1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950 - 1975

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi tuaasn, 21/10/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Cuộc khủng bố tàn khốc của Diệm chống lại các đối thủ chính trị đã gây ra ngày càng nhiều bất mãn ở thành phố cũng như ở nông thôn. Các báo chí phê phán chính phủ lập tức bị đóng cửa. Sở nghiên cứu chính trị dưới sự chỉ đạo của Nhu đã khủng bố dã man những người bị tình nghi có hành vi lật đổ. Sử dụng quyền hạn được tổng thống giao phó qua nhiều sắc lệnh, chính phủ Nam Việt Nam đã dồn hàng ngàn người Việt Nam - cả Cộng-sản lẫn phi Cộng-sản - vào các "Trung tâm Cải huấn". Họ bị buộc tội vô cớ là đe dọa trật tự công cộng. Chương trình cải huấn lúc đầu nhằm vào lực lượng ********* "nằm vùng" nhưng đã mở rộng tới tất cả những người dám lên tiếng chống đối chính quyền Diệm. Chế độ Diệm đã thừa nhận đến năm 1956 đã bỏ tù 20.000 người và chiến dịch này sau đó càng được đẩy mạnh. Năm 1960, một báo cáo tình báo Mỹ đã kết luận rằng, chính quyền Diệm "có xu hướng nghi ngờ và cưỡng ép dân chúng để rồi phải chuốc lấy thái độ ghẻ lạnh và oán hận của họ" (1).
    =============
    (1) "Báo cáo đặc biệt về tình hình an ninh Sài Gòn", ngày 7-3-1960, USVN, Quyển 10, tr.1267-1280.
    ----------------------
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 11:33 ngày 11/12/2008
  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Ở Mỹ, Diệm vẫn là một hình ảnh được sủng ái chỉ cho đến khi Nam Việt Nam bị nhấn chìm trong phong trào cách mạng vào đầu những năm 1960. Cho đến tận cuối thập kỷ đó, ngay cả những người Mỹ thân cận với chính quyền Diệm cũng không biết mức độ mà Diệm đã làm cho dân chúng xa lánh. Hơn nữa, dưới con mắt của người Mỹ, lập trường chống cộng mạnh mẽ của Diệm đã bù đắp những nhược điểm của ông ta. Những nhà biện hộ như Wesley Fishel, giáo sư đại học Michigan, thừa nhận: "Diệm đã dùng các biện pháp chuyên chế", nhưng lại lý giải rằng: "Do Việt Nam thiếu kinh nghiệm về dân chủ cùng với mối đe dọa từ nội bộ do chủ nghĩa Cộng-sản gây ra, nên ông ta không còn lựa chọn nào khác". Giới truyền thông Mỹ thì tập trung nói về tình hình ổn định ở Việt Nam nhờ sự lãnh đạo của "một con người bé nhỏ, cứng rắn và phi thường". Khi Diệm đi thăm Mỹ năm 1957, ông ta được tiếp đón và hoan nghênh đặc biệt ở nhiều nơi.
    [​IMG]
    Hình ảnh này vẫn còn lưu lại, thậm chí sau cả khi cuộc nổi dậy đã lan rộng khắp Nam Việt Nam. Năm 1959, phóng viên báo Newsweek Emest Lindley phải thốt lên rằng: "Với bảng thành tích của mình, Diệm phải được xếp vào một trong lãnh tụ tài ba nhất của Châu Á tự do. Chúng ta (tức người Mỹ) có thể tự hào về sự chi viện của mình" (1).
    --------------------
    (1) Emest K. Lindley, "Một đồng minh đáng giá", Newsweek (ngày 29-6-1959), tr.31.
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 12:57 ngày 11/12/2008
  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Đúng vào lúc người Mỹ tán dương những điều "thần kỳ" do Diệm tạo nên thì phong trào cách mạng, mà cuối cùng cuốn ông ta khỏi chiếc ghế quyền lực và buộc Mỹ phải can thiệp ồ ạt, đang bám rễ sâu hơn. Sau này chính phủ Mỹ đã dùng nhiều lập luận để chứng minh rằng cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là kết quả của "hành động xâm lược miền Bắc", rằng quyết tâm của Bắc Việt Nam muốn áp đặt chủ nghĩa Cộng-sản lên "nước láng giềng" phía Nam. Nhưng nhiều nhà phê bình chính sách Mỹ lại quả quyết rằng, cuộc cách mạng đó đã bắt nguồn từ bên trong, chủ yếu là để đối phó với hành động đàn áp của Diệm rồi sau đó đã phát triển lên mà không có sự hỗ trợ quan trọng của miền Bắc. Tuy còn nhiều điều chưa rõ về nguồn gốc của cuộc chiến, nhưng bản đánh giá có sức thuyết phục nhất của William Duiker kết luận rằng, phong trào đồng khởi này là một "cuộc khởi nghĩa chân chính ở miền Nam nhưng được tổ chức và chỉ đạo từ miền Bắc" (1).
    Trong những năm sau hiệp định Geneva, Bắc Việt Nam rất thận trọng trong vấn đề thống nhất đất nước. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều dường như không ủng hộ một phương sách gây hấn. Dù sao chăng nữa, Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông cũng vấp phải nhiều khó khăn to lớn trong công cuộc tái thiết và xây dựng quốc gia sau chiến tranh. Cải cách ruộng đất đã được Hà Nội tiến hành, song những báo cáo về "cuộc tắm máu", trong đó khoảng 500.000 người bị hành hình khi thực hiện chương trình này, là thực sự cường điệu (2)...
    -----------------------------
    (1) William J. Duiker, Con đường nắm quyền của chủ nghĩa Cộng-sản tại Việt Nam, Boulder, Colo., năm 1981, tr.198.
    (2) Edwin E. Moise, Cải cách Ruộng đất tại Trung Quốc và Bắc Việt Nam, Chaper Hill, N.C., năm 1983, tr.178-268.

    -----------------------------
  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Theo các nhà nghiên cứu lịch sử đảng Cộng-sản thì hậu quả là "một thời kỳ đen tối nhất" đối với cách mạng miền Nam. Các cuộc tuyển cử không được tổ chức và cũng không có sự khoan hồng như đã hứa hẹn trong hiệp định Geneva. Quan trọng hơn, Diệm rốt cuộc trở thành mối đe dọa lớn hơn dự kiến của các đối thủ. Các chiến dịch chống cộng của ông ta cực kỳ tàn bạo, đến năm 1957, số lượng đảng viên Cộng-sản ở Nam Việt Nam đã giảm sút đáng kể.
    [​IMG]
    (Hình ảnh ST)
    Trước nguy cơ tan vỡ, cán bộ lãnh đạo ở các địa phương bắt đầu tự vệ nhằm bảo tồn lực lượng.
    Từ năm 1957 đến năm 1959, Hà Nội chỉ đạo và tham gia tích cực hơn phong trào cách mạng đang phát triển ở miền Nam. Mặc dù vậy trong thời gian này, Hà Nội vẫn tiếp tục ưu tiên củng cố cách mạng ở miền Bắc, nhưng cho phép phong trào cách mạng ở miền Nam sử dụng vũ lực để bảo tồn lực lượng.
    Tháng 3-1957, Hà Nội thông qua kế hoạch hiện đại hoá quân đội. Năm 1959 là năm có nhiều quyết định quan trọng. Nhận thấy lực lượng cách mạng ở miền Nam Việt Nam đang ở tình trạng gay go và sự đàn áp của Diệm đã tạo nên một bầu không khí thuận lợi cho cuộc cách mạng, vào mùa xuân năm 1959, Hà Nội đã cho phép tiếp tục đấu tranh vũ trang và thực hiện những biện pháp tích cực để chi viện cho cách mạng miền Nam.
    Với khẩu hiệu "bí mật tuyệt đối, an toàn tuyệt đối", một lực lượng đặc biệt mang tên Đoàn 559 đã được thành lập, có nhiệm vụ xây dựng tuyến đường đưa người và hàng tiếp tế vào miền Nam Việt Nam qua Lào, và bắt đầu đưa lực lượng đã tập kết ra miền Bắc sau hiệp định Geneva trở về miền Nam giành lại thế chủ động.
    Tháng 9-1960, đại hội đảng lần thứ III đã chính thức phê chuẩn việc chuyển sang đấu tranh vũ trang, ưu tiên cho công cuộc giải phóng miền Nam ngang bằng với nhiệm vụ củng cố, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
    Tháng 12-1960, lực lượng cách mạng miền Nam đã thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam, một tổ chức có cơ sở quần chúng rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước chống Mỹ. Trong những bước đi này, dường như Bắc Việt Nam muốn che giấu sự tham gia của mình với hi vọng rằng có thể lật đổ Diệm bằng một cuộc cách mạng mang dáng dấp nội bộ mà không khiêu khích Mỹ can thiệp.
    Kết quả là phong trào cách mạng miền Nam đã phát triển mạnh mẽ. Năm 1958, ước tính có 700 quan chức trong chính quyền Diệm bị ám sát; năm 1960, con số này lên đến 2.500 người. Năm 1959, những trận đánh có quy mô lớn đã thay thế cho các trận đánh chớp nhoáng diễn ra ở các vùng nông thôn do chính quyền Diệm kiểm soát và đặt các đơn vị quân đội Nam Việt Nam vào thế bị nguy hiểm.
    Các mạng lưới tình báo và tuyên truyền sau hiệp định Geneva phải tạm nằm im thì nay tiếp tục hoạt động trở lại và nhiều cuộc vận động chính trị mạnh mẽ đã được phát động ở các làng mạc. Do những chính sách sai lầm của Diệm, mà cuộc đồng khởi này đã dễ dàng thu hút được quần chúng nhân dân - người nông dân lúc này giống như "một cây rơm sẵn sàng bốc cháy" (1).
    Vào lúc mà Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam được chính thức thành lập, ********* (một ngôn từ mà chế độ Diệm dùng để ám chỉ những người Cộng-sản Việt Nam, với hàm ý miệt thị) đã thu hút được hàng ngàn nông dân và đã hiện diện ở khắp các vùng nông thôn Nam Việt Nam.
    Sự đàn áp của chính quyền Diệm đối với phong trào cách mạng càng thổi bùng ngọn lửa căm thù của dân chúng với chính thể này. Diệm đẩy mạnh các chiến dịch chống cộng ở các vùng nông thôn và xiết chặt kiểm soát ở các thành phố, bắt bớ rất nhiều người mà họ gán cho cái mác bất mãn với chế độ.
    [​IMG]
    ----------------------------
    (1) Quốc hội Mỹ, Thượng viện, Văn kiện Lầo Năm góc (bản dành cho các Thượng nghị sĩ) (4 quyển), Boston, năm 1971, I, 329. Sau đây xin được dẫn là Văn kiện Lầu Năm góc (Gravel).
    --------------------------
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 13:32 ngày 11/12/2008
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 13:58 ngày 11/12/2008
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 13:59 ngày 11/12/2008
  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Năm 1959, Diệm thực hiện một chương trình có cái tên hẩm hiu là "Dinh điền" (agroville) để đối phó với phong trào cách mạng đang dâng lên ở nông thôn, qua đó một lần nữa minh chứng rằng nông thôn miền Nam Việt Nam không nằm trong sự kiểm soát của ông ta. Mục đích của chương trình này là đưa dân vào định cư ở những vùng do quân đội quốc gia kiểm soát, tránh các hoạt động quân sự và tuyên truyền của ********* và chính quyền Diệm đã tìm cách làm cho chương trình này trở nên hấp dẫn bằng cách xây dựng ở những khu tập trung mới này nhiều trường học, trạm xá và cả điện sinh hoạt. Nhưng người nông dân rất căm phẫn khi bị cưỡng ép rời bỏ nhà cửa ruộng vườn, mồ mả tổ tiên đến ở những nơi mà họ không muốn. Mỗi gia đình chỉ được nhận 5,5 USD, không đủ tiền mua mảnh đất cần thiết và bị buộc phải làm việc cho những công trình công cộng mà không được trả công.
    Chương trình "Dinh điền" cuối cùng đã phải huỷ bỏ sau khi gây ra bao nỗi thống khổ cho người dân và càng làm tăng thêm lòng căm hờn của người dân với chính quyền Diệm.
    Trong suốt năm 1960, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự yếu kém của chính quyền Diệm.
    Phong trào cách mạng phát triển không thể kìm hãm nổi ở nông thôn, và các hoạt động vũ trang tăng mạnh.
    Tháng 1-1960, tại Trảng Súp, một xã ở phía Đông Bắc Sài Gòn, 4 đại đội quân ********* đã tiêu diệt một sở chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng hoà và thu nhiều vũ khí khiến cho binh lính của Diệm và các cố vấn Mỹ rơi vào tâm trạng kinh hoàng. Vào tháng 4, sự mất lòng dân của chế độ nguỵ quyền Sài Gòn đã bộc lộ rõ rệt khi một nhóm chính trị gia phi Cộng-sản, trong đó có rất nhiều người đã từng phục vụ trong nội các của Diệm, tụ họp tại khách sạn Caravelle thông qua tuyên ngôn phản đối gay gắt hành động đàn áp của chính quyền Diệm, kêu gọi những cải cách sâu rộng. Đến tháng 11, Diệm chỉ chút nữa đã bị hạ bệ bởi một âm mưu đảo chính của 3 tiểu đoàn lính dù, những đơn vị vốn được xem như các lực lượng trung thành nhất của ông ta. Các báo cáo tình báo của Mỹ đã cảnh báo rằng, nếu xu hướng này còn tiếp tục thì gần như chắc chắn chế độ Diệm sẽ sụp đổ.
    Do chậm nhận ra sức mạnh của phong trào cách mạng miền Nam và sự bất lực của chính quyền cũng như quân đội Nam Việt Nam, đến năm 1960 Mỹ mới chuyển trọng tâm các chương trình quân sự từ tác chiến đặc biệt sang chống nổi dậy. Các quan chức quân sự Mỹ ở Washington và Sài Gòn bắt đầu xây dựng một kế hoạch toàn diện để phát triển và tổ chức lại quân đội và lực lượng dân phòng, trang bị cũng như huấn luyện chúng về tác chiến chống quân du kích. Trong khi kế hoạch này đang hình thành, phái bộ Mỹ ở Sài Gòn đã thực hiện những bước đi nhỏ giúp chính quyền Nam Việt Nam.
    Những chương trình huấn luyện hiện hành đều được định hướng lại. Các toán lực lượng đặc biệt của Mỹ được điều đến huấn luyện các tiểu đoàn biệt động, còn cố vấn quân sự Mỹ được bố trí ở cấp trung đoàn để góp ý ngay tại chỗ cũng đánh giá khả năng và nhu cầu của từng đơn vị. Tuy việc chuyển sang chống nổi dậy đã ngầm thừa nhận rằng chương trình cố vấn ban đầu đã thất bại, nhưng sự chuyển hướng này cũng không tạo ra được những thay đổi đáng kể. Nó chỉ làm cho viện trợ quân sự tăng lên và nảy sinh thêm nhiều đề nghị cho việc tổ chức lại bộ máy chính quyền (1).
    Lúc này, nhiều quan chức dân sự đã tế nhị thuyết phục Diệm thay đổi phương sách nhưng họ đã không thành công. Nhiều quan chức Mỹ, trong đó có đại sứ Elbridge Durbrow, lo ngại rằng nếu Diệm không cải tổ nội các và tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng thì lực lượng nổi dậy sẽ đè bẹp chính quyền Nam Việt Nam. Tháng 10, Durbrow được Washington cho phép nói thẳng vấn đề này với Diệm.
    Ông ta khéo léo yêu cầu tổng thống Diệm mở rộng chính quyền bằng cách bổ nhiệm một nội các mới, nới lỏng chế độ kiểm soát đối với báo chí và quyền tự do của nhân dân, đồng thời cố gắng tranh thủ dân ở vùng nông thôn bằng cách phục hồi các cuộc bầu cử hương xã và tạo điều kiện thuận lợi để nông dân nghèo dễ vay tiền hơn. Diệm trả lời nước đôi rằng, những đề nghị này cũng phù hợp với quan điểm của ông ta, nhưng cái "khó nhất" là thực hiện chúng trong lúc chính quyền đang vấp phải sự chống đối từ bên trong (2). Vài tuần sau, Diệm xiết chặt chế độ kiểm soát bằng việc đặt quân đội vào tình trạng khẩn cấp và bắt giữ các nhà chính trị đã ra tuyên bố Caravelle.
    --------------------------
    (1) Spector, Cố vấn và Viện trợ, tr.372.
    (2) Hồi ký của Durbrow, ngày 15-10-1960, USVN, quyển 10, tr.1318.

    -----------------------
    dienthai: Trảng Sụp, không phải trảng súp.
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 13:47 ngày 11/12/2008
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Cuối năm đó, những người Mỹ ở Sài Gòn vô cùng kinh hoàng trước cuộc khủng hoảng và rất lúng túng trong việc khắc phục. Durbrow báo nguy cho Washington rằng, chính quyền Sài Gòn đang "lâm nguy trầm trọng" và cần có hành động "nhanh, thậm chí mạnh mẽ" để cứu nó. Về vấn đề viện trợ quân sự bổ sung, ông ta khuyên chính quyền Mỹ cần buộc Diệm phải thực hiện những cải cách sâu rộng (1).
    Phái bộ Mỹ tại Sài Gòn kiên quyết chống lại đề nghị của Durbrow. Mối quan tâm chính của MAAG là phát triển một lực lượng quân sự để đối phó hiệu quả với lực lượng nổi dậy, và nếu quá nhấn mạnh vào cải cách "dân chủ" sẽ làm suy giảm sự quan tâm chú ý đến cuộc chiến tranh và sẽ làm suy yếu Diệm. Trong năm 1960, cuộc tranh cãi này càng gay gắt hơn, nhưng theo lời một nhân vật tham dự thì các cuộc họp tại toà đại sứ lúc ấy "thực ra rất lịch sự" (2).
    [​IMG]
    Mặc dù cuộc thử nghiệm xây dựng quốc gia đang bị đe dọa vào cuối năm 1960, nhưng chính quyền Eisenhower không giải quyết các tranh cãi ở Sài Gòn mà cũng chẳng có biện pháp đáng kể nào để cứu vãn khoản đầu tư khổng lồ của họ. Trong phần lớn thời gian của năm 1960, Mỹ tập trung chú ý vào nơi khác. Một đốm lửa loé lên ở Berlin làm tăng thêm những căng thẳng của cuộc Chiến tranh lạnh ở châu Âu và sự cố máy bay U-2 cũng như cuộc họp cấp cao không thành ở Paris đã dẫn đến những căng thẳng to lớn trong quan hệ Xô-Mỹ. Sự xuất hiện một chính quyền cách mạng ở Cuba dưới sự lãnh đạo của Fidel Castro và quan hệ mật thiết giữa Cuba và Liên Xô đã làm nảy sinh nỗi lo sợ rằng Cộng-sản sẽ thâm nhập vào Tây bán cầu. Sự suy yếu của chính quyền Nam Việt Nam diễn ra dần dần và người ta chưa ý thức được một cuộc khủng hoảng đang tới dần cho đến cuối năm đó, trước khi Eisenhower đã có kế hoạch bàn giao quyền lực cho chính quyền của Đảng Dân chủ mới đắc cử của John F. Kennedy.
    ---------------------------------------------------
    (1) Durbrow gửi Bộ Ngoại giao (Mỹ), ngày 5-12-1960, sách đã dẫn, tr.1334-1336.
    (2) William Colby, Những quý ông tôn kính, New York, năm 1978, tr.160.

    ---------------------------------------------------
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 14:40 ngày 11/12/2008
  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Mặc dù thế, lúc này Lào lại được xem là vấn đề quan trọng nhất ở Đông Dương chứ không phải là Nam Việt Nam. Một chính phủ đôi chút thân phương Tây đã lên cầm quyền ở Lào sau hiệp định Geneva và đã nhận được sự ủng hộ hào phóng của Mỹ, nhưng khi họ định đi đến hoà giải với Pathet Lào, lực lượng cách mạng chiến đấu sát cánh bên *********, thì Mỹ đã giật dây thực hiện một cuộc đảo chính của phái hữu. Chính phủ mới do Mỹ đỡ đầu đã mở một chiến dịch quân sự đầy tham vọng nhằm đánh bại Pathet Lào nhưng không mấy thành công, và đến năm 1960 chính phủ này đã bị lật đổ bởi cái gọi là phái trung lập. Không chấp nhận một giải pháp chính trị thỏa hiệp, chính quyền Eisenhower kiên quyết ủng hộ cho chính phủ do mình bảo trợ và đẩy phái trung lập phải liên minh một cách đầy khó khăn với Pathet Lào. Vào cuối năm đó, Bắc Việt Nam và Liên Xô bắt đầu viện trợ với quy mô lớn cho các lực lượng chống Mỹ, và cuộc chiến tranh đã trở nên khốc liệt hơn.
    Vào đầu năm 1961, Eisenhower đã nghiêm túc cân nhắc khả năng Mỹ can thiệp quân sự vào Lào. Ngay từ tháng 5-1959, ông ta đã nghiêm khắc cảnh báo rằng, Lào có thể "phát triển lên thành một cuộc chiến tranh Triều Tiên mới"(1).
    ------------------------------------------
    (1) Hồi ký của Gordon Gray, ngày 14-9-1959, Văn kiện Eisenhower, hồ sơ giải mật, hộp 5.
    -----------------------------------
    Ngày 19-1-1961, trong một buổi chỉ dẫn cho tổng thống mới đắc cử Kennedy, Eisenhower đã góp ý rằng, việc Lào thất thủ sẽ đe dọa Thái Lan, Campuchia và Nam Việt Nam, và nếu Mỹ không có những biện pháp kiên quyết ở Lào thì họ có thể phải "từ bỏ" toàn bộ phần còn lại ở Đông Nam Á. Eisenhower còn nhận xét, hành động can thiệp phải mang tính đa phương, nhưng việc bảo vệ Lào quan trọng đến mức nếu như Mỹ không thể thuyết phục được các đồng minh SEATO tham gia thì họ có thể tự mình can thiệp. So với Lào, Nam Việt Nam dường như chỉ là vấn đề "thứ yếu", và thậm chí không được đề cập tới trong buổi chỉ dẫn tháng 1 về tình hình Đông Nam Á (1).
    ---------------
    (1) Hồi ký của Clark Clifford về buổi toạ đàm, ngày 19-1-1961, Văn kiện Lầu Năm góc (Gravel), II, tr.635-637.
    ---------------
  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Từ năm 1954 đến năm 1961, Mỹ đã quay trở về điểm xuất phát ban đầu ở Việt Nam. Đứng trước khả năng sụp đổ của Pháp, chính quyền Eisenhower đã nhanh chóng xem xét đến việc can thiệp quân sự để cứu Đông Dương khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng-sản. Tin rằng, do không mang theo tư tưởng của chủ nghĩa thực dân, Mỹ có thể thành công ở nơi mà Pháp từng thất bại, Eisenhower và Dulles đã chấp nhận để Pháp thất bại về quân sự và gánh vác công cuộc "xây dựng quốc gia".
    Lẽ ra Việt Nam phải giống như Hy Lạp và Triều Tiên, nơi mà Mỹ đã vực dậy được các đồng minh đang bị tấn công, nhưng do thiếu hiểu biết về lịch sử và văn hoá Việt Nam, người Mỹ đã đánh giá quá thấp những khó khăn trong công cuộc "xây dựng quốc gia" ở khu vực này.
    Những chương trình đầy tham vọng trong những năm 50 chỉ che đậy chứ không giải quyết được những vấn đề của Nam Việt Nam. Hơn nữa, để xây dựng được một quốc gia có thể trụ vững ở Nam Việt Nam, có lẽ phải cần có những "lãnh tụ" người Việt với quyết tâm, giàu óc tư duy và sáng suốt, những tố chất mà Mỹ không thể cung cấp. Ngô Đình Diệm có thể là "gương mặt sáng giá nhất" vào lúc đó, theo như Dulles miêu tả, và Mỹ đã hoàn toàn đặt hy vọng vào ông ta cũng như đã giúp ông ta tồn tại trong những năm 1954-1955 đầy sóng gió (1).
    ------------------
    (1) Họp báo của Dulles, ngày 1-3-1955, Văn kiện Dulles, Princeton, N.J., hộp 99.
    ----------------------
    [​IMG]
    Nhưng Diệm thiếu năng lực cần thiết để đối phó với những thách thức to lớn trong công cuộc xây dựng quốc gia và vào năm 1960, ông ta, giống như người Pháp trước đó, dường như không thể kiểm soát nổi tình hình. Do sự tình cờ của năm bầu cử, nên Eisenhower không được chứng kiến thất bại cuối cùng của những chính sách mà ông ta đã đề xướng ở Việt Nam. Chỉ một thời gian ngắn sau khi nhậm chức, John F. Kennedy sẽ phải lựa chọn hoặc là bỏ rơi cái mà trước đó ông ta gọi là "con đẻ của chúng ta" hoặc tăng cường cam kết ở mức độ lớn hơn.
    (hết chương 2)
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 15:37 ngày 11/12/2008
  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Chương III
    SỰ CỘNG TÁC CÓ GIỚI HẠN GIỮA KENEDY VÀ DIỆM (l961-1963)
    Tháng 1-1961, John F. Kennedy đã báo nguy cho nước Mỹ rằng: "Các vấn đề của chúng ra thật gay cấn. Xu hướng có chiều bất lợi. Tình hình sẽ tồi tệ hơn rồi mới khá lên" (1).
    Đây cũng là giọng điệu của Kennedy trong suốt chiến dịch vận động tranh cử năm 1960 và nó đã định hướng cho chính quyền của ông ta. Lúc này thế giới dường như đang bước vào một giai đoạn nguy hiểm nhất trong lịch sử. Cuộc đấu tranh để thoát ra khỏi quá khứ thuộc địa và xây dựng các thể chế hiện đại của hàng trăm quốc gia mới đã sinh ra rối loạn ở nhiều nơi trên thế giới.
    Lời nói và hành động của nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khruschchev cho thấy Cộng-sản có một thái độ táo bạo và thậm chí là liều lĩnh mới và một quyết tâm tận dụng tình trạng bất ổn đang lan tràn. Vào cuối những năm 50, đối đầu Xô-Mỹ đã mở rộng và sâu sắc hơn, rồi việc phát triển những loại vũ khí mới càng làm cho tình hình trở nên đặc biệt lo ngại. Nhìn về lâu dài, chủ nghĩa dân tộc cho thấy đây là một lực lượng mạnh hơn chủ nghĩa Cộng-sản hoặc chủ nghĩa tư bản dân chủ và chỉ trong vòng 2 năm, sự đổ vỡ trong quan hệ Trung-Xô đã bộc lộ rõ những bí ẩn trong "khối Cộng-sản".
    ------------------------
    (1) John F. Kennedy, Diễn văn ngày 30-1-1961, John F. Kelmedy, Văn kiện công khai, 1961, Washington, D.C, năm 1962, tr.27.
    ----------------------
  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Vào năm 1961, tình hình thế giới trở nên căng thẳng. Ở nước Mỹ, Kennedy lên cầm quyền với niềm tin chắc chắn rằng sự sống còn của nước Mỹ phụ thuộc vào khả năng họ có bảo vệ được các thể chế "tự do" hay không. Ông ta cho rằng, nếu Mỹ lung lay thì "toàn thế giới tất yếu sẽ bắt đầu rẽ sang phía chủ nghĩa Cộng-sản" (1).
    ------------------
    (1) Trích trong Seyom Brow, Thể diện của các cường quốc, New York, (năm 1969), tr.217.
    --------------------------
    Kêu gọi đồng bào của mình hãy trở thành "những người lính gác trên thành trì của tự do" và hứa hẹn về một sự lãnh đạo kiên quyết và mạnh mẽ, Kennedy đã đưa chính quyền Mỹ bước vào một cuộc đấu tranh với những hiểm hoạ của thời đạt mới. Ông ta tập trung quanh mình một đội ngũ cố vấn trẻ tuổi, nhiệt tình và trí tuệ được bố trí ở những cương vị hàng đầu của các học viện và ngành công nghiệp.
    Họ là những người tự tin, tích cực cùng chung quyết tâm với tổng thống "đưa nước Mỹ hoạt động trở lại". Những người tham gia chương trình Biên giới mới đã chấp nhận không chút vương vấn những giả định của chính sách ngăn chặn, nhưng họ cũng tin rằng họ phải "tiến lên để chiến đấu với chủ nghĩa Cộng-sản chứ không đợi chủ nghĩa Cộng-sản tấn công rồi mới phản ứng" như những lời Kennedy nói (1). Trưởng thành về chính trị trong chiến tranh thế giới thứ 2, họ rất lo sợ trước nguy cơ nổ ra một thảm hoạ toàn cầu mới. Nhưng những người này cũng phấn chấn trước triển vọng có thể dẫn dắt đất nước qua những thời kỳ khó khăn và giành thắng lợi cuối cùng, họ cùng chung quan điểm kiểu Wilson rằng vận mệnh đã chọn đất nước họ làm người bảo vệ và phổ biến lý tưởng dân chủ (2).
    ----------------------------
    (1) Trích trong Henry Fairline, Lời hứa của Kennedy, New York, năm 1973. tr.72.
    (2) Thomas G. Parerson, "Nảy sinh gánh nặng: Mội cái nhìn phê phán về chính sách đối ngoại của John F. Kennedy", Tạp chí Virginia hàng quý, 54, mùa xuân năm 1978, tr.197.

    ----------------------------

Chia sẻ trang này