nhưfng món qua? lương thiện không đánh lư?a vị miệng va? dạ da?y. Nhưfng ngươ?i cu?a Ha? Nội ba mươi sáu phố phươ?ng phức tạp hơn, va? đáng yêu hơn cu?ng vi? chôf ấy.
    Nga?y trước, nga?y tôi co?n nho?, đaf được thươ?ng thức một thứ qua? rong đặc biệt gọi la? bánh bật cươ?i. Gói qua? phong giấy tựa như phong thuốc la?o, nhưng phô?ng hơn. Giá cufng re?; có một xu hai phong. Ke? bán ha?ng la? một ngươ?i có tuô?i, mất sắc va? miệng tươi, đon đa? mơ?i cha?o các cậu bé ơ? trươ?ng vê? hay thơ thâ?n chơi ơ? vệ he?. Ấy hi?nh dung ngươ?i đa?n ba? ấy tôi chi? có nhớ được có thế, vi? không ai được trông thấy ngươ?i ấy hai lâ?n.
    Xin mafi mới được đô?ng xu mới, tôi vội va?ng va? hí hư?ng ra mua thứ bánh lạ lu?ng ấy. Đem vê? mơ? ra khoe với mẹ, thi? chi? thấy bay ra ...hai con ruô?i. Nó bay đi mất. Tôi ôm mặt khóc, co?n ca? nha? thi? nô?i lên cươ?i. Nhưng tươ?ng mất một xu mua được một trận cươ?i (tuy cươ?i mi?nh) tươ?ng cufng la? không đắt va? con mụ kia thật đáng thươ?ng tiê?n vi? đaf biết đánh trúng va?o các lo?ng ham lạ cu?a tre? con Ha? Nội.
    Nhưng cái tục lệ đẹp đef ấy nay mất dâ?n đi ... Sự sa?nh ăn va? cái thươ?ng thức cu?a ngươ?i nơi văn vật đaf kém sắc sa?o, ý nhị rô?i chăng? Có thê? mới ra đơ?i được nhưfng thứ phục linh cấu xanh đo? va? nhây nhớt, nhưfng thứ kem "Việt Nam" va? "Ha?i Pho?ng" va? "Thượng Ha?i" va? trăm thứ ba? dă?n vư?a nhạt vư?a tanh, cái thứ ghê gớm "che? trân châu! glacé"; co?n có thứ kẹo rắn như đá núi Cai Kinh cu?a chú Khách đập hai tho?i sắt va?o nhau la?m hiệu, cái thú thịt bo? khô với cu? ca?i (hay đu đu??) đâ?m đậm, chế thêm ít phâ?m đo?, một thứ qua? bâ?n thi?u va? độc vô cu?ng ma? các học tro? Ha? Nội hay ưa thích ... Tôi co?n tha hơn cái thứ "kẹo vư?ng, kẹo bột" nga?y xưa tuy nó không ngon, nhưng ít ra cufng đem lại cho phố phươ?ng Ha? Nội cái tiếng rao kéo da?i va? hơi buô?n cu?a luf tre? bán ha?ng.
    Người Hà Nội

  3. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    HÀ NỘI BA MƯƠI SÁU PHỐ PHƯỜNG - Thạch Lam
    Những Chốn Ăn Chơi
    Muốn biết rof một tha?nh phố, không câ?n pha?i biết nhưfng lâu đa?i myf thuật, nhưfng nha? ba?o ta?ng, nhưfng tơ? báo hay nhưfng nha? văn, nhưng câ?n pha?i biết nhưfng chốn ma? dân tha?nh phố ấy ăn chơi. Ăn va? chơi, pha?i, đó la? hai điê?u ha?nh động ma?trong ấy ngươ?i ta to? rof cái tâm ti?nh, cái linh hô?n mi?nh một cách chân thực nhất.
    Với lại đó không pha?i la? hai cái ha?nh động cốt yếu cu?a đơ?i ư? Trong sự ăn chơi, có ca? dấu hiệu cu?a dân tha?nh thị, ca? nhưfng tật xấu hay nết hay, nhưfng cái yếu he?n cufng nhưfng cái kiêu ngạo.
    Biết ăn va? biết chơi, không pha?i la? dêf da?ng như ngươ?i ta tươ?ng. Va? chính bơ?i tư? xưa đến nay, sự ăn chơi ơ? nước ta bị khinh miệt, bị de? bi?u, nhưng ngươ?i ta vâfn cứ pha?i chịu theo luật lệ chặt chef, nên cách ăn, chơi cu?a ngươ?i mi?nh mới luộm thuộm, va? câ?u tha?, va? tục tă?n, rô?i ngược lại, có một a?nh hươ?ng xấu xa đến tất ca? cuộc đơ?i, ca? xaf hội.
    Ô?, nhưng ma? tư? nafy đến giơ? tôi nói được nhưfng gi? nhi?? Thôi, vứt bo? quách nhưfng lơ?i ba?n phiếm, nhưfng tư tươ?ng khó khăn ấy đi. Chúng ta hafy đê? ý quan sát bọn ngươ?i ngô?i ăn trong hiệu kia, nhận xét nhưfng cư? chi?, nhưfng nét mặt, va? nhưfng tiếng cươ?i cu?a họ. Một cách câ?m đufa, một cách đưa lên húp canh, ba?o cho ta biết nhiê?u vê? một hạng ngươ?i hơn la? trăm pho sách. Va? nhất la? nhưfng thức ma? họ ăn ...Ba?o cho tôi biết ăn gi?, tôi sef nói anh la? ngươ?i thế na?o.
    Ha? Nội la? động tiên nga,
    Sáu giơ? tắt hết đe?n xa đe?n gâ?n,
    Vui nhất la? chợ Đông Xuân.
    Trước khi nói đến nhưfng nơi ăn chơi cu?a Ha? Nội, tươ?ng cufng như dạo qua chợ Đô?ng Xuân, cái "bụng" cu?a tha?nh phố,la? nơi ma? nhưfng vật liệu câ?n cho các cao lâu tư? các vu?ng quê va? ngoại ô? đến. Ơ? đây, chúng ta được thấy các thực phâ?m co?n giưf nguyên hi?nh trước khi biến tha?nh nhưfng món xa?o nấu ngon la?nh dưới tay các đâ?u bếp nô?i danh hay các ba? nội trợ. Tất ca? cu?a ngon vật lạ các nơi đê?u đem đến đây, đê? hiến cho sự thươ?ng thức sa?nh so?i cu?a ngươ?i Ha? Nội.
    Có lef ti?m được nhiê?u cái hay, nếu chịu khó tính xem dân Ha? Nội một nga?y tiêu thụ bao nhiêu thứ, bao nhiêu thịt. Nhưng ơ? đây không pha?i la? cuộc điê?u tra, cufng không pha?i la? một ba?i phóng sự. Cho nên, nói đến chợ Đô?ng Xuân, tôi muốn tri?nh ba?y cái hi?nh thức khác, cái ve? riêng tất nập, cái không khí ô?n a?o, cái ma?u sắc đặc biệt, hơn la? tính cách cu?ng xấu tốt cu?a các thức ăn kia. Chợ Đô?ng Xuân la? chợ cu?a ngươ?i Ha? Nội, không giống các chợ nha? quê, ma? cufng không giống các chợ Bến Tha?nh Sa?i Go?n, hay Chợ Mới ơ? Chợ Lớn. Bạn haong va?o trong chợ một nga?y phiên, va? đê? mắt ngắm nhi?n cu?ng nhận xét; tư? ngươ?i buôn ke? bán, cho đến nhưfng ngươ?i mua; tư? bác bô?i bếp, cậu nho?, cô sen, cho đến các ba? sa?nh so?i hay các cô thiếu nưf rụt re? sợ hớ, tất ca? chư?ng ấy ngươ?i hoạt động trước mắt ta, hi?ng dáng phức tạp va? thu nho? lại cu?a xaf hội ngươ?i Phươ?ng Phố. Không có bức tranh na?o linh hoạt va? thắm ma?u hơn.
    Người Hà Nội
  4. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    HÀ NỘI BA MƯƠI SÁU PHỐ PHƯỜNG - Thạch Lam
    Những Chốn Ăn Chơi
    Muốn biết rof một tha?nh phố, không câ?n pha?i biết nhưfng lâu đa?i myf thuật, nhưfng nha? ba?o ta?ng, nhưfng tơ? báo hay nhưfng nha? văn, nhưng câ?n pha?i biết nhưfng chốn ma? dân tha?nh phố ấy ăn chơi. Ăn va? chơi, pha?i, đó la? hai điê?u ha?nh động ma?trong ấy ngươ?i ta to? rof cái tâm ti?nh, cái linh hô?n mi?nh một cách chân thực nhất.
    Với lại đó không pha?i la? hai cái ha?nh động cốt yếu cu?a đơ?i ư? Trong sự ăn chơi, có ca? dấu hiệu cu?a dân tha?nh thị, ca? nhưfng tật xấu hay nết hay, nhưfng cái yếu he?n cufng nhưfng cái kiêu ngạo.
    Biết ăn va? biết chơi, không pha?i la? dêf da?ng như ngươ?i ta tươ?ng. Va? chính bơ?i tư? xưa đến nay, sự ăn chơi ơ? nước ta bị khinh miệt, bị de? bi?u, nhưng ngươ?i ta vâfn cứ pha?i chịu theo luật lệ chặt chef, nên cách ăn, chơi cu?a ngươ?i mi?nh mới luộm thuộm, va? câ?u tha?, va? tục tă?n, rô?i ngược lại, có một a?nh hươ?ng xấu xa đến tất ca? cuộc đơ?i, ca? xaf hội.
    Ô?, nhưng ma? tư? nafy đến giơ? tôi nói được nhưfng gi? nhi?? Thôi, vứt bo? quách nhưfng lơ?i ba?n phiếm, nhưfng tư tươ?ng khó khăn ấy đi. Chúng ta hafy đê? ý quan sát bọn ngươ?i ngô?i ăn trong hiệu kia, nhận xét nhưfng cư? chi?, nhưfng nét mặt, va? nhưfng tiếng cươ?i cu?a họ. Một cách câ?m đufa, một cách đưa lên húp canh, ba?o cho ta biết nhiê?u vê? một hạng ngươ?i hơn la? trăm pho sách. Va? nhất la? nhưfng thức ma? họ ăn ...Ba?o cho tôi biết ăn gi?, tôi sef nói anh la? ngươ?i thế na?o.
    Ha? Nội la? động tiên nga,
    Sáu giơ? tắt hết đe?n xa đe?n gâ?n,
    Vui nhất la? chợ Đông Xuân.
    Trước khi nói đến nhưfng nơi ăn chơi cu?a Ha? Nội, tươ?ng cufng như dạo qua chợ Đô?ng Xuân, cái "bụng" cu?a tha?nh phố,la? nơi ma? nhưfng vật liệu câ?n cho các cao lâu tư? các vu?ng quê va? ngoại ô? đến. Ơ? đây, chúng ta được thấy các thực phâ?m co?n giưf nguyên hi?nh trước khi biến tha?nh nhưfng món xa?o nấu ngon la?nh dưới tay các đâ?u bếp nô?i danh hay các ba? nội trợ. Tất ca? cu?a ngon vật lạ các nơi đê?u đem đến đây, đê? hiến cho sự thươ?ng thức sa?nh so?i cu?a ngươ?i Ha? Nội.
    Có lef ti?m được nhiê?u cái hay, nếu chịu khó tính xem dân Ha? Nội một nga?y tiêu thụ bao nhiêu thứ, bao nhiêu thịt. Nhưng ơ? đây không pha?i la? cuộc điê?u tra, cufng không pha?i la? một ba?i phóng sự. Cho nên, nói đến chợ Đô?ng Xuân, tôi muốn tri?nh ba?y cái hi?nh thức khác, cái ve? riêng tất nập, cái không khí ô?n a?o, cái ma?u sắc đặc biệt, hơn la? tính cách cu?ng xấu tốt cu?a các thức ăn kia. Chợ Đô?ng Xuân la? chợ cu?a ngươ?i Ha? Nội, không giống các chợ nha? quê, ma? cufng không giống các chợ Bến Tha?nh Sa?i Go?n, hay Chợ Mới ơ? Chợ Lớn. Bạn haong va?o trong chợ một nga?y phiên, va? đê? mắt ngắm nhi?n cu?ng nhận xét; tư? ngươ?i buôn ke? bán, cho đến nhưfng ngươ?i mua; tư? bác bô?i bếp, cậu nho?, cô sen, cho đến các ba? sa?nh so?i hay các cô thiếu nưf rụt re? sợ hớ, tất ca? chư?ng ấy ngươ?i hoạt động trước mắt ta, hi?ng dáng phức tạp va? thu nho? lại cu?a xaf hội ngươ?i Phươ?ng Phố. Không có bức tranh na?o linh hoạt va? thắm ma?u hơn.
    Người Hà Nội
  5. empty1

    empty1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2004
    Bài viết:
    29
    Đã được thích:
    0
    Bác heongoc ơi, bác có biết chuyện về Tháp rùa không? theo em hiểu thì Tháp Rùa không phải đã có từ thời Lê Lợi trả gươm. Đứa bạn nó hỏi mà em không biết.
  6. empty1

    empty1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2004
    Bài viết:
    29
    Đã được thích:
    0
    Bác heongoc ơi, bác có biết chuyện về Tháp rùa không? theo em hiểu thì Tháp Rùa không phải đã có từ thời Lê Lợi trả gươm. Đứa bạn nó hỏi mà em không biết.
  7. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    Xin trả lời bạn bằng bài viết của Nguyễn Dư:
    Hồ Hoàn Kiếm, tháp Rùa và đền Ngọc Sơn là một cụm thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội mà có lẽ người Việt Nam nào cũng biết. Biết tận mắt hay biết qua sách báo, màn hình.
    Sự tích hồ Hoàn Kiếm
    Truyền thuyết kể rằng Lê Lợi được trời cho thanh bảo kiếm, đứng lên dẹp giặc Minh. Dẹp giặc xong, Lê Lợi lên làm vua. Một hôm, vua Lê Thái Tổ dạo thuyền trên hồ, bị một con Rùa Vàng lấy lại thanh kiếm. Từ đó hồ có tên là hồ Hoàn Kiếm.
    Truyền thuyết đẹp và giản dị. Chỉ có ba nhân vật là Lê Lợi, thanh kiếm và con rùa. Thế mà các văn bản cũng không thống nhất.
    Sách Tang thương ngẫu lục soạn từ đời Gia Long (1802-1819), kể chuyện Hồ Hoàn Kiếm như sau:
    "Hồ Hoàn Kiếm ở bên cạnh phường Báo Thiên, thành Thăng Long, thông với nước ngoài sông, hình thể rất to rộng. Hồ này là nơi đức Thái Tổ Hoàng Đế (triều trước) đánh rơi thanh kiếm.
    Hồi Thái Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh gươm cổ. Khi làm vua, ngài thường vẫn đeo thanh gươm đó. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, chợt thấy một con ba-ba rất lớn nổi lên mặt nước, bắn nó không trúng. Ngài bèn lấy thanh gươm mà chỉ. Bất đồ, thanh kiếm rơi xuống nước mất, con ba-ba cũng lặn theo. Ngài giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp cái bờ ngang, tát hết nước để tìm, nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau nhân cái vết bờ ấy chia hồ ra làm hai: tả vọng, hữu vọng. Cuối đời Cảnh Hưng, bỗng có một vệt sáng từ cái đảo trong hồ vọt lên cao, sáng rực tan ra rồi tắt, người ta cho là thanh bảo kiếm bay đi "
    (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, bản dịch của Đạm Nguyên, Đại Nam, tr. 181).
    Năm 1873, Phạm Đình Bách vẽ Bản đồ Hà Nội. Đến năm 1916 nhà nước bảo hộ Pháp cho in tấm bản đồ này, kèm thêm một trang ghi chú bằng tiếng Pháp. Lời chú không nằm cùng với bản đồ, nên không biết có phải chính Phạm Đình Bách là tác giả không?
    "Lorsqu''il était encore étudiant, le roi Lê Thái Tổ trouva un jour sur le bord du petit lac une épée et s''en empara. Plus tard, comme roi d''Annam, se promenant en barque sur ce même lac, une énorme tortue sacrée sortit de l''eau et vint à lui, saisi de crainte le roi voulut l''éloigner avec l''épée trouvée; la tortue la lui prit et disparut. C''était une tortue génie ( de là le nom de Hồ Hoàn Kiếm )".
    ( Trong thời gian còn đi học, một hôm vua Lê Thái Tổ bắt được một thanh kiếm tại bờ hồ. Sau này, khi ngài đã lên làm vua, một hôm bơi thuyền dạo chơi trên hồ, có con rùa rất lớn nổi lên và bơi về phía ngài. Nhà vua sợ, rút kiếm đuổi rùa. Con rùa đớp thanh kiếm và lặn xuống nước. Đây là một con rùa thần. Từ đó đặt tên hồ là hồ Hoàn Kiếm) (Hanoi, Les cahiers de l'' Ipraus, 2001, tr. 98-99).
    Phạm Đình Bách (hoặc người nào khác) cho biết trước khi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Lợi có theo học tại Đông Đô (Hà Nội ngày nay) và đã bắt được thanh kiếm tại Bờ Hồ.
    Hai chi tiết này không ăn khớp với chính sử.
    Theo cả hai bản Lam Sơn thực lục hiện có, bản do chính Lê Thái Tổ viết (Nguyễn Diên Niên, Lê Văn Uông, Lam Sơn thực lục, Ty Văn Hoá Thanh Hoá, 1976, tr. 239) và bản đã bị Hồ Sĩ Dương sửa đổi (Viện Sử Học, Nguyễn Trãi toàn tập, Khoa Học Xã Hội, 1976, tr. 46-47), thì trước ngày khởi nghĩa Lê Lợi làm phụ đạo ở Khả Lam (Lam Sơn).
    Lam Sơn thực lục kể chuyện Lê Thận ở Mục Sơn (Thanh Hóa), làm nghề đánh cá, một hôm quăng lưới kéo lên được một lưỡi kiếm. Lê Lợi đánh đổi được lưỡi kiếm này. Một hôm khác Lê Lợi bắt được một chuôi kiếm ở gốc cây đa. Lắp lưỡi kiếm vào chuôi thì thấy vừa khít. Lê Lợi nghĩ rằng trời đã trao cho mình thanh bảo kiếm, từ đó mới nuôi ý khởi nghĩa.
    Chưa thấy văn bản nào khác của ta nói rằng Lê Lợi theo học hoặc có mặt tại Đông Đô trước ngày khởi nghĩa.
    Chung quanh hồ Hoàn Kiếm còn nhiều truyền thuyết khác.
    "Vua Lê Lợi khi mới khởi binh gặp được một ngọn gươm thần. Nhờ đó mà làm nên sự nghiệp. Sau ra chơi tại hồ đó, có con quái đón đầu thuyền. Vua lấy gươm đâm, con quái hả miệng nuốt mất ngọn kiếm. Vua Lê Lợi suy từ đó" (Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954).
    Diên Hương không đả động tới rùa thần mà chỉ nói tới một con quái nuốt mất gươm thần.
    Theo chính sử thì Lê Lợi làm vua được 6 năm (1428-1433), thanh thế đương thời rất lớn. Đến mấy đời vua sau Lê Lợi, nhà Lê mới bắt đầu suy.
    "Un beau jour de 1418, une tortue d'' or surgie du lac lui ten*** une magnifique épée. Il y vit un signe du ciel et partit libérer le pays. Sa mission accomplie, il revint sur les lieux de son initiation pour offrir un sacrifice de gratitude à la divinité lacustre. Au moment où la cérémonie commençait, un puissant coup de tonnerre retentit; l'' épée jaillit de son fourreau, tournoya en l''air et retomba dans le bec de la tortue d''or qui s''enfuit dans les profondeurs du lac, appelé depuis lors le lac de l''Épée restituée (Hoàn Kiếm)".
    (Một ngày năm 1418, một con rùa vàng nổi lên trên mặt hồ và dâng (Lê Lợi) một thanh gươm báu. Ngài biết đây là mệnh trời bèn đứng lên giải phóng non sông. Khởi nghĩa thành công, ngài đến nơi được thần giúp để làm lễ tạ ơn. Đúng lúc cuộc lễ bắt đầu, một tiếng sét nổ vang trời; thanh kiếm của ngài tuột khỏi vỏ, quay vần vũ trên trời rồi rơi vào miệng một con rùa vàng. Rùa lặn sâu xuống đáy hồ. Từ đó hồ được gọi là Hồ Hoàn Kiếm)
    (Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, tr. 115).
    Ý kiến của Papin tương tự như lời chú của tấm bản đồ Phạm Đình Bách.
    Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu năm 1418, Lê Lợi và các đồng chí của ông đang gặp nhiều khó khăn ở vùng Lam Sơn. Lê Lợi không thể có mặt ở bờ hồ để nhận kiếm thần được.
    Trong một cuốn sách khác Philippe Papin lại kể rằng:
    "Il (le lac de Hoàn Kiếm) doit son nom à la légende selon laquelle Lê Lợi y aurait pêché une épée magique; muni de cette arme, il chassa les Chinois Ming et fonda, sous le nom de règne de Lê Thái Tổ, la dynastie des Lê postérieurs (1428-1788). Au cours de la cérémonie qu''il offrit à l''occasion de sa victoire, l''épée miraculeuse jaillit d''elle-même du fourreau et se métamorphosa en un dragon de jade qui disparut dans le lac. D''autres versions attribuent à une tortue le soin d ''offrir et de reprendre l''épée".
    (Tên (hồ Hoàn Kiếm) do truyền thuyết kể rằng Lê Lợi bắt được một thanh kiếm thần tại đây. Với thanh kiếm này Lê Lợi đã đánh đuổi được quân Minh và lên làm vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ, lập ra nhà Hậu Lê (1428-1788). Trong buổi lễ mừng chiến thắng, thanh kiếm thần của vua Lê Thái Tổ bỗng tuột khỏi vỏ, hoá thành con rồng ngọc, rồi lặn biến trong hồ. Cũng có người cho rằng Lê Thái Tổ được một con rùa trao cho và lấy lại thanh kiếm thần) ( Docteur Hocquard , Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 232 ).
    Ở đoạn trên, Lê Thái Tổ trả kiếm cho Rùa vàng. Ở đoạn sau, thanh kiếm tự biến thành Rồng ngọc rồi lặn xuống hồ.
    Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán (Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, 1975, tr.39-40) tìm hiểu rất sâu xa ý nghĩa hồ Hoàn Kiếm:
    "Sử Lý-Trần hầu như chẳng nói đến hồ Gươm (?).
    "Chuyện "Trả gươm thần ", người Hà Nội nghe kể đã nhiều, song ý nghĩa câu chuyện thì chưa mấy ai đào sâu tìm hiểu. Trên đại thể, người ta cho truyền thuyết ấy kể việc Lê Lợi được gươm thần đề chữ "Thuận Thiên" từ nước : ý trời trao sứ mệnh cho người anh hùng đứng lên xướng nghĩa cứu dân, giúp nước, quét giặc ngoại xâm. Mười năm khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, người anh hùng lên làm vua, đi thuyền trên hồ, trời sai Rùa Vàng hiện lên lấy lại thanh gươm. Chủ đề bất tuyệt : "Chiến tranh và Hòa bình"?
    "Thực ra đấy là vang bóng của một mẫu đề thần thoại và một lễ tiết cổ xưa. Nếu về mặt chính trị-xã hội, thanh gươm là biểu tượng của quyền uy thì về mặt thần thoại-lễ thức, thanh gươm là biểu tượng của Tia chớp-Lửa. (?) Nhúng gươm xuống nước là nghi lễ biểu thị sự hòa hợp Nước-Lửa, một nghi lễ phồn thực. Lại vì gươm là tượng trưng của chớp lửa nên nghi lễ nhúng gươm xuống nước cũng là một nghi lễ chống lụt (?).
    "Sự tích hồ Gươm-gắn liền với một vị anh hùng lịch sử Lê Lợi-là sự diễn tả về mặt thần thoại một lễ nghi cổ xưa chung cho cả vùng Đông Nam Á : nghi lễ chống lụt và cầu mong sự hài hòa của non nước ?".

    Đúng là thời Lý-Trần không có ai nói đến hồ Gươm vì nơi đây còn là vùng hồ ao đầm lầy. Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm theo truyền thuyết đến đời Lê Thái Tổ mới có.
    Chủ đề "chiến tranh và hòa bình", "nghi lễ phồn thực", "nghi lễ chống lụt" của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán thật là đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, một truyền thuyết dân gian mà có ba lối giải thích thuộc ba lĩnh vực khác nhau thì có nhiều quá không? Hay là qua biểu tượng Lê Lợi trả gươm thần, cũng như biểu tượng Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời sau khi dẹp giặc Ân, dân gian chỉ muốn ca tụng người anh hùng cầm gươm đánh giặc, giặc tan thì cất gươm đi?
    Từ giữa thế kỉ 17, Trịnh Tạc xây phủ chúa Trịnh riêng, tách ra khỏi cung điện của vua Lê trong thành Thăng Long. Vì hồ Hoàn Kiếm nằm về bên trái phủ chúa nên gọi là hồ Tả Vọng (Bùi Thiết, Từ điển Hà Nội-địa danh, Văn Hóa Thông Tin, 1993, tr. 393).
    Dưới thời các chúa Trịnh, thế kỉ 17-18, hồ Hoàn Kiếm có tên là hồ Thuỷ Quân vì các chúa Trịnh thường diễn tập quân thuỷ trong khu vực hồ (Bùi Thiết, sđd, tr. 435). Có thuyết nói rằng tên hồ Thuỷ Quân đã có từ đời Trần.
    Nhưng, bản đồ của Phạm Đình Bách (1873, đời Tự Đức) lại cho thấy hồ Hoàn Kiếm và hồ Thuỷ Quân là hai hồ khác nhau:
    -Lac de Thuỷ Quân sur lequel les marins du Roi s''exerçaient à la manoeuvre des armes (Hồ Thuỷ Quân là nơi lính thuỷ của nhà vua tập trận ).
    Một tấm bản đồ khác do Biệt Lam vẽ năm 1956, phỏng theo bản đồ năm 1866 và 1873, cũng cho thấy hồ Thuỷ Quân và hồ Hoàn Kiếm là hai hồ khác nhau, cách nhau khá xa (Hanoi, sđd, tr.80).
    Điều này có thể được hiểu là:
    Đời Trịnh, hồ Hoàn Kiếm được chia thành hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Đời Tự Đức (1847-1883), hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm, hồ Hữu Vọng được gọi là hồ Thuỷ Quân
    Bắt đầu từ năm 1884 nhà nước bảo hộ Pháp giữ lại hồ Hoàn Kiếm, lấp dần hồ Thuỷ Quân để xây dựng, mở mang thành phố Hà Nội.
    Hồ Hoàn Kiếm ngày xưa còn có tên là Lục Thuỷ, Hàng Hương (Hoàng Đạo Thúy, Đi thăm Đất Nước, Văn Hóa, 1978, tr. 55).

  8. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    Xin trả lời bạn bằng bài viết của Nguyễn Dư:
    Hồ Hoàn Kiếm, tháp Rùa và đền Ngọc Sơn là một cụm thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội mà có lẽ người Việt Nam nào cũng biết. Biết tận mắt hay biết qua sách báo, màn hình.
    Sự tích hồ Hoàn Kiếm
    Truyền thuyết kể rằng Lê Lợi được trời cho thanh bảo kiếm, đứng lên dẹp giặc Minh. Dẹp giặc xong, Lê Lợi lên làm vua. Một hôm, vua Lê Thái Tổ dạo thuyền trên hồ, bị một con Rùa Vàng lấy lại thanh kiếm. Từ đó hồ có tên là hồ Hoàn Kiếm.
    Truyền thuyết đẹp và giản dị. Chỉ có ba nhân vật là Lê Lợi, thanh kiếm và con rùa. Thế mà các văn bản cũng không thống nhất.
    Sách Tang thương ngẫu lục soạn từ đời Gia Long (1802-1819), kể chuyện Hồ Hoàn Kiếm như sau:
    "Hồ Hoàn Kiếm ở bên cạnh phường Báo Thiên, thành Thăng Long, thông với nước ngoài sông, hình thể rất to rộng. Hồ này là nơi đức Thái Tổ Hoàng Đế (triều trước) đánh rơi thanh kiếm.
    Hồi Thái Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh gươm cổ. Khi làm vua, ngài thường vẫn đeo thanh gươm đó. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, chợt thấy một con ba-ba rất lớn nổi lên mặt nước, bắn nó không trúng. Ngài bèn lấy thanh gươm mà chỉ. Bất đồ, thanh kiếm rơi xuống nước mất, con ba-ba cũng lặn theo. Ngài giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp cái bờ ngang, tát hết nước để tìm, nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau nhân cái vết bờ ấy chia hồ ra làm hai: tả vọng, hữu vọng. Cuối đời Cảnh Hưng, bỗng có một vệt sáng từ cái đảo trong hồ vọt lên cao, sáng rực tan ra rồi tắt, người ta cho là thanh bảo kiếm bay đi "
    (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, bản dịch của Đạm Nguyên, Đại Nam, tr. 181).
    Năm 1873, Phạm Đình Bách vẽ Bản đồ Hà Nội. Đến năm 1916 nhà nước bảo hộ Pháp cho in tấm bản đồ này, kèm thêm một trang ghi chú bằng tiếng Pháp. Lời chú không nằm cùng với bản đồ, nên không biết có phải chính Phạm Đình Bách là tác giả không?
    "Lorsqu''il était encore étudiant, le roi Lê Thái Tổ trouva un jour sur le bord du petit lac une épée et s''en empara. Plus tard, comme roi d''Annam, se promenant en barque sur ce même lac, une énorme tortue sacrée sortit de l''eau et vint à lui, saisi de crainte le roi voulut l''éloigner avec l''épée trouvée; la tortue la lui prit et disparut. C''était une tortue génie ( de là le nom de Hồ Hoàn Kiếm )".
    ( Trong thời gian còn đi học, một hôm vua Lê Thái Tổ bắt được một thanh kiếm tại bờ hồ. Sau này, khi ngài đã lên làm vua, một hôm bơi thuyền dạo chơi trên hồ, có con rùa rất lớn nổi lên và bơi về phía ngài. Nhà vua sợ, rút kiếm đuổi rùa. Con rùa đớp thanh kiếm và lặn xuống nước. Đây là một con rùa thần. Từ đó đặt tên hồ là hồ Hoàn Kiếm) (Hanoi, Les cahiers de l'' Ipraus, 2001, tr. 98-99).
    Phạm Đình Bách (hoặc người nào khác) cho biết trước khi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Lợi có theo học tại Đông Đô (Hà Nội ngày nay) và đã bắt được thanh kiếm tại Bờ Hồ.
    Hai chi tiết này không ăn khớp với chính sử.
    Theo cả hai bản Lam Sơn thực lục hiện có, bản do chính Lê Thái Tổ viết (Nguyễn Diên Niên, Lê Văn Uông, Lam Sơn thực lục, Ty Văn Hoá Thanh Hoá, 1976, tr. 239) và bản đã bị Hồ Sĩ Dương sửa đổi (Viện Sử Học, Nguyễn Trãi toàn tập, Khoa Học Xã Hội, 1976, tr. 46-47), thì trước ngày khởi nghĩa Lê Lợi làm phụ đạo ở Khả Lam (Lam Sơn).
    Lam Sơn thực lục kể chuyện Lê Thận ở Mục Sơn (Thanh Hóa), làm nghề đánh cá, một hôm quăng lưới kéo lên được một lưỡi kiếm. Lê Lợi đánh đổi được lưỡi kiếm này. Một hôm khác Lê Lợi bắt được một chuôi kiếm ở gốc cây đa. Lắp lưỡi kiếm vào chuôi thì thấy vừa khít. Lê Lợi nghĩ rằng trời đã trao cho mình thanh bảo kiếm, từ đó mới nuôi ý khởi nghĩa.
    Chưa thấy văn bản nào khác của ta nói rằng Lê Lợi theo học hoặc có mặt tại Đông Đô trước ngày khởi nghĩa.
    Chung quanh hồ Hoàn Kiếm còn nhiều truyền thuyết khác.
    "Vua Lê Lợi khi mới khởi binh gặp được một ngọn gươm thần. Nhờ đó mà làm nên sự nghiệp. Sau ra chơi tại hồ đó, có con quái đón đầu thuyền. Vua lấy gươm đâm, con quái hả miệng nuốt mất ngọn kiếm. Vua Lê Lợi suy từ đó" (Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954).
    Diên Hương không đả động tới rùa thần mà chỉ nói tới một con quái nuốt mất gươm thần.
    Theo chính sử thì Lê Lợi làm vua được 6 năm (1428-1433), thanh thế đương thời rất lớn. Đến mấy đời vua sau Lê Lợi, nhà Lê mới bắt đầu suy.
    "Un beau jour de 1418, une tortue d'' or surgie du lac lui ten*** une magnifique épée. Il y vit un signe du ciel et partit libérer le pays. Sa mission accomplie, il revint sur les lieux de son initiation pour offrir un sacrifice de gratitude à la divinité lacustre. Au moment où la cérémonie commençait, un puissant coup de tonnerre retentit; l'' épée jaillit de son fourreau, tournoya en l''air et retomba dans le bec de la tortue d''or qui s''enfuit dans les profondeurs du lac, appelé depuis lors le lac de l''Épée restituée (Hoàn Kiếm)".
    (Một ngày năm 1418, một con rùa vàng nổi lên trên mặt hồ và dâng (Lê Lợi) một thanh gươm báu. Ngài biết đây là mệnh trời bèn đứng lên giải phóng non sông. Khởi nghĩa thành công, ngài đến nơi được thần giúp để làm lễ tạ ơn. Đúng lúc cuộc lễ bắt đầu, một tiếng sét nổ vang trời; thanh kiếm của ngài tuột khỏi vỏ, quay vần vũ trên trời rồi rơi vào miệng một con rùa vàng. Rùa lặn sâu xuống đáy hồ. Từ đó hồ được gọi là Hồ Hoàn Kiếm)
    (Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, tr. 115).
    Ý kiến của Papin tương tự như lời chú của tấm bản đồ Phạm Đình Bách.
    Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu năm 1418, Lê Lợi và các đồng chí của ông đang gặp nhiều khó khăn ở vùng Lam Sơn. Lê Lợi không thể có mặt ở bờ hồ để nhận kiếm thần được.
    Trong một cuốn sách khác Philippe Papin lại kể rằng:
    "Il (le lac de Hoàn Kiếm) doit son nom à la légende selon laquelle Lê Lợi y aurait pêché une épée magique; muni de cette arme, il chassa les Chinois Ming et fonda, sous le nom de règne de Lê Thái Tổ, la dynastie des Lê postérieurs (1428-1788). Au cours de la cérémonie qu''il offrit à l''occasion de sa victoire, l''épée miraculeuse jaillit d''elle-même du fourreau et se métamorphosa en un dragon de jade qui disparut dans le lac. D''autres versions attribuent à une tortue le soin d ''offrir et de reprendre l''épée".
    (Tên (hồ Hoàn Kiếm) do truyền thuyết kể rằng Lê Lợi bắt được một thanh kiếm thần tại đây. Với thanh kiếm này Lê Lợi đã đánh đuổi được quân Minh và lên làm vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ, lập ra nhà Hậu Lê (1428-1788). Trong buổi lễ mừng chiến thắng, thanh kiếm thần của vua Lê Thái Tổ bỗng tuột khỏi vỏ, hoá thành con rồng ngọc, rồi lặn biến trong hồ. Cũng có người cho rằng Lê Thái Tổ được một con rùa trao cho và lấy lại thanh kiếm thần) ( Docteur Hocquard , Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 232 ).
    Ở đoạn trên, Lê Thái Tổ trả kiếm cho Rùa vàng. Ở đoạn sau, thanh kiếm tự biến thành Rồng ngọc rồi lặn xuống hồ.
    Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán (Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, 1975, tr.39-40) tìm hiểu rất sâu xa ý nghĩa hồ Hoàn Kiếm:
    "Sử Lý-Trần hầu như chẳng nói đến hồ Gươm (?).
    "Chuyện "Trả gươm thần ", người Hà Nội nghe kể đã nhiều, song ý nghĩa câu chuyện thì chưa mấy ai đào sâu tìm hiểu. Trên đại thể, người ta cho truyền thuyết ấy kể việc Lê Lợi được gươm thần đề chữ "Thuận Thiên" từ nước : ý trời trao sứ mệnh cho người anh hùng đứng lên xướng nghĩa cứu dân, giúp nước, quét giặc ngoại xâm. Mười năm khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, người anh hùng lên làm vua, đi thuyền trên hồ, trời sai Rùa Vàng hiện lên lấy lại thanh gươm. Chủ đề bất tuyệt : "Chiến tranh và Hòa bình"?
    "Thực ra đấy là vang bóng của một mẫu đề thần thoại và một lễ tiết cổ xưa. Nếu về mặt chính trị-xã hội, thanh gươm là biểu tượng của quyền uy thì về mặt thần thoại-lễ thức, thanh gươm là biểu tượng của Tia chớp-Lửa. (?) Nhúng gươm xuống nước là nghi lễ biểu thị sự hòa hợp Nước-Lửa, một nghi lễ phồn thực. Lại vì gươm là tượng trưng của chớp lửa nên nghi lễ nhúng gươm xuống nước cũng là một nghi lễ chống lụt (?).
    "Sự tích hồ Gươm-gắn liền với một vị anh hùng lịch sử Lê Lợi-là sự diễn tả về mặt thần thoại một lễ nghi cổ xưa chung cho cả vùng Đông Nam Á : nghi lễ chống lụt và cầu mong sự hài hòa của non nước ?".

    Đúng là thời Lý-Trần không có ai nói đến hồ Gươm vì nơi đây còn là vùng hồ ao đầm lầy. Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm theo truyền thuyết đến đời Lê Thái Tổ mới có.
    Chủ đề "chiến tranh và hòa bình", "nghi lễ phồn thực", "nghi lễ chống lụt" của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán thật là đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, một truyền thuyết dân gian mà có ba lối giải thích thuộc ba lĩnh vực khác nhau thì có nhiều quá không? Hay là qua biểu tượng Lê Lợi trả gươm thần, cũng như biểu tượng Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời sau khi dẹp giặc Ân, dân gian chỉ muốn ca tụng người anh hùng cầm gươm đánh giặc, giặc tan thì cất gươm đi?
    Từ giữa thế kỉ 17, Trịnh Tạc xây phủ chúa Trịnh riêng, tách ra khỏi cung điện của vua Lê trong thành Thăng Long. Vì hồ Hoàn Kiếm nằm về bên trái phủ chúa nên gọi là hồ Tả Vọng (Bùi Thiết, Từ điển Hà Nội-địa danh, Văn Hóa Thông Tin, 1993, tr. 393).
    Dưới thời các chúa Trịnh, thế kỉ 17-18, hồ Hoàn Kiếm có tên là hồ Thuỷ Quân vì các chúa Trịnh thường diễn tập quân thuỷ trong khu vực hồ (Bùi Thiết, sđd, tr. 435). Có thuyết nói rằng tên hồ Thuỷ Quân đã có từ đời Trần.
    Nhưng, bản đồ của Phạm Đình Bách (1873, đời Tự Đức) lại cho thấy hồ Hoàn Kiếm và hồ Thuỷ Quân là hai hồ khác nhau:
    -Lac de Thuỷ Quân sur lequel les marins du Roi s''exerçaient à la manoeuvre des armes (Hồ Thuỷ Quân là nơi lính thuỷ của nhà vua tập trận ).
    Một tấm bản đồ khác do Biệt Lam vẽ năm 1956, phỏng theo bản đồ năm 1866 và 1873, cũng cho thấy hồ Thuỷ Quân và hồ Hoàn Kiếm là hai hồ khác nhau, cách nhau khá xa (Hanoi, sđd, tr.80).
    Điều này có thể được hiểu là:
    Đời Trịnh, hồ Hoàn Kiếm được chia thành hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Đời Tự Đức (1847-1883), hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm, hồ Hữu Vọng được gọi là hồ Thuỷ Quân
    Bắt đầu từ năm 1884 nhà nước bảo hộ Pháp giữ lại hồ Hoàn Kiếm, lấp dần hồ Thuỷ Quân để xây dựng, mở mang thành phố Hà Nội.
    Hồ Hoàn Kiếm ngày xưa còn có tên là Lục Thuỷ, Hàng Hương (Hoàng Đạo Thúy, Đi thăm Đất Nước, Văn Hóa, 1978, tr. 55).

  9. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    Tháp Rùa
    Bảng chú bản đồ Phạm Đình Bách cho biết:
    - Đình chúa Trịnh: Pagode élevée sous les Lê à la mémoire des Trịnh (đình chúa Trịnh được xây dưới thời Lê để tưởng nhớ các chúa Trịnh).
    Đình chúa Trịnh nằm tại địa điểm tháp Rùa.
    Nguyễn Khắc Ngữ cũng đồng ý với Phạm Đình Bách: "Một trong những kiểu kiến trúc thời Lê còn để lại là tháp Rùa hồ Hoàn Kiếm" (Nguyễn Khắc Ngữ, Mỹ thuật cổ truyền, theo bài Tháp Rùa có từ khi nào? của Nguyên Thắng, Đoàn Kết, tháng tư, 1984).
    Bùi Thiết cho biết:
    "Tòa tháp tọa lạc trên gò Rùa xế về phía nam hồ Hoàn Kiếm, nên gọi là tháp Rùa. Nguyên là đình Tả Vọng do các chúa Trịnh dựng trên gò Rùa giữa hồ Tả Vọng, gọi là đình Tả Vọng. Cuối thế kỷ XVIII vì tin thuyết phong thuỷ, Bá hộ Kim nhận sửa lại đình Tả Vọng để nhân đó táng hài cốt cha mẹ xuống dưới; Việc không thành, nhưng đình Tả Vọng vẫn được sửa lại để có quy cách như hiện nay" (sđd, tr. 383).
    "Ngôi đình do các chúa Trịnh sai xây trên gò Rùa giữa hồ Tả Vọng (tức hồ Hoàn Kiếm) để làm nơi hóng mát và duyệt quân thuỷ. Vì đình nằm trong hồ Tả Vọng nên có tên gọi. Cuối thế kỷ XIX Bá Kim xin được xây thêm một tầng trên tòa đình Tả Vọng để có quy mô như tháp Rùa ngày nay" (sđd, tr. 393-394).
    Tiền thân của tháp Rùa là đình Tả Vọng.
    "Cái đình này làm từ đời Trịnh Căn (chúa thứ tư trong dòng họ Trịnh) là một lầu hai tầng, tầng trên là một cái lầu vuông bốn mái cong có đắp bốn con rồng bò quay đầu lại?Lầu quay lưng hướng nam theo ý nghĩa làm vua quay mặt về phương nam, không chầu lại vua, không thần phục vua Lê, vì vậy bên trên cửa có để ba chữ Tả Vọng Đình". (Chu Thiên, Bóng nước hồ Gươm, theo Nguyên Thắng, sđd).
    Nhưng, một bài Hồ Hoàn Kiếm khác của sách Tang thương ngẫu lục (sđd, tr. 32-33) kể rằng:
    "Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng (1786), đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía nam rồi biến mất.
    Sau đó sóng gió ầm ầm nổi lên? Sáng hôm sau, thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sáng tỏa ra tứ phía, rồi tự nhiên tắt ngấm.
    Sau đó ít lâu, nhà Lê mất nước".

    Nguyễn Khắc Ngữ nói rằng Tháp Rùa ngày nay có từ thời Lê. Phạm Đình Bách cho biết tại đảo Rùa có đình chúa Trịnh được xây dưới thời Lê. Bùi Thiết và Chu Thiên cũng đồng ý rằng các chúa Trịnh đã cho xây đình Tả Vọng trên đảo. Chỉ có Tang thương ngẫu lục là không nói đến công trình xây cất nào trên cái đảo giữa hồ Hoàn Kiếm này. Khó có thể cho rằng các tác giả Tang thương ngẫu lục quên cái đình chúa Trịnh hay cái đình Tả Vọng bởi vì trong bài có nói tới cái nhà Trung Hòa Đường trong phủ chúa Trịnh (nằm gần hồ Hoàn Kiếm) thì không thể không nói tới cái đình do chúa Trịnh xây trên đảo Rùa, nơi đang xảy ra điềm lạ.
    Hay là đình đã bị đổ nát, năm 1786 không còn dấu vết gì? Giả thuyết này cũng khó đứng vững bởi vì đình do chúa Trịnh xây thì không thể bị huỷ hoại ngay từ thời chúa Trịnh còn nắm quyền được.
    Hay là đình Tả Vọng được xây sau năm 1786 ?
    Sử chép rằng Nguyễn Huệ "phò Lê, diệt Trịnh", năm 1786 chấm dứt chế độ cai trị của họ Trịnh. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, lên làm vua, lập ra nhà Nguyễn Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt nhà Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn.
    Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đều không quý mến gì các chúa Trịnh. Không thể có chuyện nhà Tây Sơn hay nhà Nguyễn (trong khoảng từ 1786 đến 1873) xây đình để tưởng nhớ chúa Trịnh.
    Tóm lại, qua hai bài Hồ Hoàn Kiếm của Tang thương ngẫu lục thì phải thừa nhận rằng đến cuối đời Cảnh Hưng (1786, tức là năm Nguyễn Huệ chấm dứt sự nghiệp các chúa Trịnh) trên đảo Rùa không có đình chúa Trịnh hay đình Tả Vọng.
    Nói cách khác, đình Tả Vọng hay đình chúa Trịnh không phải được xây tại đảo Rùa. Có thể tại một đảo khác, cũng nằm trong hồ Hoàn Kiếm.
  10. heongoc

    heongoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.132
    Đã được thích:
    0
    Tháp Rùa
    Bảng chú bản đồ Phạm Đình Bách cho biết:
    - Đình chúa Trịnh: Pagode élevée sous les Lê à la mémoire des Trịnh (đình chúa Trịnh được xây dưới thời Lê để tưởng nhớ các chúa Trịnh).
    Đình chúa Trịnh nằm tại địa điểm tháp Rùa.
    Nguyễn Khắc Ngữ cũng đồng ý với Phạm Đình Bách: "Một trong những kiểu kiến trúc thời Lê còn để lại là tháp Rùa hồ Hoàn Kiếm" (Nguyễn Khắc Ngữ, Mỹ thuật cổ truyền, theo bài Tháp Rùa có từ khi nào? của Nguyên Thắng, Đoàn Kết, tháng tư, 1984).
    Bùi Thiết cho biết:
    "Tòa tháp tọa lạc trên gò Rùa xế về phía nam hồ Hoàn Kiếm, nên gọi là tháp Rùa. Nguyên là đình Tả Vọng do các chúa Trịnh dựng trên gò Rùa giữa hồ Tả Vọng, gọi là đình Tả Vọng. Cuối thế kỷ XVIII vì tin thuyết phong thuỷ, Bá hộ Kim nhận sửa lại đình Tả Vọng để nhân đó táng hài cốt cha mẹ xuống dưới; Việc không thành, nhưng đình Tả Vọng vẫn được sửa lại để có quy cách như hiện nay" (sđd, tr. 383).
    "Ngôi đình do các chúa Trịnh sai xây trên gò Rùa giữa hồ Tả Vọng (tức hồ Hoàn Kiếm) để làm nơi hóng mát và duyệt quân thuỷ. Vì đình nằm trong hồ Tả Vọng nên có tên gọi. Cuối thế kỷ XIX Bá Kim xin được xây thêm một tầng trên tòa đình Tả Vọng để có quy mô như tháp Rùa ngày nay" (sđd, tr. 393-394).
    Tiền thân của tháp Rùa là đình Tả Vọng.
    "Cái đình này làm từ đời Trịnh Căn (chúa thứ tư trong dòng họ Trịnh) là một lầu hai tầng, tầng trên là một cái lầu vuông bốn mái cong có đắp bốn con rồng bò quay đầu lại?Lầu quay lưng hướng nam theo ý nghĩa làm vua quay mặt về phương nam, không chầu lại vua, không thần phục vua Lê, vì vậy bên trên cửa có để ba chữ Tả Vọng Đình". (Chu Thiên, Bóng nước hồ Gươm, theo Nguyên Thắng, sđd).
    Nhưng, một bài Hồ Hoàn Kiếm khác của sách Tang thương ngẫu lục (sđd, tr. 32-33) kể rằng:
    "Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng (1786), đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía nam rồi biến mất.
    Sau đó sóng gió ầm ầm nổi lên? Sáng hôm sau, thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sáng tỏa ra tứ phía, rồi tự nhiên tắt ngấm.
    Sau đó ít lâu, nhà Lê mất nước".

    Nguyễn Khắc Ngữ nói rằng Tháp Rùa ngày nay có từ thời Lê. Phạm Đình Bách cho biết tại đảo Rùa có đình chúa Trịnh được xây dưới thời Lê. Bùi Thiết và Chu Thiên cũng đồng ý rằng các chúa Trịnh đã cho xây đình Tả Vọng trên đảo. Chỉ có Tang thương ngẫu lục là không nói đến công trình xây cất nào trên cái đảo giữa hồ Hoàn Kiếm này. Khó có thể cho rằng các tác giả Tang thương ngẫu lục quên cái đình chúa Trịnh hay cái đình Tả Vọng bởi vì trong bài có nói tới cái nhà Trung Hòa Đường trong phủ chúa Trịnh (nằm gần hồ Hoàn Kiếm) thì không thể không nói tới cái đình do chúa Trịnh xây trên đảo Rùa, nơi đang xảy ra điềm lạ.
    Hay là đình đã bị đổ nát, năm 1786 không còn dấu vết gì? Giả thuyết này cũng khó đứng vững bởi vì đình do chúa Trịnh xây thì không thể bị huỷ hoại ngay từ thời chúa Trịnh còn nắm quyền được.
    Hay là đình Tả Vọng được xây sau năm 1786 ?
    Sử chép rằng Nguyễn Huệ "phò Lê, diệt Trịnh", năm 1786 chấm dứt chế độ cai trị của họ Trịnh. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, lên làm vua, lập ra nhà Nguyễn Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt nhà Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn.
    Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đều không quý mến gì các chúa Trịnh. Không thể có chuyện nhà Tây Sơn hay nhà Nguyễn (trong khoảng từ 1786 đến 1873) xây đình để tưởng nhớ chúa Trịnh.
    Tóm lại, qua hai bài Hồ Hoàn Kiếm của Tang thương ngẫu lục thì phải thừa nhận rằng đến cuối đời Cảnh Hưng (1786, tức là năm Nguyễn Huệ chấm dứt sự nghiệp các chúa Trịnh) trên đảo Rùa không có đình chúa Trịnh hay đình Tả Vọng.
    Nói cách khác, đình Tả Vọng hay đình chúa Trịnh không phải được xây tại đảo Rùa. Có thể tại một đảo khác, cũng nằm trong hồ Hoàn Kiếm.

Chia sẻ trang này