1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc sống thường nga??y cu??a các cụ ta xưa?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 17/05/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. noithatviet

    noithatviet Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2008
    Bài viết:
    19
    Đã được thích:
    0
    Gửi bác Codep mấy tấm ảnh em sưu tầm (nguồn nguyentl.free)
    Thiếu nữ răng đen.
    [​IMG]
    Tiểu thư thành phố em nghĩ thế
    [​IMG]
    tiểu thư nông thôn .
    [​IMG]
  2. vac_phao_ra_duong

    vac_phao_ra_duong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/02/2007
    Bài viết:
    147
    Đã được thích:
    0
    Ngày xưa tắm không có xà bông, giặt không có xà phòng, Mùa hè 38 độ thì nghu thế nào nhỉ
  3. V_Kid

    V_Kid Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/12/2006
    Bài viết:
    554
    Đã được thích:
    0
    ???
  4. iloc

    iloc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/11/2004
    Bài viết:
    104
    Đã được thích:
    0
    Hum nay lang thang vào Box LS VH, giới thiệu với các bác ở đây website http://vypshop.com của em, mong muốn đóng góp chút công sức bảo lưu văn hoá, lịch sử Việt nam trưòng tồn
    Cái tên site nghe hơi Tây, nhưng nó thể hiện sự tự tin của dân tộc, mang các sản vật dân tộc ra bên ngoài biên giới, đến nhiều vùng đất nhiều ngôn ngữ, nền văn hoá khác nhau
  5. hamalovely

    hamalovely Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/10/2002
    Bài viết:
    107
    Đã được thích:
    0
    Cuộc sống của người Việt cổ.
    Mặc dù là thế hệ 8x nhưng iem cũng có biết chút ít về cuộc sống nông thôn nên có thể sơ sơ phác thảo về cuộc sống của người Việt ta thời trước thế này, chẳng bít có đúng không nhưng iem nghĩ là cũng gần với thực tế.
    I. Nông thôn.
    Đa số người Việt mình sống ở nông thôn, tập trung thành các làng xã. Mỗi làng có một cái Đình là nơi tụ họp của các cụ và các chức sắc như lý trưởng, chánh tổng..
    1.Về trang phục
    Đàn ông mặc khăn xếp áo the, quần ống sớ ( quần trên dưới bằng nhau, có dải rút để thắt lại cho nó không bị tuột). Đàn bà thì mặc váy, áo trong là yếm và áo ngoài là áo tứ thân. Trời nóng đàn ông thì cởi trần, phụ nữ thì mặc mỗi yếm với váy thôi ( cái yếm như trong tranh Đông Hồ ấy). Trời rét thì mặc 3 lớp áo ( iem chả biết thời ấy có áo bông không), thầy giáo iem bảo lớp không khí giữa các lớp áo sẽ làm người rất ấm!!!
    Iem thấy bảo thời Hùng Vương nước mình chỉ ở trần đóng khố là vô lý, vì mùa đông ở bắc bộ có khi xuống đến vài độ thì cả nước ở trần chẳng chết rét hết à?
    Trẻ con thì ở truồng hoặc mặc quần áo, cắt đầu 3 chỏm hoặc cạo trọc cho mát
    Các cụ mình đa số đi chân đất nên ngón chân mới tõe ra, hai bàn chân giao vào nhau ( nên nước mình mới bị gọi là Giao Chỉ). Nhà giàu thì có guốc mộc, nhưng chỉ khi nào cần thì mới đi, không thì ... kẹp vào nách cho đỡ hỏng
    Người lớn để tóc dài, đàn ông vấn khăn xếp hoặc búi đằng sau, đàn bà thì quấn trong cái khăn quanh đầu ( các bà ở quê bây giờ vẫn vấn khăn như vậy ), các cô gái thì vấn khăn nhưng buông cái đuôi tóc để làm duyên (tóc em đuôi gà).
    2. Về nhà cửa.
    Mỗi nhà đều rất rộng, có sân có vườn, hàng rào giữa nhà nọ với nhà kia là cây dâm bụt, cây gai, cây mây hoặc cây ô rô ( em thấy các cụ gọi thế, cây này có nhựa rất dai trẻ con hay dùng để thổi bong bóng). Mốc gianh giới nhà được đánh dấu bằng các cây vông hay cây mít...
    Từ nhà nọ sang nhà kia thì phi qua hàng rào cho nhanh (ít khi đi cổng vì gần nhà xa ngõ mà), thỉnh thoảng các cụ đứng bên hàng rào náy nói chuyện qua hàng rào kia.
    Nhà giàu thì có nhà 3 gian, nhà 5 gian xây bằng gạch nung. Ngày xưa chưa có xi măng nên các cụ dùng vôi trộn với cát, thêm ít mật đường cho nó chắc ( thế mà bền phết, chứ mấy cái cầu mình mới xây đã nứt hết rồi!!!). Mái ngói là ngói bát âm ( hình vảy cá), các vì kèo làm bằng gỗ ( toàn mộng mà không đóng đinh), trên các cột còn treo hoành phi câu đối rất hoành tráng!.
    Nhà giàu trong nhà còn có tủ chè, sập gụ, tủ chùa ( bộ ba như kiểu ti vi, tủ lạnh, xe máy của mình bây giờ ấy). Mời khách uống trà thì ngồi ở trường kỷ ( bộ bàn ghế ngày xưa ), khi khách về thì có thể nằm ở trường kỷ mà đánh một giấc. Nằm ngủ thì chủ yếu nằm trên sập gụ chứ hình như là chưa có giường như bây giờ?
    Nhà nghèo thì nhà tranh vách đất, trong nhà có cái chõng tre để ngồi hay nằm ngủ.
    3. Về ăn uống.
    Mỗi nhà có một cái bếp riêng ở một góc, thường đặt cạnh nhà. Trong bếp có kiềng 3 chân để đun nấu. Các cụ đun bằng củi hoặc rơm rạ, lá tre...
    Nhà giàu có nồi đồng (tròn xoe), mâm đồng, nhà nghèo thì có nồi đất, mâm gỗ để ăn cơm. Còn bát đũa thì chắc cơ bản vẫn giống bây giờ :)
    Mỗi nhà có các cái chum để đựng ngô, đựng thóc. Trong bếp thường có cái chạn để bát đĩa và thức ăn. Ngày ấy nhà nào cũng có âu muối dưa cà...
    Thức ăn thì chủ yếu là cây nhà là vườn, tôm cua ốc cá, thỉnh thoảng mới có thịt gà thịt lợn.
    4. Về sinh hoạt.
    Nước ăn thì dùng nước mưa chứ chưa có nước máy như bây giờ. Nhà giàu thường xây bể lớn, nhà nghèo thì dùng vại để đựng nước mưa.
    Mỗi nhà còn đào một cái giếng để tắm giặt, giếng tròn khoanh bằng gạch nung hoặc đá ong. Cạnh giếng thì có nhà tắm (thường quây bằng liếp).
    Nhà nào có ao thì dùng cầu ao để tắm giặt và cả đi vệ sinh nữa Tuy nhiên chố tắm giạt với chỗ đi vệ sinh cũng được quây riêng ra cho nó ... khoa học Nói vậy thôi chứ ngày xưa ao sạch lắm chứ có bẩn như bây giờ đâu, vệ sinh xong cá dưới ao xơi hết rồi còn bẩn gì nữa :)
    Nhà không có ao thì quây nhà vệ sinh riêng. Sau khi đi vệ sinh các cụ dùng tro bếp rắc lên cho nó khô, sau dùng để bón ruộng ( nhất nước nhì phân mà, ngày xưa làm già có đạm Phú Mỹ, phân Urê như bây giờ). Đi tiểu thì bừa vào các gốc cây ( nhưng về tè vào cây nhà mình cho nó tốt chứ không chịu tè vào cây hàng xóm đâu nhá!). Nhưng không mấy người lãng phí như vậy, đa số đều có một cái vại để chứa nước tiểu của cả nhà, sau dùng để bón cây rất tốt.
    5. Về lao động, làm việc.
    Ngày xưa không có lịch Tây mà các cụ dùng âm lịch ( triều đình mỗi năm đều cho in lịch để nhân dân biết thời vụ mà gieo trồng). Các cụ cũng không nghỉ thứ bẩy, chủ nhật như bạn gì vừa hỏi, mà làm việc theo mùa vụ, mà chủ yếu là làm nông nghiệp. Con trâu là đầu cơ nhiệp, nhà nào cũng có một con để cày cấy ( ngày ấy, ba việc lớn của đời người là làm nhà, lấy vợ, tậu trâu mà).
    Hix, mỏi tay qua, hôm nào rảnh iem lại viết típ, bác nào có chuyện gì vui nhớ kể cho pà kon nghe nhá!
  6. hamalovely

    hamalovely Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/10/2002
    Bài viết:
    107
    Đã được thích:
    0
    VỀ SÚC VẬT THƯỜNG THẤY Ở NƯỚC ANNAM ( Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài) 
    Nước này có rất nhiều ngựa, đẹp, khoẻ, hiền lành dễ chăn nuôi và tính khá thuần dễ tập luyện đi đứng chạy nhảy theo như người ta muốn. Cũng có rất nhiều bò to lớn và vạm vỡ, thịt rất tốt và rất ngon. Lợn thì rất thường, lành và thịt ngon, không có dịp lễ nào mà không giết lợn đãi khách, ngay cả những người nghèo không có phương tiện lớn. Trâu thường thì rất cao lớn, vai dô lên, vạm vỡ và rất chăm làm. Chỉ một con cũng đủ để kéo cày, cho dầu cày cắm sâu trong đất, thịt không đến nỗi xoàng, nhưng thịt bò thì thông dụng hơn và ngon hơn.
    Về voi28 thì cả nước Annam có những con to lớn và khoẻ mạnh thường đưa từ nước Lào ở ngay kế cận. Họ bán cho người ngoại quốc với giá rất đắt, mua được rồi còn phải nuôi, cũng rất tốn kém, vì một con voi phải đủ lương thực bằng nuôi mười người. Chúa Đàng Ngoài nuôi chừng ba trăm con, thỉnh thoảng mới dùng tới và một phần để thêm lộng lẫy khi chúa ngự ra khỏi kinh thành. Nhưng khi thao luyện một đạo bộ binh thì cho tất cả voi đi diễu. Vì thế rất tốn kém để bảo dưỡng quản tượng làm huấn luyện viên. Thật là lạ lùng khi thấy chúng rất ngoan và dễ dàng để tập nói chuyện với người, thường đi rảo khắp kinh thành mà không làm hại ai hay phá phách gì. Chúng còn giúp rất nhiều cho dân trong thành khi có hỏa tai, thường hay xảy ra, bởi vì nhà làm bằng gỗ. Thế là người ta dẫn mấy con tới để dỡ những nhà ở cạnh ngôi nhà đang cháy không cho lửa bén sang có thể làm thiêu rụi cả thành phố, nếu không dùng cách này để dập tắt. Chúng thi hành rất chính xác, rất khéo léo.Chúng vâng theo hiệu lệnh của quản tượng, lấy vòi dỡ nóc nhà, rồi lấy chân lật đổ tường mà không làm quá lệnh người ta ra cho chúng. Có một vài lần tôi thấy chúng phải qua một nhịp cầu bằng gỗ, chúng lấy vòi lay thử xem ván có vững không, có thể chịu được sức nặng của chúng, và khi thấy không đủ vững thì nó đi tìm con đường khác, chứ không chịu đi qua cầu đó. Có một con bị cột ở một nơi trong thành, trẻ con đến nghịch chơi lấy đá ném rồi lẩn trốn. Voi tức giận liền dùng vòi thay tay cầm đá và khi thấy lũ trẻ thò đầu ra thì ném theo rất khéo và mạnh đến nỗi nếu trẻ không nhanh lẩn trốn sau bức tường thì đã bị thương nặng. Người ta kể về những con voi đó, về tính dễ bảo và nhiều sự rất lạ lùng mà tôi chưa thấy, nên tôi không nói thêm gì ở đây, tôi chỉ kể điều tôi chứng kiến mà thôi.
    Về tê giác29, người Bồ gọi là ?obada?, tôi chỉ thấy đầu một con người ta vừa giết được ở trong rừng, phải hai người lính mới khiêng nổi, tôi đoán nó phải to lớn gấp đôi con voi. Tôi còn được ăn thịt,cũng khá ngon và mùi vị thơm hơn tất cả thú rừng hay thú săn bắn mà tôi được biết. Người ta cho rằng thịt con vật này cả da, xương và nhất là răng, móng và sừng đều là những liều thuốc chống mọi nọc độc.
    Những người đi săn trong rừng thỉnh thoảng cũng bắn được mèo rừng rất đen và nhỏ, người Đàng Ngoài rất chuộng, họ tiến chúa và các quan lớn. Có rất ít dê, không có chiên cừu, cũng không có lừa, chỉ dùng bò và trâu để làm những việc nặng, còn những việc thông thường và nhẹ trong quảng đại quần chúng thì đàn ông cũng như đàn bà họ đều quảy gánh trên vai.
    Khắp xứ đầy gia súc nhất là gà, giá rất rẻ, không khác gà của chúng ta. Nhưng gà trống thì to gấp đôi, giá rất đắt, vì họ dùng làm gà chọi. Họ thường hay tổ chức chọi gà, nhiều khi còn cho cầm than củi và thứ gươm nhỏ để thành một cuộc chiến đẫm máu. Như thể võ khí tự nhiên vẫn chưa đủ. Có khi người ta bán một con tới mười hay mười hai ecu, thứ gà chọi thiện chiến. Cũng có chuồng để nuôi chim bồ câu như chúng ta. Còn chim gáy thì nuôi trong những ***g lớn, rất thông thường, chỉ năm xu mà mua được mười lăm hai mươi con.
    Có rất nhiều cá, rẻ mạt lại rất tươi và to, to nhất có thể nặng tới mười hay mười hai líu30 cũng chỉ giá chừng năm xu. Nhiều như thế là vì có rất nhiều bến và nhiều ngư phủ trong toàn cõi. Người ta đếm được tới chừng năm mươi hải cảng và (khi trời cho phép) có tới hơn mười ngàn thuyền đi đánh cá. Cho nên thức ăn ở nước này chủ yếu là cơm gạo và cá. Tôi kể ở đây, một hôm chúa Đàng Ngoài hỏi tôi về ngày kiêng của đạo ta thì được dùng thịt gì. Khi biết chúng ta kiêng thịt nhưng không kiêng cá, thì chúa nói như vậy các ngươi sẽ tìm được nhiều công dân của ta vì sống như các ngươi và kiêng như các người thì chẳng khó gì. Nhưng ta không tin các người tìm được kẻ muốn sống trinh khiết và và kiêng đàn bà như các người. Thật là câu chuyện buồn cười của một ông chúa lương dân không hiểu biết gì về Thiên Chúa và đặc ân đạo Kitô đã ban cho giáo dân tân tòng ở nước này. Chúng tôi đã thấy một số người rất đông nam cũng như nữ, trai cũng như gái đã dâng mình cho Thiên Chúa muốn giữ độc thân và trinh khiết.

Chia sẻ trang này