1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950 - 1975

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi tuaasn, 21/10/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Kennedy và các cố vấn cũng nhận thấy tình hình chính trị trong nước đòi hỏi phải có một chính sách đối ngoại cứng rắn và thành công. Với những lời lẽ khoa trương trong cuộc vận động bầu cử năm 1960, ngài thượng nghị sĩ bang Massachusetts này đã lên án Eisenhower thiếu kiên quyết trong việc hứa lấy lại thế chủ động trong chiến tranh lạnh. Sau khi thắng cử với tỷ số sát nút nhất từ xưa đến nay, vị tân tổng thống cũng biết rất rõ những chỗ yếu của mình. Đặc biệt trong hai năm đầu nhậm chức, Kennedy luôn cảnh giác theo dõi tình hình trong nước khi có những quyết định về chính sách đối ngoại và ông ta vô cùng nhạy cảm trước những lời buộc tội của phe cộng hoà về những điểm yếu hoặc thái độ nhân nhượng của mình.
    Chính quyền mới của Mỹ ngay lập tức bắt đầu đối phó với những thách thức của cuộc chiến tranh lạnh. Tổng thống Kennedy ra lệnh ồ ạt xây dựng lực lượng hạt nhân và tên lửa tầm xa để tạo nên một khả năng răn đe thực sự đối với sức mạnh hạt nhân của Liên Xô. Do Eisenhower dựa quá nhiều vào vũ khí hạt nhân khiến Mỹ đã phải chịu bó tay và bị coi là "vai u thịt bắp" trong nhiều tình huống ngoại giao nên Kennedy chú trọng phát triển và hiện đại hoá các lực lượng quân sự Mỹ để có thể "phản ứng linh hoạt" trước nhiều loại hình và mức độ bị tấn công. Biết chắc rằng các quốc gia non trẻ sẽ là "chiến địa chính trong đó các lực lượng tự do và lực lượng Cộng-sản sẽ đọ sức", chính quyền Mỹ đã chú ý nhiều đến việc phát triển khả năng phản ứng có hiệu quả với chiến tranh du kích - "một căn bệnh quốc tế" mà Mỹ phải tìm cách "tiêu diệt" (1). Tuy nhiên Kennedy cũng thấy rằng, Mỹ phải xoá bỏ nguồn gốc của "căn bệnh" và nhấn mạnh vào việc đưa ra những chương trình viện trợ kinh tế và kỹ thuật nhằm xoá bỏ điều kiện để chủ nghĩa Cộng-sản phát triển và lái các lực lượng cách mạng đi theo con đường dân chủ.
    ------------------------
    (1) John McCloy và Walt W. Rostow trích trong Fairlie. Lời hứa của Kennedy, tr.132, 264.
    --------------------
    [​IMG]
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 07:21 ngày 20/12/2008
  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Việt Nam là một di sản bi thảm nhất của chiến lược toàn cầu trong kỷ nguyên Kennedy. Trước đó Kennedy đã rất quan tâm đến Việt Nam, nơi mà có lần vị tổng thống này gọi là "viên đá tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á". Hơn nữa trong con mắt ông ta và nhiều cố vấn, Nam Việt Nam sẽ trở thành một nơi thử nghiệm quyết tâm trong việc giữ vững cam kết của Mỹ ở thế giới đầy hiểm hoạ, đồng thời thử nghiệm khả năng của Mỹ đối phó với những thách thức mới của cuộc chiến tranh du kích tại các nước đang trỗi dậy.
    Kennedy từng tham gia các cuộc công kích Truman vì đã "đánh mất" Trung Quốc và ông ta cực kỳ nhạy cảm với những tổn thất chính trị do việc sẽ để mất thêm một vùng đất khác ở Châu Á. Vì vậy, so với Truman và Eisenhower, ông ta lại càng ít muốn để Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa Cộng-sản hơn.
    Kế thừa từ Eisenhower sự nguy hiểm gia tăng nếu vẫn giữ những cam kết có giới hạn, Kennedy lao sâu hơn vào bãi lầy. Như một số nhà phê bình đã nêu, Kennedy không tích cực đón lấy gánh nặng ở Việt Nam và hành động của ông ta tương phản rõ nét với lời nói của chính quyền Mỹ (1).
    ---------------------------
    (1) Thí dụ xem Bruce Miroff, Những ảo ảnh của chủ nghĩa thực dụng, New York, năm 1976, chi tiết tại tr.142-166.
    -------------------------
    Khi giải quyết các vấn đề chính sách lớn, ông ta thận trọng chứ không táo bạo, do dự chứ không quyết đoán và tuỳ hứng chứ không tính toán cẩn thận. Kennedy lần lữa không có cam kết kiên quyết trong gần một năm và rồi hành động chỉ khi chính phủ rệu rã của Diệm đã đến sát bờ vực sụp đổ.
    Lo ngại về những hậu quả trong nước và quốc tế của một giải pháp thương lượng nhưng không muốn mạo hiểm về một sự dính líu hoàn toàn, nên ông ta chọn con đường dung hoà, vừa mở rộng vai trò của Mỹ đồng thời lại duy trì vai trò này ở mức hạn chế.
    Trước mắt, một đường hướng như vậy tạo ra nhiều thuận lợi, nhưng về lâu dài thì nó mang tính ảo tưởng và mạo hiểm. Nó khuyến khích Diệm tiếp tục con đường tự huỷ diệt, trong khi vẫn làm cho người Mỹ tin rằng họ có thể đạt được một kết quả thuận lợi mà không phải trả giá cao. Đường hướng này thu hẹp hẳn những sự lựa chọn, làm cho khó thoát ra hơn và tạo nên một lập luận tự nó có lý để đi đến một sự cam kết lớn hơn và nguy hiểm hơn.
    [​IMG]
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 07:39 ngày 20/12/2008
  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Trong các chiến dịch vận động tranh cử tổng thống, Kennedy đã nhấn mạnh những mối nguy hiểm mà nước Mỹ đã phải đương đầu, vậy mà lúc này chính vị tân tổng thống lại chưa sẵn sàng trước những vấn đề mà ông ta được thừa hưởng. Sự đe dọa của Khrushchev về việc giải quyết vị thế của thành phố Berlin bị chia cắt theo cách của ông ta đã đẻ ra khả năng đối đầu trực tiếp giữa các siêu cường. Tháng 1-1961, Khruschchev đã có một diễn văn quan trọng thừa nhận Liên Xô có chi viện cho các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Có thể bài diễn văn này đã được soạn thảo để cho Trung Quốc và Mỹ cùng nghe, nhưng chính quyền Kennedy hiểu nó như một lời tuyên chiến thực sự. Việc Liên Xô tăng cường viện trợ cho Cuba, Congo và Lào dường như khẳng định tính chất nghiêm trọng của mối đe dọa này. Chính trạng thái tâm lý bị o bế này đã ám ảnh nhà Trắng vào đầu năm 1961, đến mức có lúc Kennedy phải chào đón các cố vấn của mình bằng một câu hỏi nghiêm trọng: "Hôm nay có sự kiện gì chống lại chúng ta không?" (1).
    ------------------------------
    (1) Trích trong Walt Whitman Rostow. Sự phổ quát quền lực: Một tiểu luận về lịch sử hiện đại, New York, năm 1972, tr.170.
    ------------------------
    Trong 100 ngày đầu của chính quyền Kennedy, Việt Nam không được coi là điểm rắc rối lớn. Trong các buổi thông báo của mình, Eisenhower thậm chí còn không nhắc đến Việt Nam. Chỉ cho đến tháng 1, sau khi đọc một báo cáo bi đát của Lansdale, Kennedy mới biết về sự phát triển của phong trào đồng khởi miền Nam và nhiều vấn đề mà Diệm phải đối phó. Lansdale đã dự đoán một cuộc tấn công quy mô lớn của ********* trước khi kết thúc năm đó, nhưng ông ta lại lạc quan kết luận rằng, "một nỗ lực lớn của Mỹ" có thể vô hiệu hoá được cuộc chạy đua giành quyền kiểm soát của Cộng-sản. Giống như hai bậc tiền nhiệm là Truman và Eisenhower, Kennedy cũng tin rằng, Việt Nam có tầm quan trọng sống còn đối với lợi ích toàn cầu của Mỹ, và rồi ông ta đã phê chuẩn thêm 42 triệu USD viện trợ để phát triển quân đội Nam Việt Nam (1).
    ---------------------------
    (1) McGeorge Bundy gửi Rostow, ngày 30-1-1961, Văn kiện Kennedy, Hồ sơ An ninh quốc gia, Hộp 192. Những phân tích chi tiết về chính sách của Kennedy trong năm đầu nhậm chức, xem Stephen Pelz, "Quyết định về cuộc chiến Việt Nam của John F. Kennedy", Tạp chí Nghiên cứu chiến lược, số 4, tháng 12-1981, tr.356-385.
    ----------------------
    Vào cuối tháng tư, các trợ lý của Kennedy một lần nữa lại theo dõi sát sao Việt Nam. Theo lời khuyên của đại sứ Durbrow, tổng thống Kennedy đã ra điều kiện là khoản viện trợ trong tháng 1 là để đổi lấy việc Diệm thực hiện những cải cách quân sự và chính trị. Nhưng Diệm ngần ngại và ba tháng sau chương trình viện trợ vẫn dậm chân tại chỗ và rồi cuộc chiến tranh chống ********* suy giảm dần.
  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Vào thời điểm này, những thất bại to lớn về chính sách ngoại giao tại Cuba và Lào dường như đã làm tăng tầm quan trọng của Việt Nam. Các hoạt động lén lút chống Fidel Castro kết thúc thảm bại tại Vịnh Con Lợn khiến Kennedy vô cùng choáng váng và chính quyền của ông ta cực kỳ lúng túng.
    Sau vụ Vịnh Con Lợn, Kennedy không còn tin tưởng vào hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và Cục Tình báo Trung ương, do đó đã bác bỏ nhiều đề nghị đưa quân vào Lào để ngăn chặn thất bại sắp xảy đến đối với chính phủ do Mỹ bảo trợ. Giới quân sự cảnh báo rằng, việc bảo vệ quân Mỹ được gửi đến Lào chiến đấu chống lại những hoạt động của Trung Quốc và Bắc Việt Nam sẽ đòi hỏi những biện pháp cực đoan, thậm chí đòi hỏi sử dụng đến vũ khí hạt nhân. Đất nước này nằm sâu trong đất liền, nếu xét về khía cạnh hậu cần thì việc can thiệp vào Lào quả là một lựa chọn tồi.
    Nhiều cố vấn của Kennedy cũng như đại sứ John Kenneth Galbraith cho rằng, là một "đồng minh quân sự, toàn bộ nước Lào rõ ràng là thua kém một tiểu đoàn những người từ chối nhập ngũ từ thời Chiến tranh thế giới thứ 2" (1). Hơn nữa, chính Tổng thống Kennedy nhiều lần chỉ rõ sẽ khó giải thích cho công chúng Mỹ lý do tại sao đưa quân sang nước Lào xa xôi mà lại không đưa quân sang Cuba ở ngay cạnh sườn. Cuối tháng 4, tổng thống Kennedy kết luận rằng, một giải pháp qua thương lượng là giải pháp phù hợp nhất mà ông ta có thể có ở Lào, và Mỹ đồng ý tham gia một hội nghị hoà bình tại Geneva.
    -------------
    (1) Galbraith gửi Kennedy, ngày 10-5-1961, Văn kiện Kennedy, hồ sơ công tác, hộp 20.
    [​IMG]
    JOHN KENNETH GALBRAITH
    ------------------
  5. tuhaovietnam.org

    tuhaovietnam.org Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/12/2008
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Càng đọc nhiều, tôi càng tự hỏi tại sao năm 2001 tôi không tham gia ngay từ đầu, cảm ơn. Tôi học được rất nhiều từ các bạn
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Trước hết, quyết định thương lượng ở Lào đã khiến chính quyền Mỹ phải xem xét cẩn thận chính sách của họ ở Việt Nam. Cùng với việc từ chối đưa quân đến Vịnh Con Lợn, việc không muốn can thiệp quân sự vào Lào dường như làm tăng tầm quan trọng của việc giữ lập trường kiên
    quyết ở những nơi khác. Chính quyền trước đó đã thu hút sự chú ý của toàn quốc vì họ tỏ ra hăng hái hành động, nhưng trong những tháng đầu họ chẳng mấy thành công.
    McGeorge Bundy thú nhận là "vào lúc này, chúng tôi giống như những lữ khách xứ Harlem, đi lên trước, vòng ra sau, sang hai bên rồi đi từ dưới lên. Nhưng chẳng có ai thu lượm được gì hết" (1). Kennedy thông báo cho nhà báo Arthur Krock người làm việc cho tờ Thời báo New York rằng, ông ta phải bảo đảm "Khruschev không được hiểu lầm sự việc ở Cuba, Lào... để nói lên rằng Mỹ có thể nhân nhượng trong các vấn đề như Berlin" (2). Hơn nữa, do chưa biết chắc về kết quả của các cuộc đàm phán ở Lào và dường như cấp thiết phải chuẩn bị cho một vị trí dự phòng ở Đông Nam Á, nên đa số các quan chức chính quyền Mỹ nhất trí rằng trái với Lào, Việt Nam sẽ là nơi thích hợp nhất để Mỹ đứng chân.
    ---------------------
    (1) Fairle, Lời hứa của Kellnedy, tr.180.
    (2) Hồi ký của Krock về cuộc đàm luận với Kennedy, ngày 5-5-1961, Văn kiện Arthur Krock, Thư viện nguyên cảo Seeley G. Mudd, Princelon, N.J., hộp 59.

    ----------------------
    Mùa xuân năm 1961, mặc dù ngày càng lo ngại về Việt Nam, nhưng chính quyền Mỹ đã không thực hiện những thay đổi lớn về chính sách hoặc mở rộng hẳn những cam kết của mình. Tổng thống Kennedy cho phép tăng thêm 100 cố vấn cho phái bộ MAAG và điều sang Việt Nam 400 tính thuộc lực lượng đặc biệt để huấn luyện chống nổi dậy. Từ các cuộc đàm phán ở Lào, Kennedy tin rằng phải đối xử với Diệm đặc biệt cẩn thận, do vậy ông ta đã triệu hồi đại sứ Durbrow- người đi đầu trong chủ trương thực
    hiện chiến thuật mặc cả cứng rắn và cử đích thân phó tổng thống Lyndon B. Johnson sang Sài Gòn nói rằng Mỹ sẽ ủng hộ chính quyền Diệm. Để hỗ trợ cho chính sách ngoại giao của mình mà không gây ra dư luận phản đối ở trong nước và quốc tế, chính quyền Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh bí mật ở Đông Dương. Mỹ đã cử các toán biệt kích lén lút vượt vĩ luyến 17 để đánh vào các đường tiếp tế, phá hoại các mục tiêu quân sự, dân sự và chống phá chế độ miền Bắc. Đồng thời, CIA cũng bắt đầu "cuộc chiến tranh bí mật" tại Lào, vũ trang cho khoảng 9.000 người Mèo hoạt động phá hoại đường mòn Hồ Chí Minh với một chiến dịch bán quân sự lớn nhất.
    Tuy nhiên sự đánh giá lại tình hình mùa xuân năm 1961 quan trọng ở các vấn đề nêu ra hơn là các giải pháp đề xuất. Theo lời cố vấn nhà Trắng Walt W. Rostow thì những quyết sách của chính quyền phản ánh một chính sách có tính toán "nhằm kéo dài thời gian bằng cách đưa thêm có mức độ các nguồn lực của Mỹ vào" (1). Nhưng nhiều quan chức sợ rằng làm như vậy chưa đủ và một tổ đặc nhiệm do Kennedy chỉ định nhằm xem xét lại những lựa chọn của Mỹ ở Việt Nam đã bắt đầu đưa ra những biện pháp mạnh mẽ hơn nếu các cuộc đàm phán ở Lào đổ vỡ hoặc nếu quân Cộng-sản tấn công lớn ở miền Nam Việt Nam. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1954, tổ đặc nhiệm này công khai nêu khả năng đưa lính chiến của Mỹ vào Việt Nam và bàn đến các hoạt động không quân và hải quân chống Bắc Việt Nam.
    ----------------------------
    (1). Rostow, Sự phổ quát quyền lực, tr.27
    ---------------------------------
  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Trong khi chính quyền Mỹ đang nghiên cứu nhiều sự lựa chọn khác nhau thì áp lực đòi Mỹ mở rộng sự dính líu vào Việt Nam đã tăng lên. Sau một chuyến thăm Viễn Đông chớp nhoáng với một chặng dừng chân quan trọng ở Sài Gòn, phó tổng thống Mỹ Johnson báo cáo là quyết định thương lượng ở Lào đã làm cho Diệm suy giảm lòng tin vào Mỹ, do đó nếu muốn ngăn chặn sự sa sút về tinh thần của Diệm thì đối với Mỹ, "lời nói phải đi đôi với việc làm" (1). Sau chuyến đi của Johnson, Diệm đã yêu cầu tăng cường viện trợ. Ông ta tỏ ra không quan tâm đến việc đưa quân Mỹ vào Việt Nam khi phó tổng thống Johnson tế nhị nhắc tới vấn đề này. Vốn có tính độc lập mạnh mẽ và hiểu rõ tình trạng chống đối đang gia tăng đối với chế độ của mình, Diệm sợ rằng nếu đưa một số lượng lớn quân Mỹ vào Việt Nam thì điều đó chẳng những tạo cho ********* cơ hội tốt để kêu gọi tập hợp lực lượng mà còn làm cho phe đối lập phi Cộng-sản có được lợi thế đáng kể. Tuy vậy, ngay sau khi Johnson rời Sài Gòn, Diệm đã báo nguy cho Kennedy rằng, tình hình Việt Nam đã trở nên "nghiêm trọng hơn nhiều" và đề nghị Mỹ tăng cường viện trợ cũng như đưa thêm cố vấn vào đủ để tăng quy mô của quân đội Nam Việt Nam khoảng 100.000 người (2).
    ----------------------------
    (1) Johnson gửi Kennedy, ngày 23-5-1961, Văn kiện Kennedy, hồ sơ công tác, hộp 30.
    (2) Quốc hội Mỹ, Thượng viện, tiểu ban công trình công cộng, Văn kiện Lầu Năm góc, (Bản gửi cho các Thượng nghị sĩ) (4 quyển): Boston, năm 1971, quyển II, năm 60. Sau đây được dẫn là Văn kiện Lầu Năm góc (Glavel).

  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Vào mùa hè năm 1961, cuộc chiến tranh lạnh đã đi vào chiều sâu, và một số cố vấn của Kennedy bắt đầu yêu cầu thực hiện một sự cố gắng toàn lực ở Việt Nam. Trong cuộc họp thượng đỉnh gay gắt ở Vienna vào tháng 6, Khruschev một lần nữa khẳng định cam kết của Liên Xô với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, điều này đã làm cho chính quyền Mỹ thêm lo ngại. Rostow vốn từ lâu đã chủ trương sử dụng "những phương tiện chống du kích" ở Việt Nam như máy bay trực thăng và lực lượng quân mũ nồi xanh mới thành lập. Ông ta khuyên Kennedy: "Dù sao thì cũng là sai lầm khi phát triển những khả năng này mà không dùng chúng vào một chiến trường quan trọng. Theo phương ngôn từ thời Knute Rockne thì chúng ta không để dành cho chúng cuộc đi vũ hội". Nhà kinh tế học và cựu giáo sư học viện MIT này đã so sánh mùa hè năm 1961 với năm 1942 khi quân Đồng minh bị thất bại khắp nơi trên thế giới, và ông ta cảnh báo Kennedy rằng, "để xoay ngược tình thế", Mỹ phải "thắng" ở Việt Nam. Ông ta cho rằng, nếu giữ được Việt Nam, thì có thể cứu được Thái Lan, Lào, Campuchia và khẳng định "chúng ta có thể đối phó với chiến thuật chiến tranh du kích của Cộng-sản" (1).
    ----------------------
    (1) Rostow gửi Kennedy, ngày 29-3-1961, Văn kiện Kennedy, hồ sơ An ninh quốc gia, hộp 192, và ngày 17-6-1961, Văn kiện Kennedy, hồ sơ công tác, hộp 65.
    --------------------
    Quá bận tâm với các vấn đề cấp bách như Berlin, Kennedy đã né tránh những cố vấn có thái độ hiếu chiến và chỉ cho phép tăng cường những khoản viện trợ khiêm tốn. Chỉ khi tình hình xấu hẳn đi vào mùa thu năm 1961, ông ta mới buộc phải hành động. Số quân thâm nhập vào Nam Việt Nam đã tăng gấp đôi lên tới con số 4.000 người.
    ********* đẩy mạnh hoạt động vào tháng 9 và chỉ trong một thời gian ngắn đã chiếm được một tỉnh lỵ chỉ cách Sài Gòn khoảng 90 km. Các chuyên gia phân tích tình báo cho biết số quân chính quy ********* đã tăng lên rất nhiều.
    Nhà báo Theodore H.White lưu ý về "một sự suy sụp chính trị ở mức độ đáng kể" tại Nam Việt Nam (1). Và vào tháng 9, Diệm khẩn thiết đề nghị tăng cường viện trợ kinh tế.
    [​IMG]
    (Dinh tổng thống Diệm 1961)
    Đến đầu tháng 10, cả hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và hội đồng An ninh quốc gia đều xem xét lại việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào Nam Việt Nam trên quy mô lớn.
    Kennedy lúc này vẫn thận trọng. Ông ta bộc lộ với Krock về tâm trạng không muốn đưa quân Mỹ vào lục địa Châu Á. Kennedy không tin là Mỹ cần can thiệp vào "những rối loạn nội bộ do du kích gây ra" và còn nói thêm rằng "khó chứng minh tình hình Việt Nam phổ biến là như vậy" (2). Lo ngại trước tình hình quân sự và chính trị ngày càng xấu đi ở Nam Việt Nam, và lo ngại trước việc phải mở rộng cam kết của Mỹ, Kennedy phái Rostow và cố vấn quân sự riêng của mình là tướng Maxwell D.Taylor sang Việt Nam để đánh giá tình hình tại chỗ và cân nhắc xem có cần đưa quân Mỹ vào cuộc hay không.
    ------------------------------
    (1) Trích trong Văn kiện Lầu Năm góc (Gravel), II, 70.
    (2) Hồi ký của Krock về cuộc đàm luận với Kennedy, ngày 11-10-1961, Văn kiện Krock, hộp 20.

    -----------------------
    ===============
    Đỏ: không rõ là tỉnh lỵ nào, bác nào biết?
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 10:45 ngày 31/12/2008
  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Taylor và Rostow công nhận tính xác thực của những bản báo cáo bi quan từ Sài Gòn gửi về vào tháng trước. Quân đội Việt Nam Cộng hoà đang chịu nhiều thất bại do cái mà như Taylor gọi là "quan điểm phòng ngự". Chính quyền Diệm thì rệu rã, bất lực và ngày càng mất lòng dân.
    Xuất phát từ những sự kiện xảy ra ở Lào, sự đẩy mạnh hoạt động của ********* cùng với nạn lụt đang tàn phá đồng bằng sông Cửu Long, hai người này nhận xét, vấn đề cơ bản hiện nay chính là "cuộc khủng hoảng lòng tin sâu sắc và sự suy sụp nghiêm trọng về tinh thần lan tràn trên khắp Nam Việt Nam". Sau này Taylor hồi tưởng: "Không ai cảm thấy tình hình là vô vọng, nhưng mọi người đều cho rằng tình hình thật nghiêm trọng và yêu cầu có những biện pháp khẩn cấp" (1).
    Taylor và Rostow khuyến nghị tăng mạnh viện trợ của Mỹ nhằm chặn đứng tình hình đang xấu đi ở Nam Việt Nam. Họ nhấn mạnh: Người Việt phải tự giành chiến thắng; Mỹ không thể làm hộ họ điều đó. Nhưng họ cũng kết luận rằng, nếu Mỹ cung cấp trang bị và các cố vấn lành nghề để cộng tác chặt chẽ với các cấp chính quyền Diệm thì có thể làm cho "bộ máy dân sự và quân sự Việt Nam Cộng hoà hoạt động tốt hơn, tích cực hơn và tự tin hơn nhiềư" (2). các Cố vấn được huấn luyện tốt, bố trí ở các vị trí chiến lược trong toàn bộ máy của chính quyền Nam Việt Nam có thể giúp phát hiện và khắc phục những vấn đề lớn về chính trị, kinh tế và quân sự. Huấn luyện tốt hơn cho lực lượng phòng vệ dân sự và các đoàn tự vệ thôn xã sẽ tạo cho quân chính quy rảnh tay đối phó với các cuộc tấn công, và các trang bị như trực thăng sẽ tạo cho quân đội Việt Nam Cộng hoà sức cơ động cần thiết để tác chiến hiệu quả.
    ------------------------------
    (1) Maxwell D. Taylor, Thanh gươm và lưỡi cày, New York, năm 1972, tr. 241.
    (2) Rostow, Sự phổ quát của quyền lực, tr.275.

    -----------------------
    Điều gây tranh cãi nhiều nhất trong đề nghị của Taylor và Rostow là điều động "lực lượng đặc nhiệm hậu cần" 8.000 quân, trong đó có công binh, quân y và cả bộ binh để hỗ trợ. Mục tiêu bề ngoài của lực lượng này là giúp khắc phục thiệt hại do lụt lớn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng thật ra Taylor còn có những động cơ khác quan trọng hơn. Trong khi Diệm tiếp tục phản đối việc việc đưa quân Mỹ vào thì nhiều quan chức chính quyền và nhiều người Mỹ ở Sài Gòn cho rằng rất cần có quân đội Mỹ. Chính Taylor cũng cảm thấy "vô cùng cần thiết phải làm gì đó để lấy lại tinh thần cho Nam Việt Nam và củng cố lòng tin ở Mỹ". Taylor khuyên Kennedy rằng, lực lượng đặc nhiệm sẽ có tác dụng như một "biểu tượng hiển nhiên chứng tỏ Mỹ có ý định nghiêm túc và sẽ là một lực lượng quân sự dự bị vô giá nếu tình hình Nam Việt Nam đột nhiên xấu đi" (1). Theo Taylor và Rostow thì mục đích nhân đạo là lý do thuận lợi để đưa lực lượng này vào Việt Nam và khi công việc hoàn thành Mỹ có thể rút về một cách dễ dàng; đồng thời họ còn nhấn mạnh rằng, đề nghị của họ chỉ là những biện pháp tối thiểu và nếu chúng chưa đủ để cứu Nam Việt Nam thì Mỹ có thể phải thực hiện những bước đi mạnh mẽ hơn như đưa quân vào hoặc phát động các đợt hành quân tấn công chống lại Bắc Việt Nam.
    -----------------------------
    (1) Taylor, Thanh gươm và Lưỡi cày, tr.239.
    ------------------------
    [​IMG]
    M. Taylor gặp Ngô Đình Diệm 1961 (Life chú thích nhầm thành phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ)
  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Trong lúc báo cáo của Taylor và Rostow lưu hành tại washington thì thứ trưởng ngoại giao Mỹ Chester Bowles và nhà ngoại giao kỳ cựu W. Averell Harriman, trưởng đoàn đàm phán của Mỹ về vấn đề Lào, lại đưa ra một đường hướng rất khác.
    [​IMG]
    Harriman tỏ ra rất nghi ngờ khả năng tồn tại của "chế độ đàn áp, độc tài và mất lòng dân" của Diệm trong bất kỳ tình hình nào, và khuyến cáo Mỹ không nên "liều lĩnh đặt cược uy tín của mình ở Việt Nam". Bowles nghiêm khắc phê phán rằng, Mỹ được "dẫn dắt quá nhanh vào một ngõ cụt". Hai nhân vật này đề nghị Kennedy hoãn thực hiện cam kết lớn với Diệm, và đề xuất: Nếu các cuộc thương lượng ở Lào tiến triển tốt đẹp thì lúc đó Mỹ có thể mở rộng nội dung hội nghị để đưa vấn đề Việt Nam vào và tìm một giải pháp chung trên cơ sở hiệp định Geneva 1954 (1). Báo cáo của Taylor, đề nghị của Bowles và Harriman lần đầu tiên đặt ra sự lựa chọn dứt khoát ở Việt Nam.
    ---------------------------
    (1) Harriman gửi Kennedy, ngày 11-11-1961, Văn kiện Kennedy, Hồ sơ An ninh Quốc gia, Hộp 195; Chester Bowles, Những hứa hẹn sẽ giữ (New York, 1971), tr.409; Pelz, "Quyết định của Kennedy", tr.378.
    ----------------------
    Kennedy thẳng thừng bác bỏ một giải pháp qua thương lượng. Chính quyền Mỹ đã hứa đẩy mạnh chiến tranh lạnh, nhưng trong những tháng đầu tiên, họ đã phải chịu nhiều thất bại rõ rệt ở Cuba, Lào và vào tháng 8, Liên Xô đã xây dựng một bức tường bê tông cốt thép ngăn Đông và Tây Berlin mà không hề báo trước. Trong suốt năm đó, phái Cộng hoà và các đảng viên Đảng Dân chủ cánh hữu đã buộc tội chính quyền Kennedy là yếu kém, và Kennedy hình như sợ một quyết định thương lượng ở Việt Nam sẽ làm bùng lên những trận đả kích chính trị nội bộ nhắm vào ông ta giống như những trận đả kích đầy hiềm thù và tác hại đã xảy ra sau khi Trung Hoa Dân quốc sụp đổ năm 1949.
    Tuy vậy, tổng thống Kennedy cũng quan tâm đến ảnh hưởng của vấn đề này trên trường quốc tế. Các chiến lược gia của chính quyền Mỹ thấy, trong một thế giới đối đầu đầy nguy hiểm này rất cần xây dựng lòng tin vào những cam kết của Mỹ. Nếu nước Mỹ tỏ ra yếu kém thì đồng minh sẽ mất lòng tin và kẻ thù của Mỹ sẽ được khích lệ để đẩy mạnh tấn công và nếu như quá trình đó không bị chặn lại thì đến lúc nào đó có thể đặt Mỹ vào một sự lựa chọn nguy hiểm: hoặc để hoàn toàn mất chỗ đứng trên trường quốc tế, hoặc thực hiện chiến tranh hạt nhân. Vào cuối năm 1961, Kennedy và nhiều cố vấn của ông ta tin rằng họ phải chứng minh cho Khruschev thấy sự kiên quyết của họ. Trong cuộc "khủng hoảng Berlin", tổng thống Kennedy đã phải thốt lên: "Thằng cha chết tiệt ấy không thèm để ý đến nhưng gì hắn nói. Phải cho hắn thấy các ngài hành động ra sao" (1).
    -----------------------
    (1) Trích trong Paterson, "Nảy sinh gánh nặng", tr.206.
    ----------------------------------------

Chia sẻ trang này