1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950 - 1975

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi tuaasn, 21/10/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    MAAG đã giảm quân số Nam Việt Nam xuống còn 150.000 người và tổ chức chúng thành các sư đoàn cơ động có thể thực hiện các nhiệm vụ kép.
    [​IMG]
    Cố vấn Mỹ cấp tiểu đoàn - Ảnh ST
    Họ đã thực hiện chương trình huấn luyện đầy tham vọng, trên cơ sở mô hình quân đội Mỹ, gồm có học viện chỉ huy và tổng tham mưu cho các sĩ quan cao cấp, các trường đào tạo sĩ quan và hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Chỉ riêng năm 1960, đã có hơn 1.600 binh lính Việt Nam tham gia các chương trình "hải ngoại", học tập tại Mỹ và các nước thuộc "Thế giới Tự do". Các phát ngôn viên chính thức tuyên bố rằng cho đến năm 1960, Mỹ đã đạt được một "kỳ tích nhỏ", tức là đã chuyển hoá cái mà trước đây chỉ "nhỉnh hơn một tập hợp đầy hạn chế những người được trang bí vũ khí" thành một đội quân hiện đại và có hiệu lực (l).
    Nhưng, như vẫn thường xảy ra ở Việt Nam, thực tế khác xa so với những lời nói hoa mỹ khoa trương. Vào năm 1960, quân đội Nam Việt Nam vẫn thiếu những sĩ quan có năng lực, và sau này tướng Williams đã thú nhận rằng, nhiều sĩ quan giữ cương vị chủ chốt vẫn còn "kém về chất lượng". Theo một trong những trợ lý hàng đầu của tướng Williams thì "không ai có thể đào tạo được những chỉ huy giỏi bằng cách cử đến các căn cứ huấn luyện ở Benning, Knox, Leavenworth hay Quantico những cậu học trò thiếu giáo dục, được trang bị, huấn luyện yếu kém và thiếu động cơ phấn đấu" (2).
    -----------------------------
    (1) Conner, "Những chiếc răng cho con Rồng của Thế giới Tự do", tr.33.
    (2) Robert H. Whitlow, "Quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam, 1954-1960", luận văn Thạc sĩ, Đại học Kentucky, năm 1972, tr.87.

    -----------------------------
  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Quyết tâm của Diệm duy trì một chế độ kiểm soát chặt chẽ với quân đội đã làm vô hiệu hoá những nỗ lực của MAAG nhằm xây dựng một hệ thống chỉ huy vận hành trơn tru. Tổng thống Diệm đích thân ra lệnh cho các đơn vị đi chiến đấu, phớt lờ Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu. Ông ta chọn những sĩ quan tin cẩn để giao những chức vụ quan trọng chứ không chọn các sĩ quan có năng lực, đề bạt sĩ quan theo lòng trung thành chứ không căn cứ thành tích và thường xuyên cải tổ bộ máy chỉ huy cấp cao. Ở Sài Gòn đã có một câu nói châm biếm rằng: "Các vị tướng và đại tá là những lữ khách hạng nhất duy nhất ở Việt Nam" (1).
    -----------------------------------
    (1) Jean Lacouture, Việt Nam giữa hai lần đình chiến, New York, năm 1966, tr.117.
    [​IMG]
    -----------------------------------
    Tuy nhiên, vấn đề cơ bản là quân đội được huấn luyện để làm một nhiệm vụ sai lầm. Cần phải phê phán kịch liệt MAAG đã không chuẩn bị cho quân đội Nam Việt Nam khả năng đối phó với lối tác chiến du kích, nhưng theo tầm nhìn của giữa những năm 50 thì trọng tâm của phái đoàn này cũng khá hợp lý. Đứng trước một nhiệm vụ hầu như không thể thực hiện nổi là từ một con số không xây dựng nên một đội quân có khả năng thực hiện hai nhiệm vụ rất khác nhau, MAAG theo lẽ tự nhiên phải ngả về lối tác chiến chính quy là điều quen thuộc đối với họ nhất. Hơn nữa, ít nhất cho đến tận năm 1958, vùng nông thôn vẫn còn khá yên tĩnh và dường như Diệm đã cố thủ vững chắc. Williams và hầu hết các nhân viên của ông ta đã phục vụ ở Triều Tiên, cùng nét tương đồng đáng ngạc nhiên giữa tình hình Việt Nam và Triều Tiên đã khiến họ ngả sang hướng tập trung vào mối đe dọa của một cuộc xâm lược từ miền Bắc. Cũng do rút kinh nghiệm từ thực tiễn chiến tranh ở Hy Lạp và Philippines, họ nghi ngờ Bắc Việt Nam có thể đủ khả năng đe dọa miền Nam. Do vậy, quân đội Nam Việt Nam được huấn luyện, tổ chức và trang bị chủ yếu để tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô và chỉ sau khi Nam Việt Nam bị một cuộc chiến tranh nổi dậy ở nông thôn bao vây thì toàn bộ những yếu kém của đội quân này mới hộc lộ rõ.

  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Dân phòng là một lực lượng bán quân sự có nhiệm vụ hỗ trợ cho quân đội duy trì trị an, nhưng ngay từ đầu nó đã bị cản trở bởi những mâu thuẫn trong công tác tổ chức và huấn luyện. Các cố vấn từ trường đại học Michigan được điều sang giúp xây dựng lực lượng dân phòng thấy chỉ cần xây dựng một lực lượng nhỏ được huấn luyện và trang bị một nhóm nhỏ để làm nhiệm vụ cảnh sát ở cấp tỉnh và xã, nhưng Diệm được sự ủng hộ của Lansdale và phái đoàn MAAG lại thiên về một lực lượng quân sự bổ trợ có trang bị trực thăng, xe thiết giáp, súng bazôca và có khả năng tác chiến ở quy mô nhỏ. Washington ủng hộ nhóm cố vấn tới từ đại học Michigan và không chịu viện trợ cho lực lượng dân phòng cho đến khi Diệm buộc phải chấp thuận, nhưng lực lượng này chưa bao giờ được phát triển lên thành một lực lượng có hiệu lực. Diệm dùng lực lượng dân phòng như một bãi rác để gom vào đó các sĩ quan kém cỏi. Theo lời lẽ của Lansdale thì việc huấn luyện của các chuyên gia cảnh sát tới từ đại học Michigan khiến cho "lực lượng dân phòng không có khả năng đối phó với những thực tế của vùng nông thôn Việt Nam. Một tiểu đội cảnh sát lực lượng dân phòng, được trang bị còi, dùi cui và súng ngắn cỡ 9,2 ly khó có khống chế được một tiểu đội du kích có tiểu liên, súng trường, lựu đạn và súng cối" (1).
    ------------------------
    (1) Lansdale, ở giữa cuộc chiến, tr.353.
    -----------------------
    [​IMG]
    (Huấn luyện Dân vệ - ảnh ST)
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 15:44 ngày 26/11/2008
  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Mỹ cũng đổ hàng triệu USD viện trợ cho nền kinh tế Nam Việt Nam từ năm 1955 đến năm 1960, phần lớn trong số đó thông qua chương trình nhập khẩu thương mại. Một quan chức Mỹ đầu óc mang đầy tính đố kỵ đã mô tả chương trình nhập khẩu thương mại này là "một phát minh lớn nhất sau khi phát minh ra bánh xe", nó được thiết kế để khắc phục tình trạng thâm hụt ngoại tệ trầm trọng của Nam Việt Nam trong khi vẫn tránh được nạn lạm phát phi mã do đổ một khối lượng lớn hàng hoá tiêu dùng vào một nền kinh tế quá yếu kém (1). Các nhà nhập khẩu Việt Nam nhập từ các hãng xuất khẩu nước ngoài nhiều loại hàng hoá từ thực phẩm cho tới ôtô, với những hoá đơn do Washington thanh toán. Các nhà nhập khẩu thanh toán bằng tiền Việt Nam, rồi sau đó những khoản tiền này chảy vào một "ngân quỹ tương ứng" do ngân hàng quốc gia Việt Nam quản lý và được chính quyền Diệm sử dụng để trang trải chi phí hoạt động và cung cấp tài chính cho các dự án phát triển. Từ năm 1955 đến năm 1959, chương trình nhập khẩu thương mại đã lên tới gần 1 tỷ USD. Hơn nữa, trong thời gian này Mỹ cũng viện trợ kinh tế trực tiếp hơn 120 triệu USD và viện trợ kỹ thuật hơn 16 triệu USD cho chính quyền Nam Việt Nam.
    ---------------------------------------
    (1) ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, Hiện trạng tại Việt Nam, Điều trần, năm 1959,Washington. D.C., 1959, tr. 203.
    ---------------------------------------
  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Chương trình viện trợ của Mỹ đã mang lại những kết quả đáng kể. Chương trình nhập khẩu thương mại giải quyết dược tình trạng thâm hụt ngoại tệ của Nam Việt Nam và chặn đứng được nạn lạm phát do nhập khẩu một số lượng lớn hàng hoá tiêu dùng. Đồng tiền và kỹ thuật của Mỹ đã giúp khắc phục những những thiệt hại to lớn do hơn một thập kỷ chiến tranh gây nên, xây dựng lại các xa lộ, hệ thống đường sắt, kênh rạch và làm tăng năng suất nông nghiệp chút đỉnh. Các chuyên gia tới từ các trường đại học nông nghiệp Mỹ thúc đẩy phát triển các loại hoa màu mới và tạo những điều kiện thuận lợi về tín dụng cho các điền chủ nhỏ. Các nhà giáo dục Mỹ giám sát việc thành lập các trường học và cung cấp sách giáo khoa. Chuyên gia y tế cung cấp thuốc men và dụng cụ y tế đồng thời giúp đào tạo y tá và nhân viên y tế không chuyên. Một nhóm chuyên gia quản trị hành chính công tới từ trường đại học Michigan huấn luyện cho các viên chức Việt Nam những kỹ năng từ đánh máy cho tới quản lý nhân sự, và thậm chí còn lập trường đào tạo cảnh sát để huấn luyện cái mà người ta quảng cáo là "những người hoàn hảo nhất của Việt Nam" (1).
    Viện trợ của Mỹ đã giúp cho Nam Việt Nam tồn tại được trong những năm đầu tiên đầy gian khó, và đến cuối thập kỷ 50 một quốc gia mới đã dường như đang trên đà phát triển. Theo nhận xét của một du khách thì "tại Sài Gòn, các cửa hiệu và chợ búa tràn ngập hàng hoá tiêu dùng; đường phố đầy rẫy xe máy đời mới và ô tô đắt tiền; và ở khu cư trú của những người có thu nhập cao, nhiều toà nhà mới lộng lẫy đang mọc lên"(2).
    ------------------------------
    (1) Các hoạt động của Phái bộ Mỹ, Xây dựng Sức mạnh kinh tế (Washington, D.C., 1958), tr.75.
    (2) Milton C. Taylor, "Nam Việt Nam: Viện trợ hào phóng, những tiến bộ còn hạn chế", Tạp chí Các vấn đề Thái Bình Dương, số 34 (năm 1961), tr.242.

    ---------------------------------
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Sau khi tiến hành điều tra về việc sử dụng viện trợ kinh tế của Mỹ, thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Gale McGee của bang Wyoming đã đề nghị rằng cần biến Nam Việt Nam thành một "phòng trưng bày" của chương trình viện trợ nước ngoài, một nơi mà dân chúng các nước khác có thể tới xem tận mắt "toàn bộ hiệu quả của những nỗ lực của Mỹ giúp các dân tộc khác tự phát triển" (1).
    Tuy nhiên, một lần nữa cái vẻ bề ngoài lại lừa dối chúng ta, bởi vì nhiều lắm thì chương trình viện trợ của Mỹ chỉ đem lại những kết quả hỗn tạp. Chắc chắn người nhận viện trợ biết ơn tấm lòng hào phóng của Mỹ, nhưng họ không thể không có nghi ngờ. Một người Mỹ nhận xét: "Sau 80 năm bị người Pháp bóc lột tàn nhẫn, nhiều người Việt Nam lại không hiểu vì sao bỗng nhiên mà Mỹ lại chi quá nhiều tiền ở Việt Nam đến vậy"(2). Quan trọng hơn dù viện trợ của Mỹ có ngăn chặn được sự suy sụp kinh tế và duy trì được mức sống cao tại Sài Gòn, nhưng nó cũng chẳng có tác dụng gì trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế hoặc để cải thiện điều kiện sống ở các vùng nông thôn, nơi có hơn 90% dân số Nam Việt Nam đang sinh sống. Từ năm 1955 đến năm 1959, viện trợ quân sự gấp 4 lần viện trợ kinh tế và viện trợ kỹ thuật cộng lại, và trong số gần 1 tỷ USD trong "ngân quỹ tương ứng", có hơn 78% dành cho mục đích quân sự. Chính vì cả các quan chức Việt Nam lẫn Mỹ đều quá bận tâm về vấn đề "an ninh" nên những người quan tâm đến các dự án khác thấy phải dùng lý do quốc phòng để biện minh cho các dự án đó. Cả Sài Gòn và Washington đều nhấn mạnh rằng một khi vẫn tiếp tục hiện diện những mối đe dọa nghiêm trọng từ bên trong lẫn bên ngoài thì họ không có lựa chọn nào khác; nhưng việc quá chú trọng vào viện trợ quân sự đã dẫn đến số tiền viện trợ cho phát triển kinh tế dài hạn chẳng còn bao nhiêu.
    ----------------------------
    (1) Thượng viện, Điều trần, 1959, tr.369.
    (2) Thượng viện Mỹ, Uỷ ban Đối ngoại, Báo cáo về chương trình viện trợ của Mỹ tại Việt Nam, ngày 26-2-1960 (Washington, D.C., 1960), tr.8.

    ----------------------------
  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Năm 1960, một uỷ ban của thượng viện Mỹ đã chỉ ra rằng, chương trình viện trợ quân sự "chỉ là một bộ phận nhưng lại điều khiển được tổng thể" (1).
    --------------------------
    (1) Thượng viện Mỹ, Uỷ ban Đối ngoại, Báo cáo về Chương trình viện trợ của Mỹ tại Việt Nam, ngày 26-2-1960, Washinglon. D.C., năm 1960, tr.8.
    --------------------------
    Nhưng chương trình nhập khẩu thương mại cũng hàm chứa nhiều điểm yếu. Chương trình này là một sự lãnh phí to lớn vì các nhà nhập khẩu thường xuyên nhập khối lượng hàng nhiều hơn mức tiêu thụ và nó cũng tạo nên vô số cơ hội để thu lợi mau chóng. Tuy nhiên, điểm yếu nghiêm trọng nhất của chương trình lại nằm ở chỗ nó tài trợ cho một mức sống giả tạo cao trong khi đóng góp quá ít ỏi cho sự phát triển. Đến tận năm 1957, khoảng 2/3 hàng nhập khẩu vẫn là hàng tiêu dùng và phần lớn tiền của đổ vào tiêu dùng chứ không đổ vào công nghiệp hay nông nghiệp.
    Diệm ngoan cố chống lại ý định giảm tỷ lệ hàng tiêu dùng của Mỹ với lý lẽ việc giảm mức sống sẽ tạo nên bất ổn trong nước. Mỹ cũng có một số điều chỉnh, qua việc giảm bớt những thứ hàng xa xỉ như dàn âm thanh Hi-Fi, dụng cụ lướt ván và giảm số hàng tiêu dùng xuống còn 1/3 tổng số
    hàng nhập, nhưng hiệu quả thu được vẫn không đáng kể.
    Năm 1963, Robert Scigliano kết luận rằng, chương trình nhập khẩu thương mại thực ra là "một dự án cứu tế quy mô lớn nhưng không có tác dụng đem lại sự phát triển kinh tế đáng kể tại Việt Nam" (2).
    --------------------------
    (2) Robert Scigliano: Nam Việt Nam: Một quốc gia bị dồn nén, Boston, năm 1964, tr.125.
    [​IMG]
    ---------------------------
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 10:35 ngày 10/12/2008
  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Dù chỉ chi tiêu một tỷ lệ nhỏ số tiền được viện trợ vào công cuộc phát triển, nhưng Mỹ và Nam Việt Nam vẫn thường xuyên bất hoà. Mỹ nhấn mạnh rằng phát triển công nghiệp phải dựa vào doanh nghiệp tư nhân, và cho đến những năm 1960, Mỹ vẫn không chịu cấp vốn cho các ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Diệm và thuộc hạ cùng chung một thái độ miệt thị của tầng lớp quan lại đối với giới thương nhân và cùng quan điểm với những người theo chủ nghĩa dân tộc không tin vào tư bản nước ngoài. Họ lên án thái độ của Mỹ là "cổ lỗ lạc hậu" rồi khăng khăng đòi phải để cho chính phủ sở hữu các ngành quan trọng, ít nhất là vào lúc đầu. Kết quả là một sự bế tắc cay đắng ngăn cản mọi chương trình phát triển công nghiệp có tính xây dựng.
    Viện trợ ồ ạt của Mỹ đã duy trì được sự sống cho nền kinh tế Nam Việt Nam, nhưng lại nuôi dưỡng tính phụ thuộc chứ không tạo ra cơ sở cho một quốc gia độc lập thực sự. Sản lượng lúa gạo tăng gấp đôi trong giai đoạn 1955-1960, nhưng sự tăng trưởng chủ yếu do tiêu dùng trong nước tăng lên, trong khi năng suất công nghiệp lại chẳng giành được sự tăng trưởng đáng kể nào. Nam Việt Nam dựa vào nhập khẩu ở mức độ cao để duy trì mức sống
    và dựa vào đồng USD của Mỹ để thanh toán cho những khoản tiêu dùng này. Cả hai bên đều biết nếu Mỹ giảm hoặc ngừng viện trợ thì sẽ dẫn đến sự suy sụp về kinh tế và chính trị ở Nam Việt Nam. Năm 1961, Milton Taylor đã viết: Nền kinh tế Việt Nam là "một mô hình mà thu nhập quốc dân phụ thuộc vào các lực lượng bên ngoài chẳng khác khi còn là thuộc địa của Pháp... Viện trợ của Mỹ chỉ xây dựng được một lâu đài trên cát" (1).
    Tuy nhiên, chính trị chính là vấn đề cơ bản trong xây dựng quốc gia, đó là việc giúp Việt Nam xây dựng một nền dân chủ kiểu Mỹ. Các cố vấn Mỹ đã giúp thảo ra một bản Hiến pháp, trong đó có nhiều dấu hiệu của các nền dân chủ phương Tây như tổng thống và cơ quan lập pháp do dân bầu và những đảm bảo về các quyền chính trị cơ bản.
    Trong thực tế, Mỹ rất ít chú ý đến các vấn đề chính trị và mặc dù những khoản viện trợ của họ là to lớn nhưng ảnh hưởng mà nó mang lại không lớn. Một số người Mỹ ngây thơ cho rằng, Diệm cùng chung những chuẩn mực chính trị của họ; một số khác lại quá bận tâm với vấn đề an ninh mà lúc đó dường như là cấp bách nhất. Đa số người Mỹ chung quan điểm với ngoại trưởng Dulles cho rằng, đối với Diệm "chỉ cần có hiệu lực, chống cộng và mạnh mẽ" là đủ, và tuy chính phủ theo chính thể đại nghị là một mục tiêu mong muốn dài hạn nhưng không thể thực hiện nó một sớm một chiều (2).
    Dù vì lý do gì chăng nữa, chính phủ Mỹ và phái bộ của nước này ở Sài Gòn cũng đã làm được rất ít để thúc đẩy dân chủ, hoặc cải tổ chính trị cho đến khi phong trào cách mạng bùng lên trên toàn miền Nam Việt Nam.
    ------------------------------
    (1) Taylor, "Nam Việt Nam", tr.256.
    (2) Họp báo của Dulles, ngày 7-5-1955, Văn kiện Dulles, Princeton, N.J., Hộp 99, Frederick Reinhardt phỏng vấn, đã dẫn.

    ----------------------------
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 10:36 ngày 10/12/2008
  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Dù sao đi nữa, Diệm cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Đối với Diệm, nền dân chủ là thứ xa lạ với tính cách của ông ta cũng như những gì Diệm đã trải qua. Do ông ta có một triết lý chính trị riêng, đó là một khái niệm mơ hồ về "chủ nghĩa cá nhân", một thứ pha trộn tư tưởng Đông-tây mà Diệm và Nhu sử dụng để hợp lý hoá cho thứ quyền lực tuyệt đối của nhà nước, cho việc không tin vào chế độ cai trị của quần chúng và cho niềm tin rằng một nhóm nhỏ giới tinh hoa có trách nhiệm định đoạt phúc lợi chung của xã hội. Thần tượng của Diệm là vua Minh Mạng, một nhà cải cách thế kỷ XIX đã tạo nên một tập hợp quan lại để ủng hộ các chỉ dụ của ông. Triết lý cai trị của Diệm được thể hiện súc tích qua một dòng mà chính ông ta bổ sung vào hiến pháp: "Tổng thống được trao quyền lãnh đạo quốc gia". Diệm cho những những nguyên tắc của mình là một điều thiện cho tất cả và tin chắc rằng dân chúng phải được dìu dắt dưới bàn tay che chở của những người biết cái gì là tốt nhất cho họ. Như Bemard Fall đã viết, Diệm là một người rất đa nghi, nên ông ta tin rằng "không có chỗ cho sự thỏa hiệp và nhất thiết mọi sự chống đối đều mang tính lật đổ và phải trấn áp nó mới mọi sức lực mà chế độ có thể có" (1).
    ---------------------------
    (1) Bemard Fall, Hai nước Việt Nam: Một phân tích về chính trị và quân sự (New York, 1967), tr.237.
    ----------------------------
  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Để làm vừa lòng các cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng Diệm cũng nói đến dân chủ, nhưng trong thực tế, ông ta nắm quyền lực tuyệt đối. Đích thân Diệm khống chế ngành hành pháp trong chính phủ, giành cho cá nhân mình và các anh em ruột mọi quyền quyết định, 3 trong số này được bổ nhiệm vào một nội các chỉ có 6 người. Không thể hoặc không muốn giao quyền, Diệm đã giám sát hoạt động của toàn bộ chính phủ tới những chi tiết nhỏ nhất. Các thành viên nội các hoặc các viên chức cấp cao nào tỏ ý phản đối sẽ nhanh chóng bị đẩy đi làm đại sứ ở nước ngoài, hoặc chịu những hình phạt tồi tệ hơn. Ngành hành pháp át chế hoàn toàn ngành lập pháp, tuy cơ quan này được xây dựng qua những tiến trình bầu cử được vận hành thận trọng.
    Trong những năm đầu tiên, quốc hội chẳng tự đưa ra được điều gì quan trọng và chỉ biết ngoan ngoãn thông qua mọi thứ do tổng thống đệ trình lên.
    Chính phủ Diệm có lẽ vẫn tồn tại nếu như đã theo đuổi những chính sách đúng đắn, nhưng việc chính phủ này không quan tâm đến nhu cầu của dân chúng, đàn áp tàn bạo những người bất đồng ý kiến đã khơi dậy một tâm trạng bất mãn mà cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ này. Chính sách của Diệm đối với các làng xã - xưa nay vẫn là xương sống của xã hội Việt Nam - thể hiện sự thiếu quan tâm và gần như là vô trách nhiệm đến nhẫn tâm. Lansdale thuyết phục Tổng thống Diệm thực hiện chương trình Công dân vụ (Civil Action Program) để tăng cường giúp đỡ các làng xã, nhưng Diệm hầu như không quan tâm đến chương trình này, và, như sau này Lansdale tường trình, "nó đã thất bại" (1). Do Mỹ tiếp tục đề nghị, chính quyền Diệm đã thực hiện một chương trình cải cách điền địa, nhưng rồi cũng chỉ được thực hiện một cách miễn cưỡng và không làm được gì nhiều để đáp ứng được lòng khát khao ruộng đất đang dâng cao của nông dân Nam Việt Nam.
    "Cải cách" quan trọng duy nhất mà chính quyền Diệm thực hiện trong những năm 50 đã làm bùng lên sự căm phẫn trong các làng xã. Hành động sai lầm là Diệm đã huỷ bỏ các cuộc bầu cử địa phương truyền thống và bắt đầu bổ nhiệm quan chức ở cấp tỉnh và xã, nhằm tập trung hoá quyền lực và làm giảm ảnh hưởng của ********* ở nông thôn. Dân làng từ nhiều thế kỷ nay được hưởng quyền tự quản và nay phải tiếp đón những kẻ ngoại quốc, theo Frances FitzGerald, "cứ như là họ phải đón tiếp các thống đốc từ nước đi chinh phục" (2). Nỗi lo sợ vì sự có mặt của những kẻ ngoại lai thường bị tăng lên do những hành động của bọn chúng. Nhiều quan chức được Diệm chọn vì lòng trung thành cá nhân và phần lớn trong số đó ít được đào tạo về nghiệp vụ. Một số sử dụng địa vị của mình để làm giầu cá nhân; một số tỉnh trưởng còn bắt bớ những người có chút của cải với những tội lỗi bịa đặt và buộc họ phải hối lộ để được thả về.
    -------------------------
    (1) Lansdale, ở giữa các cuộc chiến, tr.212.
    (2) FitzGerald, Lửa trong lòng hồ, tr.154.

    -----------------------

Chia sẻ trang này