1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979 và bình luận

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi cu-bo, 14/02/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Chiến tranh biên giới năm 1979: VN đã tuân thủ ý kiến TBT Lê Duẩn
    Hồng Chính Quang
    [​IMG]
    Lính Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng (Ảnh tư liệu)
    - Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới năm 1979, theo tướng Lê Mã Lương, chính Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc bài học về mặt chỉ huy chiến trường...


    Lời tòa soạn: Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.

    Nói về kết quả của cuộc chiến tranh biên giới, Thiếu tướng Lê Mã Lương cho rằng: “Chính Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc bài học về mặt chỉ huy chiến trường, dạy Trung Quốc về tổ chức chỉ huy binh chủng hợp thành, dạy cho Trung Quốc cách đánh phân đội nhỏ và những chiến thuật luồn sâu, chia cắt và chiến thuật bao vây, tiêu diệt những phân đội, đơn vị chiến đấu cơ bản của Trung Quốc. Chúng ta đã dạy cho Trung Quốc nhiều bài học chứ không phải như Đặng Tiểu Bình nói dạy cho Việt Nam một bài học”.

    Và thông qua cuộc phát động chiến tranh xâm lược 6 tỉnh biên giới Việt Nam, Trung Quốc đã ngộ ra nhiều điều. Trung Quốc đã mất một người bạn chiến lược, một người láng giềng hết sức thân thiện. Với ta, ta đã làm cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của quân Trung Quốc: “Biến bạn thành thù” và vô cớ phát động chiến tranh xâm lược dưới giọng điệu kiêu ngạo: “Dạy cho Việt Nam một bài học”, vu khống Việt Nam như kẻ vô ơn bạc nghĩa.

    Nhưng Trung Quốc đã không hình dung ra được cuộc chiến tranh đó đã khiến họ tổn thất rất lớn về mặt con người, về hình ảnh của đất nước với thế giới, uy tín của một nước lớn khi phát động chiến tranh để đánh lại một nước XHCN nhỏ hơn, yêu chuộng hòa bình như Việt Nam. Một cuộc chiến tranh thảm khốc và Trung Quốc không phải là người thắng cuộc.

    [​IMG]
    Các mũi tấn công Việt Nam của quân Trung Quốc tháng 2/1979
    Trung Quốc đã không khuất phục được Việt Nam. Cuộc chiến đó là một sự thất bại mà Trung Quốc không muốn nhắc lại nó. Đối với các quân nhân của quân đội Việt Nam, anh em chúng tôi bước vào cuộc chiến đó với tâm thế của người chiến thắng: Chiến thắng Mỹ và sẵn sàng đối đầu với một thế lực mới. Anh em cũng rất tự hào khi giành chiến thắng mặc dù chúng ta đã có những tổn thất không nhỏ về người và kinh tế.
    Tuy nhiên, cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc năm 1979 trước Trung Quốc đã làm cho chúng ta thấy được bản chất của Trung Quốc – Chủ nghĩa sôvanh nước lớn và luôn gây hấn với các nước xung quanh, luôn làm cho các nước xung quanh nghi ngờ, cảnh giác”.

    "Sau ngày 5/3/1979, Đặng Tiểu Bình quyết định dừng cuộc tiến công Việt Nam và rút quân. Theo tướng Lê Mã Lương, nếu ngày 5/3, Trung Quốc không rút quân thì Việt Nam sẽ đưa sư đoàn 312, đưa cơ động lên để bước vào cuộc chiến tiêu diệt cấp trung đoàn của Trung Quốc ở Lạng Sơn.

    Lúc bấy giờ, tôi được rút ra cùng một số cán bộ khác ở Bộ Tổng Tham mưu và đến làm nhiệm vụ đốc chiến Sư đoàn 312 để bước vào một trận đánh, một trận đánh thử nghiệm tiêu diệt cấp trung đoàn. Khi Đặng Tiểu Bình cho rút quân thì Sư đoàn 312 cũng án binh bất động rồi rút quân về phía sau.

    Quân đội Việt Nam cũng tuân thủ ý kiến của Tổng Bí thư Lê Duẩn là đảm bảo cho các đơn vị của Trung Quốc rút quân mà không có bất kỳ sự bao vây, ngăn chặn gây khó khăn nào cho các đơn vị của Trung Quốc. Chúng ta đã thực hiện điều đó nghiêm túc như trong lịch sử khi quân phương Bắc xâm lược thua trận kéo về nước mà không bị đánh tiếp. Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 là một cuộc chiến tranh hao người tốn của. Cuộc chiến đã để lại cho người Việt Nam một vết hằn, nỗi nhức nhối về Trung Quốc. Như vậy sau 30 năm chiến tranh giải phóng đất nước, chúng ta bước vào cuộc chiến mới 12 năm bảo vệ Tổ quốc và nâng thời gian chiến đấu liên tục của Việt Nam lên con số 42 năm – điều hi hữu đối với bất kỳ một dân tộc nào trên thế giới. Chúng ta đã chiến đấu hết sức kiên cường, giữ được nền độc lập của dân tộc".

    (còn nữa)
  2. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Biên cương nơi anh ngã xuống - Kỳ 4: Chuyện chưa kể về cột bia chiến thắng Khánh Khê
    Đã từ ba năm nay, vào mỗi dịp 27.7, lễ tri ân, tưởng niệm những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 được tổ chức tại nhà bia chiến thắng Khánh Khê (bản Pa Pách, xã Bình Trung, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn).
    [​IMG]
    Nhà bia Khánh Khê mới được khánh thành hai năm trước, đúng vào dịp 27.7.2012

    Trong cuộc chiến diễn ra 34 năm về trước, cũng như hàng loạt các cuộc xâm lược từ các triều đại phương Bắc xuống phía Nam từ hàng nghìn năm qua, Lạng Sơn tiếp tục là một trong những mục tiêu đánh chiếm chính yếu.

    Nằm yên bình trên một quả đồi nhỏ bên bờ sông Kỳ Cùng, nếu chỉ đọc những dòng chữ ngắn ngủi được khắc trên hai mặt tấm bia chiến thắng, có lẽ nhiều người không thể hình dung chính nơi đây hơn 34 năm về trước từng là một chiến trường ác liệt đầy máu xương của quân, dân ta trong việc gìn giữ từng tấc đất cha ông.

    Oai hùng Khánh Khê

    Ngày 17.2.1979, Trung Quốc ngang nhiên phát động cuộc chiến tranh xâm lược, xua 60 vạn quân mở cuộc tấn công quân sự quy mô lớn đánh vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Chiến sự nổ ra kéo dài suốt một dải từ Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn đến Quảng Ninh.

    Chiến thuật “lấy thịt đè người”, “đánh nhanh, thắng nhanh” của Trung Quốc hoàn toàn bị phá sản và đội quân xâm lược đã phải hứng chịu những tổn thất nặng nề.

    Ngày 19.2.1979, sư đoàn 337 (F337) đang trong giai đoạn huấn luyện, xây dựng lực lượng tại Quân khu 4 thì được điều động lên mặt trận Lạng Sơn. Mới được thành lập vào tháng 7.1978 trên cơ sở một đoàn kinh tế quốc phòng, nên khi nhận nhiệm vụ ra Bắc, F337 là một đơn vị cực kỳ non trẻ mới trải qua hơn 6 tháng huấn luyện.

    “Gọi là sư đoàn nhưng F337 mới có một trung đoàn đủ quân còn lại hầu hết là cán bộ khung, sức mạnh chiến đấu mới đạt khoảng 60%. Nhưng khi có lệnh, về mặt tinh thần sư đoàn hoàn toàn không bất ngờ, lãnh đạo không bị rối mà bình tĩnh bước vào trận đánh”, đại tá Nguyễn Chấn, nguyên chính ủy F337 nhớ lại.

    Sau cuộc hành quân thần tốc, vượt hơn 500 km vừa đi vừa bổ sung quân số, nhận thêm vũ khí từ Nghệ An, ngày 25.2 F337 đã đến vị trí tập kết tại Lạng Sơn. Sau chỉ một ngày “Đặt ba lô chưa kịp nghỉ chân/Đã bật dậy ầm ầm súng nổ” F337 đã chiếm lĩnh trận địa, đối mặt với quân thù. Nhiệm vụ của sư đoàn lúc đó được trên giao là ngăn chặn thê đội 2 của địch tấn công theo hướng đường 1B.



    [​IMG]
    Câu chuyện về việc phân giới cắm mốc sau này với Việt Nam đã cho thấy rằng khi Trung Quốc đã xâm chiếm được đất đai láng giềng thì rất khó để đuổi chúng đi hoặc nếu có đi cũng sẽ kèm theo những cái giá rất đắt

    [​IMG]
    Đại tá Nguyễn Chấn


    Ý đồ của địch là đánh vượt sông Kỳ Cùng, vu hồi về Sài Hồ và Đồng Mỏ để bao vây cô lập Lạng Sơn sau khi chiếm được.

    Lúc này ở hướng đường 1A quân Trung Quốc tập trung một lực lượng lớn nhằm bao vây thị xã Lạng Sơn, nếu ở hướng đường 1B địch vượt qua được cầu Khánh Khê thì Lạng Sơn sẽ hoàn toàn bị chia cắt.

    “Nếu chúng chiếm được Lạng Sơn, cuộc chiến tranh có nguy cơ sẽ còn kéo dài và khốc liệt hơn nữa chứ chúng không chịu dừng lại sau một tháng với tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học” đâu” - đại tá Nguyễn Chấn phân tích.

    Chính vì nhận thức được nhiệm vụ nặng nề nhưng cực kỳ quan trọng ấy những người lính của F337 cùng quân, dân huyện Văn Quan đã chiến đấu anh dũng, kiên cường bám trụ, quyết tâm chặn địch.

    Từ 28.2 - 5.3.1979 đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt. Với quân số áp đảo địch đã mở nhiều cuộc tấn công một mất một còn nhằm vượt sông đều bị ta đánh bật trở lại.

    Ở hướng đường 1A, ngày 4.3 một mũi tiến công của Trung Quốc thọc được vào thị xã Lạng Sơn nhưng ngay ngày 5.3.1979 địch đã phải tuyên bố rút quân trên toàn tuyến biên giới. Mặc dù vậy những cuộc giao tranh chặn địch ở khu vực cầu Khánh Khê còn kéo dài đến tận ngày 11.3.1979.

    Trong suốt 12 ngày đêm chống quân xâm lược tại tuyến phòng thủ này, ước tính đã có 2.000 tên địch bị tiêu diệt, 8 xe tăng địch bị phá. Quan trọng hơn cả, F337 đã hoàn thành nhiệm vụ, đập tan ý đồ bao vây chia cắt Lạng Sơn của địch.

    Trong 12 ngày đêm ấy đã có hơn 650 người lính của F337 đã ngã xuống. Nhưng không chỉ có vậy. Trong những cuộc xung đột nhỏ lẻ kéo dài đến giai đoạn 1985 những hi sinh của F337 cũng vô cùng to lớn.

    Theo đại tá Nguyễn Chấn, từ 2.1979-1985, đã có gần 1.000 cán bộ, chiến sĩ của F337, trong đó có rất nhiều người mới ở độ tuổi mười chín đôi mươi đã vĩnh viễn nằm lại để gìn giữ và bảo vệ cho mảnh đất thiêng liêng này.



    [​IMG]
    Tấm bia cũ



    Hành trình tấm bia lịch sử

    Theo đại tá Nguyễn Chấn, cuối năm 1979, đầu năm 1980, ngay tại vị trí đầu cầu Khánh Khê, sư đoàn 337 cùng quân, dân huyện Văn Quan đã xây dựng một cột bia chiến thắng để tưởng niệm những người đã hi sinh. Đã 34 năm trôi qua, nhưng đại tá Nguyễn Chấn vẫn nhớ như in câu chuyện về việc xây dựng cột bia ngày ấy.

    “Lúc đó tình hình vẫn còn rất căng thẳng, đất nước thì vô cùng khó khăn. Để kiếm được nguyên vật liệu xây dựng được cột bia cũng phải vận động chỗ này một chút, xin chỗ kia một chút, không hề dễ dàng gì. Ở bên kia biên giới quân xâm lược vẫn lăm le gây chiến và tiếp tục nhiều hành động phá hoại. Nhưng sư đoàn vẫn quyết làm bằng được vì đó thực sự là một công trình mang nhiều ý nghĩa”, đại tá Nguyễn Chấn nói.

    Cột bia chiến thắng Khánh Khê được xây dựng bằng gạch, xi măng cao 5 m, hai cạnh có kích thước 1,2 m x 1,5 m. Trên cột bia khắc dòng chữ: “TẠI ĐÂY, VÀO 3.1979 QUÂN, DÂN HUYỆN VĂN QUAN VÀ SƯ ĐOÀN 337 ĐÃ ĐÁNH BẠI VÀ CHẶN ĐỨNG QUÂN TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC”.

    Theo đại tá Nguyễn Chấn, cột bia Khánh Khê không chỉ là một cột bia kỷ niệm chiến thắng mà còn là cây cột thiêng để thờ và nhớ ơn các liệt sĩ đã ngã xuống. Cột bia ấy còn là cột mốc mang ý nghĩa chốt chặn, là cột mốc cảnh giác trước quân thù.

    Không những thế cột bia ấy còn là một biểu tượng mang tính răn đe với những kẻ vẫn còn mang dã tâm xâm lược, lấn chiếm đất đai của Việt Nam.

    "Chiến thắng Khánh Khê không phải là của riêng sư đoàn 337 mà đấy là xương máu chung của cả mặt trận, chiến thắng ấy cũng là một sự nối tiếp truyền thống những Bạch Đằng, Chi Lăng lịch sử. Nếu hiểu điều đó chúng ta mới thấy được ý nghĩa to lớn của chiến thắng này”, đại tá Nguyễn Chấn nói.

    Hơn ba năm sau khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ (1991), vào tháng 12.1994, F337 được điều động trở lại Quân khu 4 làm nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Năm 1999 Sư đoàn được chuyển thành Đoàn kinh tế Quốc phòng 337 làm nhiệm vụ tại Quảng Trị và đến nay vẫn mang tên “Đoàn Khánh Khê”.

    Tháng 2.2011 trong chuyến đi thu thập tư liệu biên soạn lịch sử sư đoàn, đại tá Đỗ Phấn Đấu, Chính ủy hiện tại của Sư đoàn 337 mới phát hiện ra rằng cột bia chiến thắng Khánh Khê đã bị hư hại nhiều. Trên tấm bia nhiều dòng chữ đã bị phai mờ, có chỗ còn có dấu hiệu bị hủy hoại. Nơi đặt cột bia cũng nằm trong khu vực xây dựng công trình thủy điện mà nay mai sẽ không còn dấu tích.

    Câu chuyện này đã được Thanh Niên phản ánh trong bài viết Lạng Sơn, những ngày tháng hai trong số báo ra ngày 5.3.2011. Từ sự phản hồi của dư luận, cũng như sự quyết tâm của các cựu chiến binh và những cán bộ F337 hiện tại và sự ủng hộ của tỉnh Lạng Sơn, nhà bia Khánh Khê được hoàn thành sau gần một năm rưỡi trải qua không ít khó khăn.

    Cũng chính tại quả đồi nơi vị trí đặt nhà bia hiện tại đã có 92 cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn 52 thuộc F337 hi sinh trong một trận đánh. Không chỉ trở thành địa chỉ hành hương truyền thống của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ F337, nhà bia chiến thắng Khánh Khê cũng đã được nhân dân địa phương chăm lo hương khói, và cũng là nơi gìn giữ, giáo dục truyền thống, đạo lý dân tộc.



    [​IMG]
    Nhà bia chiến thắng Khánh Khê được hoàn thành (tháng 7.2012)

    [​IMG]
    Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 337 tại lễ khánh thành nhà bia chiến thắng Khánh Khê

    [​IMG]
    Thắp hương tại bia chiến thắng Khánh Khê

    [​IMG]
    Đại tá Nguyễn Chấn, nguyên chính ủy Sư đoàn 337 thời kỳ chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (2.1979) tại lễ khánh thành nhà bia

    [​IMG]
    Đại tá Nguyễn Chấn (trái) và đại tá Đỗ Phấn Đấu, Chính ủy hiện tại Đoàn kinh tế quốc phòng 337





    ...Mười hai ngày đêm máu trộn đất rừng!

    Một trận thư hùng, vang trời sấm nổ

    Vạn tinh binh giặc cỏ, ngông cuồng như lũ trâu điên

    Cánh cửa thép Lạng Sơn, thế trận hiên ngang thành lũy

    Tổ quốc lại lần nữa ngân vang lời Đại cáo bình Ngô

    Dân tộc thêm một kỳ hừng hực khí Lam Sơn tụ nghĩa.

    Hỡi ôi!

    Để giang sơn sạch quân xâm lược, bao chiến sĩ kiên trinh ngã xuống đất này

    Cho biên cương yên ả thái bình, bao đứa con hiếu trung không được về với mẹ...

    Sông Kỳ Cùng đâu thể phách, đâu máu đỏ dòng xanh

    Rừng xứ Lạng đâu cốt nhục, đâu bụi mờ núi thẳm

    Máu xương các anh không hề uổng, bia ghi công sẽ sáng chói từng dòng

    Trận chiến ngày ấy không thể mờ, chuyện năm xưa đã tạc vào sách sử.

    (Trích bài văn Tưởng niệm liệt sĩ ở Khánh Khê do đại tá Đỗ Phấn Đấu, Chính ủy Đoàn kinh tế quốc phòng 337 đọc tại lễ khánh thành nhà bia Khánh Khê ngày 27.7.2012)



    Ng.Phong
    Connuocvietsu_30 thích bài này.
  3. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Biên cương nơi anh ngã xuống - Kỳ 5: ‘Chiến đấu’ giữa đời thường


    (TNO) Những người lính đã từng sống, chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc những năm 1979 - 1989 đều biết đến cái tên “Mặt trận Vị Xuyên, Hà Tuyên” và phiên hiệu của 1 đơn vị gắn bó với mảnh đất ấy: Sư đoàn 356, Quân khu 2.


    [​IMG]
    Cựu chiến binh Sư đoàn 356 thắp hương đồng đội tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên - Ảnh: Văn Thắng)

    Mấy chục năm sau cuộc chiến, những cựu chiến binh 356 vẫn tụ họp nhau trong các ban liên lạc sư đoàn tại một số địa phương và đều đặn gặp gỡ, tưởng nhớ, giúp đỡ đồng đội. Tôi đã gặp họ, ngay tại Hà Nội và chứng kiến cuộc chiến đấu với đời thường không kém phần gian nan.

    Ký ức cựu binh

    Đại tá Nguyễn Đức Cam, nguyên Phó sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Sư đoàn 356 đã nghỉ hưu (Cống Vị, Ba Đình) luôn được các cựu binh trong sư đoàn gọi là “Bố”. Nhà bố Cam trong ngõ, không mọc xanh rêu như nhiều lãnh đạo nghỉ hưu mà luôn ăm ắp tiếng cười và rôm rả chuyện của những người lính.

    Ngồi nói chuyện với tôi, bố Cam trầm ngâm: “Đưa thi hài anh em nằm trên Vị Xuyên về, tôi mới yên tâm!” và nghèn nghẹn: “Không nỗi đau nào bằng nỗi đau mất con!”, khiến các cựu binh Sư đoàn 356 chi hội Hà Nội im lặng, mắt ai cũng hoe hoe đỏ.

    Có lẽ chỉ đến lúc chết, những người lính Sư đoàn 356 mới thôi day dứt về ký ức tháng 7.1984 trong cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang với những trận đánh khốc liệt, máu xương viết thành các địa danh “Đồi thịt băm”, “Thung lũng gọi hồn”, “Lò vôi thế kỷ”…

    Cựu chiến binh Bùi Kim Vượng, nguyên trinh sát C20, Trung đoàn 149, hồi tưởng: “Ngày 12.7.1984 mở màn chiến dịch với trận đánh chiếm lại các điểm cao quân Trung Quốc đóng trái phép ở Vị Xuyên. Ngày 14.7, Sư đoàn 356 được lệnh rút khỏi trận địa. Sau trận đánh, ta không lấy lại được các cao điểm đã mất nhưng chặn được Trung Quốc thực hiện mưu đồ vượt qua ngã ba Thanh Thủy để tiến xuống thị xã Hà Giang” và kể: Mấy ngày sau đó, mưa liên tục. Do địa hình hiểm trở, bộ đội phải tháo dây võng đưa những tử sĩ dưới chân cao điểm về, riêng những người nằm gần trận địa quân Trung Quốc thì vĩnh viễn nằm lại.

    "Phía Trung Quốc bắn truyền đơn cho quân ta, cho đi lấy xác tử sĩ với yêu cầu đi vào ban ngày, không quá 50 người, chỉ mang cờ chữ thập. Dù thương anh em nằm lại, nhưng không ai dám đi vì sợ rơi vào ổ phục kích của chúng!", ông Vượng kể lại như vậy.

    Gần 600 người lính Sư đoàn 356 hy sinh trong ngày 12.7.1984, chỉ một phần trong số họ còn thi hài, được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên hoặc đưa về quê nhà, số đông còn lại vẫn nằm trên các điểm cao mù sương.

    Tập tễnh trên... “tum”, nỗi buồn Giếng Mứt



    Bây giờ, trên điểm cao thuộc xã Thanh Thủy, Hà Giang, những cựu chiến binh Sư đoàn 356 đã tự đóng góp xây dựng 1 miếu thờ nhỏ tưởng nhớ các đồng đội đã ngã xuống trong không chỉ tháng 7.1984 mà còn cả dằng dặc những năm chốt giữ, bảo vệ biên cương. Cứ dịp 12.7 hàng năm, các cựu binh lại tụ họp về Vị Xuyên, gọi đó là ngày “giỗ trận” - Ngày 27.7 của riêng sư đoàn, trên địa đầu đánh trả quân xâm lược, đỏ bầm 2 chữ máu: Vị Xuyên...



    Nếu không được dẫn đường, chắc tôi sẽ không tìm được nơi ở của cựu chiến binh Đào Mạnh Cường, trong khu tập thể ngõ 190 - Lò Đúc (phường Đống Mác, quận Hai Bà Trưng). Cái được gọi là căn nhà được anh mua góp lại với sự giúp đỡ của Hội Cựu chiến binh phường thực chất là chòi gác ngày xưa dành cho tự vệ trực phòng không, trên sân thượng ngôi nhà tập thể xây từ những năm 1960 với tổng diện tích 11 m2.

    Sinh năm 1964, vừa tròn 19 tuổi là chàng trai phố Lò Đúc vào bộ đội chốt giữ chiến trường Vị Xuyên, Hà Giang. Là lính cối 60 của C11, anh Cường trực tiếp tham gia chiến dịch MB84 đầu tháng 7.1984 và gắn bó với mảnh đất Vị Xuyên đến khi xuất ngũ (5.1986).

    Những cựu chiến binh C11 đến bây giờ vẫn thắc mắc: Người mỏng mảnh như lá, lấy sức đâu mà liên tục quăng quật trên trận địa cối, có khi nạp cả trăm quả đạn mỗi ngày, đến điếc đặc tai? Đã vậy, 1 lần về phía sau gùi ắc quy lên trận địa, bị pháo Trung Quốc nã vào đội hình, anh Cường ngã gục, nước axit trong ắc quy chảy tràn ra lưng đau buốt và vết thương không giống ai này, chỉ được xếp hạng... bệnh binh.

    Thế nhưng, vết thương bệnh binh vẫn còn lành chán so với nỗi chật vật kiếm sống sau xuất ngũ: ngày tập tễnh làm đủ nghề, tối về rúc trong căn nhà nhỏ hẹp của bố mẹ. Mãi đến 1995, anh Cường mới dám lấy vợ là chị Mai Bích Ngọc (sinh năm 1969), thời điểm ấy cũng vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại Trung đoàn Thông tin 26, Quân chủng Phòng không - Không quân.

    Mấy năm ở nhờ bố mẹ, vợ chồng anh Cường tạm được xem là “ổn định” khi chồng yên tâm với nghề xe ôm, vợ học may thuê và bồng bế 2 đứa trẻ sang tập thể ngõ 190 - Lò Đúc, tìm thuê căn chòi trên sân thượng ở riêng và giờ là nhà.

    Đồng đội anh Cường, cứ mỗi khi gặp nhau là lại thở dài: “Chồng lính pháo bị thoát vị đĩa đệm, vợ ngành thông tin lại dính bệnh tim. Đến bao giờ hết khổ?” và lẩn mẩn tính: “Thu nhập xe ôm của anh Cường mỗi tháng khoảng 3 triệu, trừ tiền xăng còn 2 triệu. Vợ vừa ôm ngực vừa cậm cạch may thuê, chỉ đủ 1 triệu đồng!”.

    Anh Cường nghe vậy cười gượng: “Vẫn còn ông bà, anh chị hai bên giúp đỡ. Mình vẫn còn may mắn hơn bao đồng đội không về!”...

    Trong khi đó, tại căn phòng 9 m2 của cựu chiến binh Trần Duy Dương (số nhà 18/2, ngõ Giếng Mứt, Bạch Mai, phường Trương Định, quận Hai Bà Trưng) có đến 4 gia đình anh em của 4 thế hệ cùng chia nhau sống. Hỏi kỹ mới biết: xăn nhà 4 phòng của bố mẹ, giờ chia cho 3 anh chị em trong nhà, mỗi phòng 3 - 5 người lúc nhúc.

    Cựu chiến binh Trần Duy Dương sinh năm 1964, nhập ngũ tháng 3.1983 và chiến đấu ở mặt trận Vị Xuyên, trong đội hình C6, D2, E876 của Sư đoàn 356.

    Anh Dương kể lại: Giữa tháng 7.1984, đơn vị được tăng cường lên chốt giữ điểm cao E2 thay cho đơn vị bạn bị quân Trung Quốc gây thương vong nặng. Tổ 3 người chui vào nhận hầm vẫn thấy 1 chiến sĩ của đơn vị cũ ngồi tựa vào vách đất. Cứ tưởng đồng đội đang ngủ, Dương vỗ nhẹ vai: “Bạn ơi, co chân cho tớ nhờ tí!”, thân hình người lính bỗng đổ gục xuống, bấy giờ mới biết là đã hy sinh, chưa kịp đưa thi hài về tuyến sau.

    Ròng rã bám chốt, đánh trả các đợt tấn công của quân Trung Quốc xâm lược, mãi đến cuối thời gian chốt giữ, tổ chiến đấu của Trần Duy Dương mới được đưa về phía sau do... bị thương vong.

    “Lính Trung Quốc bò lên đông quá, bắn gần hết đạn nhưng chúng vẫn tiếp cận công sự và ném lựu đạn vào giữa hầm. Quả lựu đạn nổ tung giữa 3 anh em và mình ngất lịm!” - Người cựu chiến binh gầy gò hồi tưởng và lắc đầu: “Khi tỉnh dậy đã thấy nằm ở bệnh xá. Anh em ở chốt gần đó kịp sang chi viện và tổ 3 người, chỉ còn 2 đứa mình bị thương!”.

    Sau thời gian điều trị tại Viện 6, anh Dương được xác định thương binh hạng 4/4 và chuyển ngành về công tác tại Xí nghiệp May Thương binh 875. Công tác vài năm thì xí nghiệp giải thể, anh Dương nhận chế độ 176 với số tiền cầm trong tay vài trăm nghìn, ngỡ ngàng bước vào đời kiếm sống.

    “Hồi đầu tiên mình làm đủ thứ, từ đi may thuê, ngồi bảo vệ cho đến xe ôm!”, anh Dương thành thực rồi bấm ngón tay tính: “Biết mình là thương binh chống Trung Quốc, một doanh nghiệp chuyên buôn bán linh kiện điện tử nhận về giao cho công việc giao hàng trong phố. Tìm mọi ngõ ngách tìm khách giao linh kiện, máy móc rút cục công việc chả khác gì xe ôm!”.

    Thương tật, vất vả vậy nhưng anh Dương là lao động chính, duy nhất trong nhà. Vợ anh, chị Nga mấy năm bị bệnh động kinh, cứ thi thoảng lại lên cơn co giật nên dù rất muốn đỡ đần chồng, chị cũng đành ngồi nhà cơm nước... (Còn nữa)

    [​IMG]
    Bên miếu thờ tưởng nhớ các liệt sĩ Vị Xuyên - Ảnh: Văn Thắng

    [​IMG]
    Cựu chiến binh Đào Mạnh Cường, ngoài công việc xe ôm kiếm sống còn làm việc gia đình thay vợ bị bệnh

    [​IMG]
    Cựu binh Đào Mạnh Cường (bên phải), Trần Duy Dương (giữa) thăm hỏi vết thương của đồng đội Bùi Kim Vượng (bên trái).





    Từ 28.4 đến 16.5.1984, quân Trung Quốc chiếm đóng trái phép nhiều vị trí trên lãnh thổ Việt Nam, gồm các cao điểm 226, 233, 685, 772, 1030, 1250, 1509 thuộc tỉnh Hà Giang. Sư đoàn 356 từ Lào Cai hành quân sang Hà Giang, cùng các Sư đoàn 312, 313, 314, 316 thực hiện Chiến dịch MB 84 nhằm chiếm lại các điểm cao đã mất. Mặt trận Vị Xuyên từ sau ngày 12.7.1984 liên tục có tiếng súng.



    Mai Thanh Hải
    Connuocviet, haiquan1vpsu_30 thích bài này.
  4. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    "Vì sao năm 1979 Trung Quốc không dám đem máy bay đánh VN?"

    [​IMG]
    Một người lính Trung Quốc bị bắt làm tù binh (Ảnh tư liệu)
    - Qua cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, tướng Lê Mã Lương đánh giá: "Nếu lấy thang điểm 10 thì quân Trung Quốc được 5 điểm, quân Mỹ được 9 điểm".
    Lời tòa soạn: Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.


    Sau đây, chúng tôi xin gửi tới bạn đọc phần cuối buổi nói chuyện với Thiếu tướng Lê Mã Lương - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân về cuộc chiến tranh biên giới năm 1979.

    PV: Thưa thiếu tướng, trước ngày 17/2/1979, như ông nói đã có dấu hiệu Trung Quốc chuẩn bị xâm phạm Việt Nam và sau đó, Bộ Chính trị cũng đã có Nghị quyết về vấn đề này. Xin ông có thể chia sẻ cảm xúc của ông khi những ngày chiến tranh biên giới đến gần?

    Thiếu tướng Lê Mã Lương: Khi gần đến ngày đó, tôi tin chắc rằng mình cũng như những người cán bộ và chiến sỹ khác đều rất khó hình dung lý do Trung Quốc phát động một cuộc chiến lớn để xâm lược Việt Nam. Mọi người đều nghĩ cùng là nước XHCN với nhau thì không lẽ nào Trung Quốc lại đang tâm phát động cuộc chiến tranh xâm lược một nước vừa thoát ra khỏi 30 năm chiến tranh dù ai cũng đã chuẩn bị cho mình và cho hậu phương mình, chuẩn bị tinh thần cho đồng đội và bạn bè mình để bước vào một cuộc chiến mới. Chúng tôi không ai muốn có chiến tranh.

    Nhưng có một điều khá đặc biệt là những người dân Việt Nam khi đó cảm thấy hết sức bình tĩnh dù linh cảm một cuộc chiến khốc liệt đang đến gần. Mọi người dân không hề có cảm giác lo lắng, sợ hãi, bất an trước quân Trung Quốc. Mọi người hi vọng chiến tranh không xảy ra nhưng bên trong đều đã có sự chuẩn bị. Những người nước ngoài khi quan sát người Việt Nam trước và sau ngày 17/2/1979 đều cảm nhận được điều đó và cảm thấy hết sức kỳ lạ. Với người Việt Nam thì lại hết sức bình thường. Kẻ thù đã “buộc ta ôm cây súng” thì chúng ta sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Tổ quốc, không sợ bất kỳ thế lực nào, khó khăn nào. Nét tinh thần ấy được hội tụ trong người lính và là nền tảng cho sức chiến đấu để chiến thắng.

    Dù biết Trung Quốc mạnh hơn (Trung Quốc chỉ kém Liên Xô và Mỹ) nhưng trong lịch sử, Việt Nam đã đụng độ Trung Quốc nhiều. Đã không sợ Mỹ thì cũng chẳng sợ Trung Quốc.

    [​IMG]
    Thiếu tướng Lê Mã Lương

    PV: Trong ký ức về cuộc chiến với quân Trung Quốc, thiếu tướng có cảm nghĩ gì về quân đội của họ?
    Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trung Quốc có bộ máy tuyên truyền cực kỳ đồ sộ với một nghệ thuật tuyên truyền rất đáng nể. Cho nên không lạ gì những nhà tuyên truyền của Trung Quốc đã biến không thành có, biến nhỏ thành lớn để rồi kích động, gây hận thù làm cho người lính Trung Quốc hiểu lầm rằng, Việt Nam lấn chiếm đất Trung Quốc và coi Việt Nam như kẻ bội ơn. Với giọng điệu tuyên truyền như vậy, ở góc độ nào đó làm cho người lính Trung Quốc nhận thức sai lầm rằng: Dân Trung Quốc đã tốt với Việt Nam nhưng lại bị Việt Nam bội ơn. Chính sự lẫn lộn đó đã củng cố tinh thần cho người lính Trung Quốc thực hiện được âm mưu của giới lãnh đạo. Nhưng tôi tin rằng nhiều người lính Trung Quốc không kém hiểu biết đến mức không nhận ra được vấn đề.

    Sau năm 1979, những trận đánh của Trung Quốc với Việt Nam, đặc biệt là những trận đánh ở bình độ 400, 600, 700, 1005, 1009 Lạng Sơn thì có thể thấy được lính Trung Quốc không như các nhà tuyên truyền của Trung Quốc vẫn nói. Lính của Trung Quốc rất nhát. Trung Quốc vốn đông dân nên khi chiến đấu thì Trung Quốc luôn ỉ vào số đông. Chiến thuật của Trung Quốc vẫn mang tính cổ điển: Chiến thuật lấy thịt đè người, biển người và nó thể hiện trong các trận đánh. Để chiến đấu với một đại đội quân Việt Nam, Trung Quốc phải tập trung cả một sư đoàn để đánh vào một chốt. Trong khi đó, để tiêu diệt một đại đội của Trung Quốc thì Việt Nam dùng một tiểu đoàn, cùng lắm là 1 trung đoàn.

    Trong chiến tranh hiện đại, với chiến thuật tác chiến như vậy thì đổ xương máu rất lớn. Nhưng Trung Quốc rất khó có thể thay đổi tư duy này. Tư duy đó đã ăn sâu vào giới lãnh đạo Trung Quốc và lính Trung Quốc. Và giả sử nếu có cuốn sách nào được gọi là nghệ thuật chiến tranh Trung Quốc thì đó sẽ là một điểm chủ đạo trong cuốn sách đó của họ. Điều ấy cũng thể hiện trên Biển Đông trong thời gian vừa qua. Lúc nào Trung Quốc cũng có số lượng áp đảo các nước khác (khoảng 140 tàu cả tàu quân sự, hải giám, hải cảnh), trong khi chúng ta chỉ có ít tàu thực thi pháp luật. Nhưng chiến thuật số đông đó không đè bẹp được lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam dù tàu của chúng ta nhỏ hơn và độ hiện đại thì không bằng.

    PV: So sánh quân Trung Quốc với quân Mỹ tại thời điểm đó, thiếu tướng cho điểm quân Trung Quốc là bao nhiêu?

    Thiếu tướng Lê Mã Lương: Nếu lấy thang điểm 10 thì quân Trung Quốc được 5 điểm, quân Mỹ được 9 điểm. Sự so sánh này không hẳn là quá khập khếng bởi bộ đội ta thấy rất rõ điều đó. Quân đội Mỹ thiện chiến bởi họ được cọ xát trên khắp các chiến trường từ năm 1945 hoặc trước đó với các căn cứ quân sự được lập khắp thế giới. Tính cơ động và sự đảm bảo về mặt hậu cần và tính chiến thuật của quân Mỹ rất thực dụng. Nếu họ thua trận này mà trận sau ta vẫn áp dụng cách đánh đó với quân Mỹ thì ta sẽ thua bởi họ rút kinh nghiệm rất tốt. Thứ hai là tính kỷ luật của quân Mỹ cao hơn Trung Quốc rất nhiều, còn quân Trung Quốc thì như một đội quân ô hợp, không có tính kỷ luật cao. Cũng vì lý do này mà chất lượng chiến đấu của quân đội Trung Quốc rất thấp.

    Tuy nhiên, cũng có một điều phải thừa nhận là pháo binh của Trung Quốc bắn rất chính xác dù mật độ dày. So với pháo binh của Mỹ thì pháo binh Trung Quốc không kém.

    Còn về mặt không quân thì không quân Trung Quốc rất kém. Vì sao năm 1979, Trung Quốc không dám đem máy bay đánh Việt Nam? Đó là Trung Quốc biết không quân Việt Nam rất tinh nhuệ. Lực lượng không quân của Việt Nam vào những năm 1979 – 1980 rất mạnh so với không quân Trung Quốc bởi ngoài lực lượng máy bay ta tiếp nhận được của Liên Xô, Trung Quốc thì còn một lượng máy bay lớn ta thu được từ quân Mỹ giao cho Ngụy trong đó có loại F5, A37. Vì thế Trung Quốc ý thực được rằng nếu đưa không quân lên để đối chọi với không quân Việt Nam thì chắc chắn họ sẽ thất bại thảm hại. Lúc đó các phi công của Việt Nam như Mai Văn Cương, Nguyễn Văn Cốc, Phạm Tuân, Đỗ Văn Lanh… còn rất trẻ . Đó là các quân át chủ bài trong không quân Việt Nam.

    PV: Vậy còn hiện nay, 35 năm sau cuộc chiến năm 1979, quân đội Trung Quốc ngày nay đã phát triển như thế nào, thưa thiếu tướng?

    Thiếu tướng Lê Mã Lương: Đến nay quân đội Trung Quốc đã có bước tiến dài vì họ ý thức được, muốn thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”, muốn trở thành đế quốc biển thì Trung Quốc phải gồng lên để trang bị cho lực lượng hải quân và không quân, lục quân. Sự đầu tư đó đã làm cho sức chiến đấu của quân đội Trung Quốc tăng lên rõ rệt. Vì vậy, nếu so sánh về sức mạnh quân sự thì quân đội Trung Quốc hiện nay chỉ đứng sau quân đội Mỹ, quân đội Nga.

    Xin trân trọng cảm ơn thiếu tướng đã trả lời phỏng vấn!
  5. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Chiến tranh biên giới 1979:Ký ức đau đớn về những quan tài rỏ máu
    Hoàng Đan
    [​IMG]


    - Tác giả bài thơ "Bình độ 400" chia sẻ, sau 20 năm xuất ngũ, những hình ảnh về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc vẫn ám ảnh, đi vào cả những giấc mơ của ông...
    Lời tòa soạn: Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.

    Gặp chúng tôi trên con phố Đội Cấn (Ba Đình, Hà Nội), sau hơn 35 năm đã trôi qua nhưng trong ký ức của cựu binh, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (hiện là giảng viên của trường Đại học Phương Đông), những hình ảnh ác liệt, tang thương của cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc vẫn còn đọng lại rất rõ ràng.

    Ông Hùng cũng chính là tác giả của bài thơ "Bình độ 400" nổi tiếng ghi lại trận đánh ác liệt ở địa danh này thuộc tỉnh Lạng Sơn vào năm 1981.

    Theo lời kể của ông Hùng, tháng 8/1978, khi vừa tròn 18 tuổi và đang là sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, ông lên đường nhập ngũ, tham gia huấn luyện tại Ninh Bình. Khoảng 8 tháng sau, ngày 4/3/1979, ông được điều về đơn vị thông tin thuộc trung đoàn 2, sư đoàn 3 Sao Vàng, trấn thủ biên giới phía Bắc.

    Đơn vị ông lên đến Lạng Sơn cũng là lúc Trung Quốc bắt đầu rút quân nhưng như ông kể lại: “Mọi người thường tưởng quân Trung Quốc rút ồ ạt về nước nhưng không phải. Chúng rút từ từ và vừa rút vừa phá hoại, trong lúc rút vẫn bắn phá các công trình của ta. Tôi chứng kiến thị xã Lạng Sơn bị phá hủy hết. Những tòa nhà lớn xây từ thời Pháp, lính Trung Quốc cứ ốp bộc phá ở hai đầu và một quả ở giữa. Khi bộc phá nổ, tòa nhà không sập hẳn nhưng cũng tan hoang không thể sửa chữa được nữa. Rồi đến các nhà máy cũng bị đặt bộc phá để phá hủy tạo ra cảnh hoang tàn, khói lửa...”.

    Những ngày sau đó, tình hình rất căng thẳng, quân Trung Quốc áp sát biên giới và tiếng súng, tiếng bom vẫn vang lên từng ngày.

    Đến năm 1981, trên mặt trận Lạng Sơn mới lại diễn ra trận giao tranh ác liệt tại địa điểm bình độ 400 thuộc xã Thanh Hòa, huyện Cao Lộc mà ông là một trong những người lính trực tiếp tham gia.

    [​IMG]
    Ông Hùng, người áo đen, đứng ngoài cùng bên trái trong buổi kỷ niệm 30 năm nhập ngũ

    "Trận Bình độ 400 có nhiều trung đoàn tham gia nhưng trung đoàn 2 của chúng tôi lúc bấy giờ được thiếu tướng Hoàng Đan trực tiếp đến tận sở chỉ huy động viên chiến đấu. Khu vực này có đặc điểm là sườn phía mình dốc còn phía bên Trung Quốc thì thoải hơn nên lính Trung Quốc đào hầm bê tông trú ẩn và làm được cả đường cho xe chạy.
    Lúc đó Trung Quốc xua quân chiếm giữ điểm cao này còn ta đưa quân lên phản kích lấy lại. Quân Trung Quốc có lợi trên cao và có công sự vững chắc cho nên mình chỉ pháo kích và dùng đặc công đánh thôi chứ không ào ào đánh cả trung đoàn được. Chúng tôi ở tuyến sau cứ áp sát vào là pháo bắn như mưa lại phải bò xuống không tiến lên được
    ”, ông Hùng nhớ lại.

    Cũng theo ông Hùng, dù Trung Quốc có rất nhiều súng đạn và bắn sang ta không hề tiếc nhưng xét về kỹ, chiến thuật thì hoàn toàn thua xa so với lính Việt Nam.

    "Nếu đụng độ thuần bộ binh thì lính Trung Quốc kém xa lính mình. Về sau chúng tôi phát hiện ra là lính Trung Quốc không phải tất cả được trang bị vũ khí, nhiều tên chỉ đi tay không. Mà những loại đấy chúng tôi cho chỉ là bọn đi đánh hôi. Có nhiều tên khi bị quân ta tiêu diệt tay vẫn còn ôm một bao khoai lang. Chúng chỉ ào ào xông lên nhưng hễ gặp hỏa lực mạnh là bỏ chạy.

    Thêm nữa, sau này có lần chúng tôi gặp một quả đồi mà Trung Quốc từng đóng thì thấy có mặt đất chi chít hầm hàm ếch tránh pháo, hướng tránh thì đúng nhưng mật độ thì dày như tổ ong. Về nguyên tắc, đào dày như thế dễ thương vong lớn nếu chẳng may trúng pháo. Điều đó cho thấy lính Trung Quốc không tinh nhuệ”, ông Hùng chia sẻ.

    Ông Hùng cũng khẳng định, lúc bấy giờ, ngoài tinh thần chiến đấu rất cao thì chính sự có mặt, giúp sức của những người lính già, vị tướng lão luyện đã giúp Việt Nam bảo vệ vững chắc biên cương.

    "Như ở biên giới phía Bắc thời đó có tướng Hoàng Đan nổi tiếng với câu nói “sống, chết, thời, vận, số”. Có câu chuyện nói rằng khi ông đi thị sát gặp lúc địch bắn pháo như mưa nhưng ông vẫn ngồi yên quan sát. Hay, ông thường lấy một câu chuyện ngụ ngôn để động viên lính. Câu chuyện là có một ông bị thầy bói bảo là số bị hổ vồ cho nên không sống gần rừng, không dám vào vườn bách thú. Nhưng một hôm vào chùa nhìn thấy tượng con hổ hoảng quá đập đầu vào tường mà chết.

    Chính nhờ những người chỉ huy như ông mà dải biên cương của chúng ta đã được bảo vệ vững chắc, toàn vẹn trước quân thù đông đảo", ông Hùng nhắc lại trong sự hào hứng.

    Những giấc mơ đeo đẳng sau cuộc chiến

    Và giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa hơn 35 năm nhưng những nỗi ám ảnh của cuộc chiến, về sự hy sinh của đồng đội của nhân dân vẫn cứ mãi đeo đẳng mãi trong ông.

    [​IMG]
    Những tấm hình trong ba lô của người lính Nguyễn Mạnh Hùng khi trở về.

    "Tôi còn nhớ khi tôi hành quân trên đường gặp những chiếc xe quan tài chở tử sĩ từ mặt trận về tuyến sau và những chiếc xe quan tài không từ hậu phương tiếp tục chạy lên biên giới. Hồi ấy cũng chu đáo hơn trước, bộ đội hy sinh có quan tài để khâm liệm. Nhưng đang thời chiến, khâm liệm chỉ sơ sơ, vì thế nên khi xe chạy, máu từ trong quan tài chảy ra nhỏ xuống đường.

    Nhưng chúng tôi còn sợ hơn khi nhìn thấy xe chở quan tài trống từ hậu phương đưa lên. Tất nhiên những xe quan tài ấy thỉnh thoảng mới gặp nhưng mà mỗi lần nhìn thấy là hãi lắm. Điều đó cho thấy chiến sự ác liệt lắm. Những hình ảnh đó đã ám ảnh tôi mãi và cho đến 20 năm sau khi xuất ngũ thì nhiều đêm tôi vẫn mơ thấy rất nhiều bóng đen. Tôi đã cố xua, cố làm mọi cách để nó đi nhưng không được, nó cứ lởn vởn quanh tôi. Và nói thực, đến giờ, nghĩ lại những hình ảnh về cuộc chiến vừa đi qua, tôi vẫn có cảm giác hãi hùng..", ông Hùng trầm ngâm nói.

    Cùng với giấc mơ, phía sau cuộc chiến, những người lính như ông Hùng cũng còn đó những nỗi khó khăn, cực nhọc của cuộc sống mưu sinh.

    "Những người lính như tôi trở về cuộc sống đời thường rất khó khăn để mưu sinh. Cá nhân tôi trở về lại đi học đại học thì thấy bình thường nhưng nhiều anh em khác vất vả lắm, phải đi bơm xe, chạy chợ rất vất vả.

    Sự đãi ngộ cho anh em tuy có nhưng cũng hạn chế thôi, giá như không có chiến tranh thì cuộc sống họ sẽ khác đi nhiều. Nhiều người sẽ không phải chết, không bị thương tật và sẽ có công ăn việc làm tốt hơn vì họ không mất những năm tháng tuổi trẻ.

    Chiến tranh là mất mát đau thương nên cần tìm mọi cách để tránh. Nhưng nếu khi hết mọi cách thì phải dũng cảm chiến đấu để trước hết bảo vệ cuộc sống của mình”, ông Hùng tâm sự.

    Cũng chính từ những cảm xúc, nỗi niềm sau cuộc chiến này đã thôi thúc ông Hùng viết lên bài thơ "Bình độ 400" nổi tiếng:

    "Đêm tháng Năm vào Bình độ Bốn Trăm

    Đoàn xe trôi êm êm, tầm đại bác

    Thuốc súng tanh, lá rừng kêu xào xạc

    Chúng no máu rồi không cắn nữa đâu?

    Lắc lư xe quan tài vượt về sau

    Máu rỏ xuống đường cuốn vào cát bụi

    Lại xe quan tài vượt lên lầm lũi

    Tốp thương binh bê bết máu mặt, mày

    Đám cướp kia Thánh, Phật dạy ăn chay

    Chẳng kiêng gì ngày Rằm, mồng Một!

    Đạn cày xới đất tơi trồng cây tốt

    Tưới máu người cướp, giữ đất biên cương.

    Tư lệnh Hoàng Đan trận này cầm quân

    Ông bảo rằng: Sống, chết, thời, vận, số!

    Cả Trung đoàn ào ào như thác lũ

    Bình độ Bốn Trăm bình địa trận người.

    Những chàng trai sống, chết trận này ơi!

    Mưa đổ xuống ông Trời tuôn nước mắt

    Ơn nhớ mãi thân người đi giữ đất

    Người trở về ăn, sống, ở ra sao?"
    Connuocviet, su_30Inteltigence thích bài này.
  6. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    "Lá đơn đặc biệt" 2 ngày sau khi TQ xâm lược VN năm 1979
    Hoàng Đan
    [​IMG]
    - Sau chỉ một đêm nộp đơn xin chiến đấu, người chiến sỹ từ Hà Nội vượt hàng trăm km lên chiến trường đã mãi mãi ra đi...
    Lời tòa soạn:Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.

    Trong câu chuyện với chúng tôi, cựu binh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (hiện là giảng viên trường ĐH Phương Đông), tác giả bài thơ Bình độ 400 nổi tiếng còn cung cấp một lá đơn xin chiến đấu được chép lại mà ông cất giữ như một kỷ vật hết sức thiêng liêng.

    Theo lời ông Hùng kể, chập tối ngày 22 tháng 2 năm 1979, những người lính Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn An Lão, Sư đoàn Sao Vàng, mặt trận Lạng Sơn, đang chiến đấu lấy lại đồi Thâm Mô (gần thị xã Đồng Đăng) thì "tóm" được một thanh niên nhỏ nhắn, da đen, nhanh nhẹn tên Thành, mang theo lá đơn xin chiến đấu.

    "Anh Thành cho biết đã bắt tàu từ Hà Nội lên và đưa cho chỉ huy đơn vị một lá đơn xin cầm súng chiến đấu "Kính gửi các thủ trưởng đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam". Trong đơn, anh Thành bày tỏ không thể ngồi yên học hành khi đồng bào và đồng chí của anh đang đổ máu trên tuyến đầu Tổ quốc bảo vệ từng tấc đất thân yêu. Và anh khẩn thiết đề nghị các thủ trưởng hãy cho anh sống, chiến đấu tại nơi đây... Sau khi xem xét đơn các thủ trưởng đã đồng ý với lá đơn đề nghị của anh.

    Mọi chuyện sẽ chẳng có gì để nói nếu như không có sự việc chỉ sau vài tiếng đồng hồ nộp đơn từ đêm hôm đó đến sáng hôm sau, anh Thành đã không còn nữa. Những người đồng đội đã xác nhận, anh ấy đã chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh tại mặt trận...", ông Hùng bùi ngùi kể lại

    [​IMG]
    Lá đơn xin chiến đấu chỉ một đêm của liệt sỹ Thành cách đây 35 năm
    Năm 1980 nhận hồ sơ, khi lập danh sách đề nghị tiểu đoàn chuyển trung đoàn công nhận liệt sỹ Phạm Quang Thành, đơn vị đã xác định được quê quán của anh ở xóm 2, thôn Mỹ Bổng, xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình..

    Trong di vật còn lại được gửi về lên cấp trên bao gồm một số ảnh tập thể sinh viên, thư của người bạn gái, bản chính đơn xin chiến đấu...

    [​IMG]

    Cũng theo ông Hùng cho biết, liệt sỹ Thành từng tham gia chiến đấu và là thương binh chống Mỹ nhưng vẫn quyết tâm, tự nguyện xung phong lên chiến đấu, anh dũng ngã xuống ở mặt trận biên giới phía Bắc.

    Ông Hùng tâm sự: "Anh Thành nộp đơn xong rồi cầm súng chiến đấu luôn cùng đơn vị và hy sinh ngay trong đêm ác liệt đó nên nhiều anh em vẫn còn chưa biết rõ mặt mà chỉ biết qua những tấm ảnh trong di vật còn lại.

    Hơn 35 năm rồi nhưng chúng tôi vẫn không thể nào quên về anh, một trường hợp rất đặc biệt, đi hàng trăm km lên nộp đơn, chiến đấu và hy sinh chỉ vài giờ sau đó. Tuy nhiên, chỉ có điều canh cánh đến giờ là không biết biết gia đình đã tìm và đưa anh về với quê hương chưa. Thực sự, chiến tranh quá ác liệt và nếu không có nó, có lẽ, anh Thành đã có thể sống và cống hiến cho đất nước nhiều hơn..."

    Nội dung lá đơn của Phạm Quang Thành:

    Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

    Độc lập -Tự do - Hạnh phúc

    ĐƠN XIN CHIẾN ĐẤU

    Kính gửi các thủ trưởng trong đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam

    Tên tôi là: Phạm Quang Thành, là học sinh năm thứ nhất khoa toán trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Tôi xin trình bày một việc sau đây:

    Sau khi nghe sự kiện 4 giờ sáng ngày 17-2-1979 bọn ********* Trung quốc đã xâm phạm lãnh thổ nước ta, lòng tôi như lửa đốt. Tôi không thể ngồi yên học hành khi đồng bào và đồng chí của tôi đang đổ máu trên tuyến đầu Tổ quốc bảo vệ từng tấc đất thân yêu. Tôi đã làm đơn xin đi chiến đấu, nhưng vì tôi là một người lính đã trở về trường học tập nên việc xin nhập ngũ là rất khó. Chính vì vậy tôi đã đi từ Hà Nội lên đây và sẽ xin vào công tác ở bất cứ đơn vị cầm súng đánh giặc. Tôi biết đó là một khuyết điểm của mình, nhưng đánh xong giặc tôi sẽ xin chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân với khuyết điểm của mình. Là một đoàn viên thanh niên cộng sản mang tên Bác Hồ vĩ đại. Tôi càng tự hào bao nhiêu thì tôi càng hiểu trách nhiệm của mình bấy nhiêu. Trong khi tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đang vang vọng trong lòng. Vậy, tôi khẩn thiết đề nghị các thủ trưởng hãy cho tôi sống và chiến đấu tại nơi đây. Tôi xin hứa sẽ hoàn thành bất kỳ nhiệm vụ gì cấp trên giao phó. Được như vậy tôi chân thành cảm ơn

    Hà Nội ngày 19/2/1979

    Người làm đơn

    (ký tên)

    Phạm Quang Thành​
    Connuocviethasinhat thích bài này.
  7. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    "Triệu Tử Long của Việt Nam" và chuyện đánh Trung Quốc năm 1979
    Hồng Chính Quang
    [​IMG]


    Đại tá Trần Minh Vân – nguyên Sư trưởng Sư đoàn 312,Quân đoàn 1 (Ảnh: Tuấn Nam)

    - Đại tá Trần Minh Vân cho hay: “Quân Việt Nam không bao giờ sang trận địa quân TQ. Chỉ sau này sang mới biết quân TQ tử trận khá nhiều".
    Lời tòa soạn: Báo điện tử Trí Thức Trẻ xin tiếp tục giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.



    Qua sự giới thiệu của Anh hùng, Viện sỹ, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu và Quân đoàn 1, chúng tôi tìm đến nhà của Anh hùng, Đại tá Trần Minh Vân – nguyên Sư trưởng Sư đoàn 312 (quân đoàn 1) ở Thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Vốn là người con đất võ Bình Định, Đại tá Trần Minh Vân đã từng ở chiến trường Quảng Trị, tham gia chiến đấu trên 300 trận đánh, lập nhiều chiến công oanh liệt, bị thương 14 lần và được mang biệt danh “Triệu Tử Long”.

    Là một vị sư trưởng của một sư đoàn tiếng tăm lừng lẫy nên không khó để chúng tôi có thể hỏi thăm đến nhà ông. Căn nhà tình nghĩa của Đại tá Trần Minh Vân được Bộ Tư lệnh Binh đoàn Quyết Thắng xây tặng nằm cạnh một con suối gần Quốc lộ 1A, trên khu vực Quân đoàn 1 đóng quân. Hẹn qua điện thoại, sợ phóng viên trẻ không biết nhà, phải đi tìm giữa trời nắng, ông ra tận cổng đón tôi.

    Sau khi nghe ý định viết bài về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của chúng tôi, ông đồng ý rồi trầm ngâm nhìn ra cây sung ven suối. Ông kể: “Ngày 31/3/1987, nhận được lệnh của Bộ Tổng tham mưu, Sư đoàn 312 lên Vị Xuyên (Hà Giang) từ ngày 25/6/1987 đến ngày 2/7/1988. Quân số của Sư đoàn khi đó khoảng gần 10.000 người. Nơi chúng tôi đóng quân ngày đó là ở xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên. Ngày đó chúng tôi phải đối diện với Trung đoàn 241, Trung đoàn 24 của Sư đoàn 79 thuộc Tập đoàn quân 27”.

    [​IMG]
    Xẻ núi đưa pháo lên điểm tựa (Ảnh: Nhà báo Đào Văn Sử/báo QĐND)
    Nhớ lại khu vực đóng quân năm xưa, người lính già chia sẻ: “Cùng đóng trên 2 quả núi nhưng quân Trung Quốc ngày đó ở vị trí cao hơn, còn ta ở vị trí thấp hơn. Tuy nhiên, khoảng cách tương đối xa (khoảng 200-300 mét), muốn đánh được ta, địch phải vượt qua một vực. Địa hình của bên ta khi đó là nửa đất nửa đá, còn bên địch hoàn toàn là đá”.
    Theo Đại tá Trần Minh Vân, trong chiến thuật phòng ngự thì yếu tố quan trọng nhất là công sự. Nếu công sự vững chắc thì trận địa vững chắc. Công sự vững chắc sẽ làm cho tư tưởng của bộ đội an tâm hơn, khi nghỉ ngơi cũng đàng hoàng hơn, tránh bom đạn của địch, giảm thiểu thương vong . Với địa hình nửa đất, nửa đá thì chúng ta có thể đào công sự dễ dàng hơn so với địa hình chỉ có đá. Địa hình chỉ có đá thì khó cải tạo làm công sự nhưng đất thì dễ sạt lở vì đất đó là đất pha cát sỏi.

    Đại tá Trần Minh Vân tự hào: “Trong thời gian khoảng 7 tháng, Sư đoàn 312 đã làm 937 công sự và cũng khá tốn kém. Cho đến thời điểm đó, Sư đoàn 312 là Sư đoàn đào được nhiều công sự nhất trong số các đơn vị đã chiến đấu ở Vị Xuyên.

    Địch đánh nghi binh nhiều nên trước khi mình xây dựng trận địa thì mình phải căn cứ vào cách đánh và địa hình để xây dựng công sự làm sao để có thể hỗ trợ lẫn nhau và chi viện cho nhau. Còn bên địch, họ bố trí nhiều trận địa cối hướng sang bên ta. Đồng thời, do địa hình toàn là núi đã nên họ đã lợi dụng các điểm cao, các hang đá để xây dựng hệ thống công sự trận địa kiên cố vững chắc cùng với các bãi mìn phía trước”.

    Với tình hình chiến sự khi đó không dồn dập như tháng 2/1979, Đại tá Trần Minh Vân chia sẻ thêm về cách đánh địch: “Cách đánh là mình phải lợi dụng thời cơ bất ngờ nhất để đánh địch. Khi địch tấn công ta sẽ lộ sơ hở và chúng ta phải tận dụng sơ hở đó để tấn công lại chứ không đánh phủ đầu. Chính vì thế, anh em rất tự tin tổ chức chiến đấu trong thế phòng ngự và luôn sẵn sàng tấn công khi có thời cơ. Với chiến thuật như vậy, chúng ta đã hạn chế được thương vong và rút kinh nghiệm được nhiều.

    Với trận địa phòng thủ - tấn công đó, khi chiến đấu, công tác hậu cần rất quan trọng: chuẩn bị vũ khí, đạn dược. Chúng tôi không những phải đào hầm dự trữ cho lương thực mà còn phải đào hầm cho vũ khí đạn dược. Thời kỳ đó ở Vị Xuyên mưa gió thất thường với độ ẩm rất cao nên không cẩn thận thì sẽ ẩm hết cả đạn dược. Tôi còn nhớ ngày đó, nhiều khi không chỉ phải hong khô người mà còn phải hong khô cả đạn dược”.

    Suốt câu chuyện với ông, chúng tôi được nghe ông nhắc rất nhiều về những người lính bị thương và công tác cứu chữa cho thương binh. Vị Đại tá già nhớ lại: “Một công tác vô cùng quan trọng là đảm bảo cho thương bệnh binh. Vì mình và địch ở gần, địa hình rất phức tạp nên việc vận chuyển thương binh ở địa hình đó không hề đơn giản. Địa hình phòng ngự là núi đá nên khi chiến đấu phòng ngự, các chiến sỹ phải leo lên các vị trí cao.

    Tôi còn nhớ, có những chiến sỹ bị thương trên các mỏm đá cao như ngọn cây nên việc đưa thương binh xuống rất khó khăn. Đầu tiên là phải ròng dây như ròng rọc, sau đó 2 người phải đẩy cáng ra rồi thả dần, thả dần để cho thương binh nằm đúng vào chiếc cáng rồi khiêng đi. Công việc này không như ở đồng bằng”.

    Theo Đại tá Trần Minh Vân, ngày đó chiến đấu, quân Trung Quốc dùng hỏa lực bắn phá ác liệt về phía ta rồi tổ chức lực lượng bộ binh tấn công ta thành nhiều hướng. Tuy nhiên, nhờ thế trận bố trí phòng ngự nên dù có một số lính Trung Quốc tấn công ta nhưng đã bị ta phục kích và tiêu diệt. Chính vì sợ bị phục kích nên họ chủ yếu bắn pháo sang.

    “Trong thời kỳ tôi ở đó, họ tấn công bằng bộ binh khoảng 5 - 6 lần nhưng lần nào cũng bị quân ta chặn đứng. Quân ta ở trong công sự bắn ra khiến họ sợ mà phải bỏ chạy. Nhưng chúng ta cũng không ra khỏi công sự để truy kích được bởi nếu ra khỏi công sự là ngay lập tức bị bắn ngay. Pháo binh của Trung Quốc bắn rất chính xác.

    Mình phòng ngự gần với quân Trung Quốc, nhưng quân Việt Nam không bao giờ sang bên trận địa của quân Trung Quốc. Sau này hòa bình rồi, anh em tôi sang cửa khẩu Thanh Thủy, thấy nghĩa trang bên đó thì mới biết quân Trung Quốc tử trận cũng khá nhiều”, Đại tá Trần Minh Vân nói.

    Đại tá Trần Minh Vân cũng cho hay: “Ở trận địa ở Hà Giang không có hiện tượng lính Trung Quốc ôm cột mốc di chuyển sang bên Việt Nam và hôm sau, quân Việt Nam lại ôm cột mốc chôn lại vị trí cũ bởi trận địa bên Vị Xuyên Hà Giang có địa hình rất khó di chuyển mà chỉ có ở trận địa bên Lạng Sơn bởi bên đó trận địa bằng phẳng hơn”.

    (còn nữa)
  8. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Chiến tranh biên giới 1979: Đổi tên Cối Xay Thịt, Thác Gọi Hồn...
    Hồng Chính Quang
    [​IMG]
    - Đại tá Trần Minh Vân cho hay chính Sư đoàn ông đã đổi tên cho những địa danh có tên kinh khủng như Cối Xay Thịt, Lò Vôi Thế Kỷ, Thác Gọi Hồn, Ngã Ba Cửa Tử…
    Lời tòa soạn:Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.
    Tiếp tục câu chuyện với chúng tôi, “tướng Triệu Tử Long” của Việt Nam nhớ lại: “Hỏa lực của địch rất mạnh. Pháo của Trung Quốc ngày đó mạnh hơn của Việt Nam. Pháo Việt Nam bắn ngắn hơn và tần suất bắn ít hơn rất nhiều. Quân Việt Nam bắn 1 nhát thì địch bắn 20 – 30 nhát. Với điều kiện khi đó, chúng ta chỉ dùng pháo khi phát hiện vị trí họ tập trung”.

    [​IMG]

    Bức huyết thư xin đi chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của cựu sinh viên khoa lịch sử Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội năm 1979 (Ảnh: Phạm Cường)
    “Tôi còn nhớ, trận chiến khốc liệt nhất là trận chiến ở cao điểm 1100. Ngày đó, do tình hình chiến sự nên chúng tôi đã phải nhờ đến sự tăng cường của Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 390 do Thượng tá Nguyễn Khắc Nghiên (sau này là Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên – nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam) chỉ huy.

    Lúc đó, địa hình bên ta núi có đất hoàn toàn, còn bên địch là núi đá. Địch bắn pháo để mở rào rồi dùng bộ binh để tấn công. Ban đầu chúng ta dùng pháo để tấn công khiến địch bị tổn thất nặng nề nhưng chúng ta cũng gặp phải một số vấn đề. Nguyên nhân là địch ở trên cao, còn chúng ta ở vị trí thấp hơn. Khi pháo của chúng ta bắn ra thì bị lộ mục tiêu và ngay sau đó, quân Trung Quốc dùng pháo binh để bắn vào vị trí phát hiện mục tiêu có pháo.

    Rút kinh nghiệm, chúng ta sử dụng chiến thuật là ở chắc trong công sự tấn công ra và dùng mìn. Trận ấy, địch bị thương khá nhiều. Quân ta phòng ngự tại vị trí đó là một tiểu đoàn (khoảng hơn 400 người). Số lượng địch phải hơn 1 tiểu đoàn (khoảng 600 quân).

    Họ quyết chiếm cao điểm 1100 nên đã tấn công 2 lần nhưng lần nào cũng bị quân Việt Nam đánh bật ra. Đây cũng là trận mà họ đánh dài ngày nhất: họ bắn pháo trong khoảng 1 ngày rưỡi nhưng công sự của ta chắc chắn, không bị sập chiếc nào, các chiến sỹ của ta vẫn an toàn. Sau khi bắn pháo , đến ngày thứ 2, địch dùng hỏa lực bắn dồn dập rồi mới đưa bộ binh tấn công. Chúng ta đã biết thủ đoạn đó nên dã có biện pháp để đánh chặn.

    Đánh xong trận đó, anh Nghiên nói với tôi: “Em đã hoàn thành nhiệm vụ”. Tôi đáp lại anh Nghiên là: “Sư đoàn đánh giá trung đoàn của đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ””.

    [​IMG]
    Lính Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng (Ảnh tư liệu)

    Trong khoảng thời gian ở Vị Xuyên, có lẽ kỷ niệm khó quên nhất đối với Đại tá Trần Minh Vân là việc ông cùng Sư đoàn đã đổi tên một loạt các địa danh mà ai mới nghe lần đầu hẳn cũng sẽ phải rùng mình.

    “Ở Vị Xuyên ngày ấy, tại các giao thông hào đi xuống các đơn vị, một số được các chiến sỹ đặt nhiều tên nghe rất kinh khủng như Cối Xay Thịt, Lò Vôi Thế Kỷ, Thác Gọi Hồn, Ngã Ba Cửa Tử… Đó chính là những địa điểm trước đây đã xảy ra những trận chiến khốc liệt và đã có những hy sinh tại đó.

    Lúc đó, tôi nghĩ rằng, nếu để nguyên những tên gọi như vậy thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của các chiến sỹ. Vì thế, sư đoàn đã phát động phong trào thanh niên thi đua đặt lại tên cho những địa danh đó”.

    Sau khi đã đặt lại tên và có những tổng kết, đại tá Trần Minh Vân cho hay: “Việc đặt tên đó có tác động rất lớn: tác động tư tưởng làm cho anh em khi đi qua đó thì đỡ ngại hơn, tinh thần anh em hăng hái hơn, không có cảm giác rợn người, tránh việc làm cho anh em hoang mang, dao dộng”.

    Nhớ về kỷ niệm khiến ông xúc động nhất ở chiến trường Vị Xuyên, người lính già kể lại: “Hình ảnh khiến tôi cảm động nhất là khi xuống thấy các anh em vận chuyển thương binh về hầm. Một chiến sỹ bị thương khi đó thì cần phải có nhiều người mới đem xuống được bởi việc đưa từ trên núi xuống rất khó. Có những chỗ anh em phải cõng nhau để chạy chứ không bò hay khiêng được.

    Có những lúc địch bắn rát quá thì mình phải chờ thời cơ khi địch dừng bắn thì mình mới vận chuyển được anh em. Những khi phải để anh em chịu đau chờ thời cơ để vận chuyển xuống công sự như vậy tôi rất đau lòng nhưng cũng không thể làm gì hơn bởi tôi không thể để anh em bị thương 2 lần được.

    Tôi luôn đau đáu về việc cứu thương. Khi nhìn những thương binh dưới công sự để cứu chữa, tôi rất thương anh em. Những hình ảnh đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều và phải rút kinh nghiệm từng ngày, từng tuần, từng tháng để hạn chế những hy sinh của anh em. Chỉ cần anh em báo lên có người bị thương thì ngay lập tức tôi phải tìm hiểu nguyên nhân. Nếu là do di chuyển thì phải củng cố công sự và tổ chức di chuyển như thế nào để giảm thiểu thương vong. Còn nếu là do quân địch tấn công thì phải tìm cách để củng cố trận địa.

    Nhiều anh em bị thương khi đang làm nhiệm vụ cứu thương và vận tải chứ anh em chốt ở phía trên thì ít bị thương. Đó là những người vận chuyển đạn dược và cứu thương. Đó là những người không ở dưới công sự nên dễ bị thương nhất. Từ đó, rút kinh nghiệm, chúng tôi đào hào để di chuyển nhưng pháo bắn mạnh thì giao thông hào chưa chắc đã chịu nổi”, đại tá Trần Minh Vân xúc động mạnh.

    Một trong những kỷ niệm khiến ông xúc động không kém chính là hình ảnh những người phụ nữ không quản hiểm nguy đã lên tận chiến trường để thăm hỏi và động viên các chiến sỹ trong các đơn vị chiến đấu ngày ấy. Đại tá Vân kể: “Phía sau chúng tôi, thị xã Hà Giang thì đã hòa bình nhưng trước mặt chúng tôi là quân lính Trung Quốc. Chỉ có hơn chục cây số mà phía sau là hòa bình, phía trước là chiến tranh ác liệt, hy sinh.

    Có một lần chị em Hội phụ nữ tỉnh Sông Bé ra thăm. Những người lính khi đó rất quý những chị em phụ nữ đã không quản bom đạn lên thăm hỏi. Ngày ấy, được các chị em tặng quà và động viên nên tinh thần anh em rất phấn chấn. Các chị em hỏi chúng tôi: “Các anh, các em cần gì?”. Các anh em bảo rằng: “Các bác, các má, các chị lên động viên là tốt lắm rồi, không cần chi viện gì thêm”. Với chúng tôi, sự động viên của những người phụ nữ chẳng sợ bom đạn đó là quá đủ rồi…

    Câu chuyện của về cuộc chiến tranh biên giới của đại tá Trần Minh Vân – vị dũng tướng trong các trận chiến khốc liệt - chỉ kết thúc khi trời đã về chiều. Tiễn tôi ra tận đường cái với lời dặn dò nếu có thời gian rảnh lại về thăm ông, tôi không khỏi xúc động trước hình ảnh về người lính già trong cái nắng chiều xiên của một ngày cuối tháng 7 trên mảnh đất nhiều dấu ấn lịch sử này.
  9. haiquan1vp

    haiquan1vp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2014
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    3
    Chào các bác, bố cháu cũng là người chiến đấu ở trận chiến Vị Xuyên, Hà Giang Năm đó
    Ngày 16/01/1985 tại cao điểm 685 và cháu cũng được nghe bố cháu kể nhiều về trận chiến đó và chính xác hơn bố cháu là 1 trong 3 người chiến đâu cùng với Anh hùng Lê Trần Mãn và rồi bác Mãn đã giành được cờ hôm đó. Vẫn còn đó những chiến sỹ năm xưa khi trờ về cuộc sống bình thường mà mất hết những tin tưc, liên lạc của những đồng đội năm xưa. Tâm nguyện của bố cháu cũng muốn gặp lại hoặc biết tin tức của những đồng đội chiến đâu năm xưa, 30 năm đã trôi qua giờ bố cháu là 1 thương binh đi lại rất khó khăn. Bố cháu Tên Tạ Ngọc Hân thuộc đơn vị b3, c7, d5, e153, f356. Mong các bác biết thông tin giúp đỡ ạ

    Hòm thư : haiquan1vp@gmail.com. Sdt : 0984913464

    …………….. Chân thành cảm ơn ……………
    Connuocviet, lionking_arccu-bo thích bài này.
  10. lanpurge

    lanpurge Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/07/2005
    Bài viết:
    4.953
    Đã được thích:
    481

Chia sẻ trang này