1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950 - 1975

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi tuaasn, 21/10/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    đường thuỷ quan trọng trong khu vực Nam Á. Một số quan chức Mỹ nhận thấy cách mạng Việt Nam đã phát triển và lo ngại rằng những nỗ lực của Pháp nhằm giành lại sự kiểm soát thuộc địa này có thể làm nổ ra một cuộc chiến tranh lâu dài và đẫm máu, dẫn tới sự bất ổn định ở một khu vực có tầm quan trọng cả về kinh tế và chiến lược này.
    Thậm chí ngay cả khi Pháp thành công, nước này cũng sẽ tiếp tục duy trì sự kiểm soát độc quyền khiến Mỹ không thể với tới các nguồn nguyên liệu thô và cơ sở hải quân trong khu vực. Tổng thống Franklin D. Roosevelt lúc đó dường như đã nhận ra rằng, chủ nghĩa thực dân đã tới ngày tận số và Mỹ phải liên kết với các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc tại châu Á. Hơn thế, Roosevelt hết sức không ưa Pháp cùng nhà lãnh đạo của nước này, Charles dễ Gaulle, và coi Pháp là "kẻ thực dân kém cỏi" đã "quản lý quá tồi" Đông Dương và bóc lột nhân dân ở đó (1). Roosevelt vì thế chủ trương đặt Đông Dương dưới quyền uỷ trị của quốc tế như một bước chuẩn bị tiến tới trao trả độc lập cho khu vực này.
    Tuy nhiên đến năm 1945, Roosevelt đã quay ngoắt lập trường kiên quyết trước đó trong việc ủng hộ trao trả nền
    ---------------------------
    (1) Edward R. Stettinius, Nhật ký ngày 17-3-1944. Edward R. Stettinius, Văn kiện thư viện đại học Virginia, Charlottesville, Va. Chi tiết về Roosevelt và Đông Dương, xem Walter LaFeber. "Roosevelt, Churchill và Đông Dương". 1942-1945. Tạp chí Lịch sử nước Mỹ, số 80, tháng 12-1975, tr.1277-l295: Gary R. Hess, "Franklin D. Roosevelt và Đông Dương", Tạp chí Lịch sử nước Mỹ, XLV, tháng 12- 1972, tr.353-368; và Christopher Thorne, "Đông Dương và quan hệ Anh-Mỹ, 1942-/945". Tạp chí Lịch sử Thái Bình Dương, số XLV, tháng 2-1976, tr.73-96.
  2. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    độc lập cho Đông Dương. Lo ngại cho chính những thuộc địa của mình. nước Anh ra sức phản đối kế hoạch uỷ trị của Mỹ và rất nhiều cố vấn hàng đầu của Roosevelt đã đề nghị ông ta không nên thúc giục thi hành kế hoạch này nhằm tránh gây thù địch với một nước đồng minh quan trọng. Tại Hội nghị Yalta tháng 2-1945, tổng thống Roosevelt đã hạ giọng hơn trong chính sách của mình bằng cách tán thành một đề xuất theo đó các thuộc địa có thể được đặt dưới sự uỷ trị chỉ khi có sự chấp thuận của mẫu quốc". Mà Pháp lại luôn bộc lộ ra ý đồ quay trở lại thuộc địa cũ, nên kế hoạch này đã hoàn toàn loại trừ một sự uỷ trị cho Đông Dương.
    Sau khi Roosevelt qua đời vào tháng 4-1945, Mỹ đã theo đuổi một chính sách còn tạo thuận lợi hơn cho Pháp.
    [​IMG]
    (ảnh st)
    Harry S. Truman không cùng chung mối quan tâm với người tiền nhiệm của mình về vấn đề Đông Dương cũng như về chủ nghĩa thực dân. Suy nghĩ của người Mỹ về một thế giới hậu chiến cũng trải qua một sự tái định hướng ghê gớm trong mùa xuân năm 1945. Các nhà chiến lược quân sự và dân sự đã nhận thức rằng chiến tranh thế giới thứ 2 đã khiến cho Liên Xô trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất ở châu Âu và châu Á, đồng thời việc Liên Xô chinh phục Đông Âu đã dấy lên mối lo ngại ngày một lớn rằng Joseph Stalin còn nung nấu những kế hoạch to lớn hơn, có thể mang tầm cỡ toàn cầu. Do ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố các chính phủ ổn định và thân thiện tại Tây Âu nhằm tạo dựng một "con đê" chống lại sự bành trướng của Liên Xô, chính quyền Truman đã đi đến kết luận rằng, Mỹ "chẳng có lợi lộc gì" trong việc "đấu tranh cho việc thực hiện kế hoạch uỷ trị quốc tế'''', cái có thể làm suy yếu "các Nhà nước châu Âu, những chính thể giúp Mỹ tạo thế cân bằng sức mạnh với Liên Xô tại châu Âu và khiến họ xa lánh Mỹ (1). pháp giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong kế hoạch mới, nên Bộ Ngoại giao Mỹ nhất định muốn Mỹ phải hàn gắn những vết rạn nứt nảy sinh dưới thời Roosevrelt bằng cách hợp tác "toàn tâm" với Pháp nhằm làm giảm thiểu "sự lo sợ của Pháp rằng chúng ta đang muốn giành lãnh thổ này khỏi tay họ" (2). Chính quyền Truman nhanh chóng loại bỏ những gì còn lại trong kế hoạch uỷ trị của Roosevelt và đến mùa hè năm 1945 đã cam kết chắc chắn với Charles de Gaulle rằng Mỹ không cản trở Pháp khôi phục lại chủ quyền tại Đồng Dương.
    Mỹ quan sát sự bùng nổ của cuộc chiến tại Đông Dương với tâm trạng đầy lo ngại. Cùng với các cuộc cách mạng tại Mianma, Malaysia và Indonesia, những biến động ở Việt Nam cho thấy rõ sức mạnh và sự dễ bùng phát của chủ nghĩa dân tộc tại khu vực Đông Nam Á. Việc Pháp ngoan cố theo đuổi những mục tiêu thực dân lỗi thời dường như đã loại trừ mọi giải pháp, trừ giải pháp quân sự, nhưng Vụ Viễn Đông Bộ Ngoại giao Mỹ không tin Pháp có khả năng dập tắt phong trào cách mạng bằng vũ lực và lo ngại
    ----------------------
    (1) Văn phòng Vụ Chiến lược, Những vấn đề và mục tiêu của Chính sách Mỹ", ngày 2-4-1945, Văn kiện Harry S. Truman,Thư viện Harry S. Truman, Độc lập, Mo., hồ sơ Rose Conway, hộp 15.
    (2) Hồi ký của James Dunn, ngày 23-4-1945. 851G.00/4-2345, lưu trữ văn thư Bộ Ngoại giao Mỹ. Thư viện Quốc gia, Washington, D.C, Xem George C. Herring, "Chính quyền Truman và sự khôi phục lại chủ quyền của Pháp tại Đông Dương", Tạp chí Lịch sử Ngoại giao, I (mùa xuân 1977), tr.97-117.

    Được tuaasn sửa chữa / chuyển vào 10:19 ngày 22/10/2008
  3. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    rằng sự thất bại của người Pháp có thể làm mất đi ảnh hưởng của phương Tây ở khu vực có tầm quan trọng cả về kinh tế và chiến lược này. Các chuyên gia về châu Á thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đã khuyến cáo chính quyền Mỹ về những mối nguy hiểm của việc câu kết với chủ nghĩa thực dân Pháp và thúc ép Mỹ phải sử dụng ảnh hưởng của mình để buộc Pháp phải dàn xếp với Việt Nam.
    Tuy nhiên, những mối quan ngại của Mỹ tại châu Âu đã lấn át thái độ hoài nghi của nước này đối với chính sách của Pháp tại châu Á. Vào mùa xuân năm 1947, Mỹ đã chính thức cam kết tiến hành ngăn chặn sự "bành trướng" của Liên X0 tại Châu Âu. và trong suốt hai năm sau đó Mỹ đặc biệt chú ý tới nước Pháp, nơi mà tình trạng đình đốn về kinh tế và sự bất ổn định về chính trị đã làm nảy sinh những mối lo ngại nghiêm trọng về khả năng Cộng sản có thể chiếm quyền.
    Được cảnh báo bởi các chính trị gia ôn hoà của Pháp rằng sự can thiệp bên ngoài vào các vấn đề thuộc địa có thể làm lợi cho Đảng Cộng sản Pháp, Mỹ đã để mặc cho Pháp tự giải quyết vấn đề Đông Dương theo cách thức của nước này. Bộ Ngoại giao Mỹ đã kết luận: "Lợi ích sống còn và trực tiếp" trong việc duy trì "một chính phủ thân thiện để giúp thúc đẩy các mục đích của chúng ta tại châu Âu phải được "ưu tiên hơn so với các biện pháp tích cực tiến tới việc thực hiện những mục tiêu của chúng ta tại Đông Dương"(l).
    Hơn thế, đầu năm 1947 chính quyền Truman đã rút ra
    -----------------------
    (1) Bộ Ngoại giao, "Tuyên bố chính sách về Đông Dương", ngày 27-9- 1948, trích trong: Bộ Ngoại giao, Quan hệ ngoại giao của Mỹ, 1948 Washington D.C, 1974, VI. 48. Sau đây được dẫn như là FR với ngày và quyển nêu trên.
    ----------------------
  4. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    một số kết luận về phong trào cách mạng Việt Nam và điều đó sẽ có tác dụng quyết định tới chính sách của Mỹ tại Việt Nam trong vòng hai thập kỷ sau đó. Trong nhiều dịp, Hồ Chí Minh đã thể hiện thái độ thân thiện với Mỹ (1).
    Các nhà ngoại giao Mỹ tại Việt Nam khẳng định không tìm thấy một bằng chứng nào cho thấy Liên Xô trực tiếp quan hệ với *********, đồng thời nhấn mạnh rằng, về mặt ý thức hệ, Hồ Chí Minh đã xây dựng hình ảnh bản thân như một "biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc và của cuộc chiến đấu vì tự do trước đại đa số nhân dân"(2). Nhưng những lý lẽ trên không thuyết phục nổi một chính quyền đang ngày càng bị ám ảnh bởi mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản tại châu Âu. Các báo cáo tình báo nhấn mạnh rằng, trong suốt sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh luôn đặt lòng tin vào Mátxcơva và việc chưa có mối quan hệ mật thiết với Liên Xô đơn giản chỉ bởi vì Người được uỷ thác thực hiện kế hoạch của Stalin mà không bị giám sát.
    Do thiếu những bằng chứng cho điều ngược lại, nên Bộ Ngoại giao Mỹ đã cho rằng, Mỹ chỉ có thể "kết luận rằng Hồ Chí Minh chịu sự chỉ đạo của Mátcơva". Theo lời Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ George C. Marshall, do không muốn thấy "các đế chế và chính quyền thực dân được thay thế bằng các tư tưởng và các thiết chế chính trị bắt nguồn từ điện Kremlin", nên chính quyền Mỹ đã từ chối tiến
    ---------------------
    (1) Robert Blum, "Hồ Chí Minh và Mỹ, 1944-1946" trích trong: Quốc hội Mỹ, ủy ban Quan hệ đối ngoại, Mỹ và Việt Nam: 1944-/947, Washington, 1972, tr.13.
    (2) "Chính sách và Thông cáo về Đông Dương", tháng 7-1947, Hồ sơ Philippine và Đông Nam Á, Phòng lưu trữ quốc gia, hộp 10.

  5. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    hành bất kỳ một biện pháp nào có thể tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa cộng sản" giành thắng lợi tại Đông Dương (1).
    Kết quả là trong 3 năm đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương, Mỹ đã giữ một thái độ "trung lập" nhưng ủng hộ Pháp rất rõ ràng. Chẳng muốn tự đặt bản thân vào một vị thế khó xử là công khai ủng hộ chủ nghĩa thực dân, chính quyền Truman đã bí mật trao cho Pháp nhiều khoản viện trợ về tài chính và quân sự (2). Hơn thế, các nguồn tài trợ thực tế khổng lồ của Mỹ đưa ra trong Kế hoạch Marshall đã cho phép Pháp sử dụng các nguồn lực của chính nước này để tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tại Đông Dương. Lo ngại trước làn sóng phản đối của đồng minh châu Âu và sợ mang tiếng là giúp đỡ cho ********* dù là gián tiếp, Washington không chịu thừa nhận đã nhận được lời kêu gọi Mỹ ủng hộ của ***** và còn từ chối dùng ảnh hưởng của mình để chấm dứt cuộc chiến hoặc đi đến một giải pháp qua thương lượng.
    Trước khả năng Pháp thất bại, cùng lúc phe cộng sản giành thắng lợi tại Trung Quốc, nên đầu năm 1950 Mỹ quyết định hỗ trợ Pháp tại Đông Dương. Quyết định này đã đánh dấu bước đầu tiên Mỹ dính líu trực tiếp vào cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Pháp phát động cuộc chiến năm 1946 với niềm tin chắc chắn vào chiến thắng, nhưng ***** đã dự đoán một cách chính xác về bản chất và kết quả cuối
    ----------------------
    (1) George C. Marshall gửi Đại sứ quán Mỹ tại Paris, ngày 3-2-1947, FR, năm 1947, VI, tr.67-68.
    (2) George McT. Kahin, Quyền lực và Sự thực: Sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. New York, năm 1986, Chương I.

  6. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Vì cái máy ttvnol không chấp nhận từ "c ộ n g S ả n" nên tớ tạm thời thay nó bằng "Cao Su" để khỏi chờ kiểm duyệt.
    Thay bằng "Sản cộng" thì nghe hơi khác thường! Tuy rằng nghĩa là tương đương.
    Tính thay bằng "Cá Sấu" thì đã có người dùng rồi và có vẻ như "với dụng ý xấu".
    Nếu viết tắt "CS" thì làm tớ nhớ đến mấy quả lựu đạn khói độc của Mẽo ngày xưa khi đánh nhau vói Quân Giải phóng.
    Bạn nào, mod nào nghĩ ra cái từ gì hay ho hơn mà vẫn "giữ gìn được bản sắc" quốc tế của 2 chũ đó thì cho ý khiến nhá!
  7. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    cùng của cuộc xung đột. Người nói: "Nếu mỗi khi con hổ (tức *********) dừng bước thì con voi (tức Pháp) sẽ dùng đôi ngà dũng mãnh của mình để đánh gục hổ. Nhưng con hổ sẽ không dừng bước và con voi sẽ chết vì kiệt sức và mất máu" (1). ********* rút về vùng nông thôn tránh những cuộc giao tranh lớn, huy động sự ủng hộ của quần chúng và tập kích các tiền đồn của Pháp. Quân Pháp giữ các thành phố và thị xã lớn, nhưng hàng loạt các cuộc tấn công của Pháp vấp phải thất bại và phải trả giá đắt, cùng nhiều vụ tấn công chớp nhoáng do du kích ********* tiến hành đã khiến Pháp ngày một hao kiệt các nguồn nhân lực và vật lực đồng thời ngày một tạo ra tâm trạng mệt mỏi vì chiến tranh ngay tại chính nước Pháp. Sự sụp đổ của chính quyền Tưởng Giới Thạch tại Trung Quốc năm 1949 và ưu tiên hướng nam của quân đội Mao Trạch Đông đã báo hiệu khả năng cộng tác giữa chính quyền Cao su Trung Quốc với *********. Từ cuối năm 1949, các quan chức Pháp đã đưa ra nhiều nhãn gửi ngày một khẩn thiết rằng, nếu không có sự giúp đỡ quân sự trực tiếp của Mỹ, họ sẽ có thể bị buộc phải rút khỏi Đông Dương.
    Những khẩn cầu của Pháp được đưa ra vào một thời điểm khi mà Washington, thực sự rơi vào tình trạng thất đảm đang điên cuồng đánh giá lại chiến lược chiến tranh lạnh toàn cầu của mình. Sự sụp đổ của Quốc dân Đảng ở Trung Quốc và việc Liên Xô thử thành công vũ khí hạt nhân đã khiến nhiều quan chức Mỹ tin rằng mối đe dọa
    ---------------------
    (1) Trích trong Jean Lacouture, Hồ Chí Minh: Một tiểu sự chính trị, New York, năm 1968, tr.171.
    [​IMG]
    -----------------
    Được tuaasn sửa chữa / chuyển vào 12:51 ngày 30/10/2008
  8. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    của chủ nghĩa Cao su đối với Mỹ còn lớn hơn nhiều so với mối đe dọa của khối Trục trước đó một thập kỷ từng gây ra. Đối với Mỹ, mọi nghi ngờ về sự điều chỉnh chính sách ngoại giao của Stalin đã được giải toả: Liên Xô, "được cổ vũ bởi niềm tin cuồng tín", đã quyết định áp đặt sự thống trị hoàn toàn lên phần còn lại của thế giới"; những thành công gần đây dường như đã đẩy các nhà lãnh đạo Liên Xô tới chỗ tự tin và quyết tâm hơn, và trong con mắt của các nhà hoạch định chính sách Mỹ, sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Cao su đã thực sự đạt tới mức độ không được phép vượt quá. Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ báo động: Bất kỳ một sự "mở rộng thêm lãnh thổ của điện Kremli sẽ dẫn đến khả năng không tập hợp nổi một liên minh nào đủ mạnh để đối đầu với Kremli" (1). Trong một thế giới được chia thành hai khối thù địch với sự cân bằng quyền lực mong manh cùng khả năng nổ ra chiến tranh thế giới tiếp theo, chính quyền Truman đã bắt đầu triển khai các kế hoạch tăng cường khả năng quân sự của Mỹ, nâng cao năng lực quốc phòng của Tây Âu và mở rộng chính sách kiềm chế tới tận vùng Viễn Đông.
    [​IMG]
    (ảnh st. - Truman 1948)
    Trong khuôn khổ những biến chuyển chiến lược to lớn của năm 1950, việc Mỹ ủng hộ Pháp tại Đông Dương được cho là cần thiết đối với an ninh của Tây Âu. Những phí tổn khổng lồ cho cuộc chiến chống ********* đã làm chậm lại quá trình hồi phục kinh tế của Pháp cũng như quá trình đạt được mức độ ổn định chính trị cần thiết để chống đỡ trước
    ---------------------
    (1) NSC 68, ngày 4-4-1950, in trong Tạp chí Naval War College, tháng 5 và 6-1975, tr.51-l08.
    --------------------
    Được tuaasn sửa chữa / chuyển vào 12:52 ngày 30/10/2008
  9. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    mối đe dọa từ chủ nghĩa Cao su. Biết chắc rằng châu Âu lúc này trở nên dễ bị tổn thất hơn bao giờ hết trước mối đe dọa từ Liên Xô, các nhà hoạch định chính sách Mỹ trong đầu năm 1950 đã bắt đầu đề ra các kế hoạch xây dựng lực lượng quân sự cần thiết để chống Liên Xô. Những đề xuất sơ bộ ban đầu của họ là yêu cầu Pháp đóng góp một số lượng quân khá lớn và bảo đảm tái vũ trang Tây Đức, những biện pháp mà người Pháp rất có thể phản đối. Chính quyền Truman do vậy lo sợ rằng nếu như Mỹ không đáp ứng tích cực yêu cầu của đồng minh xin trợ giúp tại Đông Dương, Pháp có thể không chịu hợp tác với Mỹ thực hiện kế hoạch chiến lược bảo vệ Tây Âu này.
    Việc Mỹ sốt sắng ủng hộ Pháp tại Đông Dương cũng phản ánh mối quan ngại đang tăng dần của nước này về tương lai Đông Nam Á.Những xung đột ác liệt tại Đông Dương và các cuộc nổi dậy ở Miến Điện, Malaysia và Indonesia, tất cả đều xuất phát từ căn nguyên bản xứ, nhưng trong một thế giới dường như đã bị phân cực, sự tồn tại của những cuộc cách mạng này và xu hướng tả khuynh của chúng đã làm cho Mỹ tin rằng Đông Nam Á là "mục tiêu của một cuộc tác chiến hiệp đồng do Kremlin chỉ đạo,, Các nước thực dân châu Âu và những chính phủ mới độc lập còn non trẻ và rất yếu ớt trong khu vực dường như không đủ khả năng để chế ngự các cuộc cách mạng, đồng thời sự hiện diện của một Trung Quốc thù dịch ở phương Bắc càng làm mối đe dọa này trở nên nguy hiểm gấp bội.
    Sau khi Trung Hoa Dân quốc sụp đổ, các nhà chiến lược Mỹ kết luận Đông Nam Á có tầm quan trọng sống còn đối với an ninh của Mỹ. Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ khuyến cáo: Nếu khu vực này bị chủ nghĩa Cao su kiểm soát, "chúng ta sẽ phải gánh chịu một thất bại thảm hại về mặt chính trị mà ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn trên toàn thế giới". Việc mất đi khu vực rộng lớn và đông dân này có thể làm lệch cán cân lực lượng, đẩy Mỹ vào thế hạ phong. Những thắng lợi của chủ nghĩa Cao su gần đây đã thực sự dấy lên bầu không khí hoảng loạn tại châu Âu, và do vậy một chiến thắng quan trọng tiếp theo nữa có thể đẩy châu Âu ngả về phía Liên Xô. Hậu quả kinh tế cũng không kém phần nghiêm trọng. Mỹ và các đồng minh châu Âu có thể không thâm nhập được vào những thị trường quan trọng này và châu Âu sẽ mất đi phần lớn nguồn tài chính cần thiết nhằm khôi phục lại nền kinh tế kiệt quệ của họ. Đông Nam Á là nơi sản xuất cao su tự nhiên lớn nhất thế giới và cũng có các nguồn tài nguyên quan trọng như dầu, thiếc, vonfam, cùng rất nhiều hàng hoá chiến lược khác. Nếu quyền kiểm soát những nguồn nguyên liệu thô cực kỳ quan trọng đó bị đổi chủ, thì khối Xô-viết sẽ được tăng cường sức mạnh lên rất nhiều, trong khi phương Tây sẽ phải gánh chịu tổn thất to lớn.
    Các nhà hoạch định chính sách Mỹ cũng lo sợ rằng việc mất đi vùng Đông Nam Á sẽ gây tổn thất không thể bù đắp nổi đối với vị trí chiến lược của nước này tại vùng Viễn Đông. Việc kiểm soát một loạt đảo ngoài khơi trải dài từ Nhật Bản tới Philippines, tuyến phòng thủ đầu tiên của Mỹ ở Thái Bình Dương, sẽ gặp nguy hiểm. Đường hàng không và đường biển giữa Australia và Trung Đông, Mỹ và ấn Độ có thể bị cắt đứt, gây trở ngại nghiêm trọng cho các hoạt động quân sự khi xảy ra chiến tranh. Nhật Bản, ấn Độ và Australia, những quốc gia mà phương Tây văn duy trì được ảnh hưởng vượt trội, sẽ bị tách khỏi nhau và lâm vào tình trạng nguy hiểm.
    Sự tác động tới Nhật Bản, đồng minh Viễn Đông chủ yếu của Mỹ và cũng là nền kinh tế thịnh vượng nhất tại khu vực này, sẽ đặc biệt tai hại. Thậm chí trước khi Trung Hoa Dân Quốc sụp đổ, Mỹ đã tích cực hoạt động để hoà nhập Nhật Bản với Đông Nam Á, một vựa lúa và nguồn cung nguyên liệu thô thiết yếu đồng thời cũng là thị trường của Nhật. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc hoàn toàn rơi vào tay chủ nghĩa Cao su, việc mất đi khu vực Đông Nam Á sẽ khiến cho Nhật không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải dung hoà với chủ nghĩa Cao su ở khu vực này. Mỹ do vậy đã nhanh chóng chuyển sang "bảo vệ" một khu vực được cho là một "bộ phận có tầm quan trọng sống còn" trong "đại vòng cung" kiềm chế trải dài từ Nhật đến ấn Độ (1).
    Các quan chức Mỹ đã nhất trí rằng Đông Dương, và đặc biệt là Việt Nam, là then chốt trong việc phòng thủ ở Đông Nam Á.Việc Liên Xô công nhận ********* ngày 30-1-1950 đã xác nhận niềm tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Liên Xô và chủ nghĩa Cao su. Đối với Mỹ, đây là
    -----------------------
    (1) Hội đồng An ninh Quốc gia 48/1, "Lập trường của Mỹ với việc bảo vệ Châu Á", ngày 23-12-1949. Quốc hội Mỹ, Hội đồng nghĩa vụ quân sự, Quan hệ Mỹ-Việt Nam (1949-1967): Nghiên cứu được chuẩn bị bởi Bộ Quốc phòng, Washington, năm 1971. Cuốn 8, tr.226-272. Sau đây được trích là USVN. Michael Schaller "Bảo vệ Đại vầng trăng lưỡi liềm: Nhật Bản và nguồn gốc của con đê tại Đông Nam Á", Tạp chí Lịch sử nước Mỹ, số 69, tháng 12-1982, tr.392-413.
    -----------------------------
  10. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    một điềm xấu "nghiêm trọng và đáng ngại" khi Stalin có ý định "thúc đẩy tiến trình cách mạng" tại Đông Nam Á (1).
    Quân du kích được tổ chức tốt của Hồ Chủ tịch đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng trước quân đội Pháp và với sự ủng hộ gia tăng mạnh mẽ từ Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam có thể buộc Pháp phải rút quân. Nếu vậy bức tường ngăn chặn quân sự cuối cùng giữa Trung Quốc và phần còn lại của Đông Nam Á sẽ bị dỡ bỏ. Bộ Ngoại giao Mỹ kết luận: Đông Dương đang nằm trong "mối nguy hiểm sát sườn nhất", do đó "đây là một khu vực có tầm quan trọng chiến lược nhất của Đông Nam Á" (2).
    Thực ra, Đông Dương được xem là có tầm quan trọng vì có nguồn cung dồi dào nguyên liệu thô, gạo, căn cứ hải quân, nhưng người ta còn cho rằng khu vực này có tầm quan trọng lớn hơn nhiều nếu xét dưới khía cạnh tác động của việc Đông Dương thất thủ lên những khu vực khác.
    Đầu năm 1950, các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã đưa ra quan niệm mà sau này mang tên "thuyết Đôminô", tức là niềm tin rằng việc thất thủ của Đông Dương sẽ dẫn tới sự sụp đổ kế tiếp nhanh chóng của các quốc gia còn lại trong khu vực Đông Nam Á.
    [​IMG]
    (Ảnh st.)
    Việc chấp nhận khái niệm đó phản ánh số phận mong manh của khu vực Đông Nam Á vào năm 1950, với kinh nghiệm rút ra từ Chiến tranh thế
    -----------------------
    (1) Thông báo Bộ Ngoại giao ngày 13-2-1950, 244; bị vong lục Charles Yort ngày 31-1-1959, FR 1950, VI, 710-711.
    (2) Dean Rusk gửi James H. Burns ngày 7-3-1950, Quốc hội Mỹ, Thượng viện, Tiểu ban Công trình và Hạ tầng, Văn kiện Lầu năm góc (bản gửi tới các thượng nghị sĩ) (4 quyển; Boston, 1971), I, tr.363. Sau đây trích là Văn kiện Lầu Năm góc (Gravel).
    ----------------------
    Được tuaasn sửa chữa / chuyển vào 12:54 ngày 30/10/2008

Chia sẻ trang này