1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc Tháo Chạy Tán Loạn ( Frank Snepp )

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi T55tank, 16/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    Cuộc Tháo Chạy Tán Loạn ( Frank Snepp )

    -------------------
    Cùng với nhân dân cả nước nói chung và các bác trên diễn đàn TTVNOL nói riêng , đang nô nức kỉ niệm kỉ niệm chiến thắng 30/4/1975 lớn lao của dân tộc , tôi cũng xin đăng hồi ký của Frank Snepp , một chuyên viên phân tích chiến lược của CIA với mong muốn rằng đóng góp thêm cái nhìn về sự kiện trọng đại đó.
    ------------
    Cuộc tháo chạy tán loạn (nguyên bản tiếng Anh : The dencent Interval , xuất bản năm 1977) là cuốn sách của Fank Snepp, một chuyên viên phân tích chiến lược của CIA viết về những ngày cuốI cùng của ngụy quyền Sài Gòn và sự phản ứng của cố vấn Mỹ trước cuộc Tổng tiến công và nổI dậy của quân và dân ta trong mùa xuân lịch sử 1975 .

    Đứng ở toà đạI sứ Mỹ tạI Sài Gòn , được nghe ngóng, quan sát những thông tin nóng hổI nhất của cuộc chiến , tác giả đã ghi lạI và đưa ra trước công luận những sự thật của lịch sử . Qua đó cho chúng ta thấy chân dung một loạt tướng tá và chính khách cấp cao của Mỹ-ngụy giống như những con rối của thời cuộc . Trước sự tấn công thần tốc của quân và dân ta , họ chỉ còn một cách là ?o tháo chạy tán loạn? .Tuy nhiên , do tác giả là người ở ?o phía bên kia ?o nên cuốn sách cũng phải có những hạn chế nhất định, bởi tác giả không thể hiểu được sâu sắc những nguyên nhân của Đại Thắng Mùa Xuân 1975 .

    Mặc dầu vậy , Frank Snepp cũng giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ và khách quan hơn nguyên nhân thất bạI hoàn toàn của chế độ Mỹ-ngụy

    Đây là một cuốn sách lôi cuốn và hấp dẫn . Và như tác giả đã viết ?oMong rằng với thời gian và khi những vết thương chiến tranh Việt Nam đã lành , có thể trả lại vai trò cho lịch sử , nghĩa là đánh giá lạI từ đầu, một cách khách quan, toàn bộ chủ trương chính sách, sự việc xảy ra, kể cả những gì làm cho nhiều ngườI trong chúng ta mù mắt,không thể nhìn rõ những diễn biến thật sự của tình hình Việt Nam ."
  2. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    phần 1 : Mở Màn
    Trở lại Đông Dương
    Tháng 10/1972 , lúc tôi trở lạI SG sau 1 năm vắng mặt , cuộc tấn công của Bắc VN lắng xuống . LờI bàn tán sắp có hoà bình lan truyền khắp nước này . Từ nhiều thập kỷ nay , lần đầu tiên , ngườI VN mới lại có dịp mong ước chiến tranh sớm chấm dứt .
    Lúc chiếc máy bay khổng lồ của hãng hàng không Cathay Pacific xin hạ cánh xuống sân bay Tân Sân Nhất, tôi nhìn rõ con đường dài chúng tôi và các đồng mình phải vượt qua , kể từ ngày đầu tiên, hồi tháng 6/1969 , tôi đến đất Việt Nam . Ngày ấy , trời mùa hè nóng bức , máy bay phảI lượn theo vòng tròn xoáy trôn ốc mớI hạ được cánh để tránh những khẩu pháo phòng không của cộng sản ở chung quanh sân bay .
    Ba năm sau , máy bay từ từ hạ xuống dọc theo những nhà tạm lợp mái tôn lượn sóng , được xây dựng chung quanh thành phố theo nhịp độ dân tị nạn kéo đến . Đằng xa , những mảnh ruộng xanh và vẫn bình yên như cánh đồng nông thôn miền Louisiane .
    Lúc tôi rảo bước đi qua những đường bay đến phòng nhập cảnh trước làn sóng hành khách , tôi nhớ lại người bạn đồng hành ngồI cạnh tôi trong chuyến bay sang đây lần đầu năm 1969 . Đó là vợ một viên đại tá mới biết tin chồng sống lang chạ với một phụ nữ Việt Nam làm chiêu đãi viên bán bar . Cho đến lúc máy bay chạm đất , bà ta đã thổ lộ với tôi đến mườI lần nỗI lo sợ của bà . Mỗilần tỏ nỗI lòng , bà đều uống một ly Máctini . Khi bà xuống sân bay , dưới trời nắng chói chang , bà say quá , ngã lăn ra , làm cho bọn lính Mỹ gác ở cổng chính cườI rũ rượi .
    Lần này trong số hành khách đi máy bay , không có ai là vợ quân nhân cả . trừ tôi ra, ngườI phương tây duy nhất là một thợ nề Úc , bụng to, có một phụ nữ Trung Hoa thiếu gọn gàng đi theo . Có quân cảnh Mỹ giữ trật tự cùng lính Nam VN nhưng họ tôn trọng cuộc sống VN hoá nên giấu mặt .
  3. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    Người lái xe do đại sứ quán cử ra đón tôi nói rằng đã gặp tôi lần trước . Anh ta dẫn tôi nhanh nhẹn lách qua đám lái xe taxi và xích lô đến chiếc Chevrolet có máy điều hoà không khí . Lúc đi qua cổng chính sân bay , tôi thấy bức tượng nhỏ do ngườI Việt Nam mớI dựng để tưởng nhớ ngườI Mỹ chết trong chiến tranh . NgườI ta đọc thấy hàng chữ ?oSự hy sinh cao cả của ngườI lính đồng minh sẽ không bao giờ bị lãng quên .? Ba năm sau , sau khi SG thất thủ , những ngườI cộng sản quét lên đó một lớp sơn vàng và thay bằng một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh .
    Cũng như mọI ngườI khi mớI đến , tôi ở khách sạn Duc , trụ sở trá hình của Cục tình báo trung ương Mỹ CIA xây khuất vào trong , cách dinh tổng thống VN và sứ quán Mỹ vài trăm mét . Cho đến cuốI thập kỷ 60 , trong nhiệm kỳ thứ nhất của tôi ở SG , khách sạn này chỉ hơn cái trạI lính một chút , dùng để đón tân khách . Ở đây luôn có không khí ồn ào của vũ hộI .
    Nhưng một năm trước khi tôi trở về trụ sở CIA ở Langley , miền Virginia , có một ngườI nào đó quyết định rằng chúng tôi đáng được sống tốt hơn , nhất là vợ con nhân viên sứ quán cũng được phép sang vớI chồng , vớI cha . Do đó khách sạn được sữa chữa lạI theo kiểu Mỹ . Phòng ăn đặt ở tầng thượng , được sắp xếp theo tiêu chuẩn hiện đạI của công ty Howard Johnson . Gần đó có bar , có bể bơi , sân phơi nắng để ngườI ta có thể vừa tắm vừa uống Bloody Mary . Thức ăn đặc biệt Mỹ và gồm toàn món ướp lạnh . Nữ chiêu đãi viên VN đều do CIA tuyển lựa để đảm bảo không một ai có quan hệ vớI cộng sản . Những chiếc áo dài cổ truyền trước kia làm cho các cô uyển chuyển và quyến rũ nay được thay bằng những bộ đồ ngắn cũn cỡn theo mốt quần áo trẻ con Mỹ lúc các em bắt đầu đến trường mẫu giáo .
    Tám giờ tốI , có thể xem phim mớI , chưa hề chiếu ở đâu , trong phòng chiếu phim ở dướI nhà , cạnh cửa ra vào . Ngoài ra còn có một phòng rửa ảnh , trang bị đầy đủ máy móc hiện đạI , một phòng thu thanh và một thư viện mở cửa suốt ngày .Sáng sáng , từ sứ quán đến khách sạn ,khách đi , về bằng xe của CIA để giảm bớt số xe chạy trong những giờ cao điểm . Lúc nào cũng có xe riêng chở đi PX , đến phòng cung cấp hoặc bệnh xá cực kỳ hiện đạI của CIA , đặt ở một phố gần đấy . Ở đó 2 thầy thuốc lành nghề , thay nhau thường trực suốt ngày và đêm để chạy chữa cho những ngườI say rượu hoặc mắc những bệnh khác . Hầu hết các nhân viên CIA đều có xe riêng đặc biệt , lúc nào cũng đầy xăng được phát không , một biệt thự hoặc một ngôi nhà , tùy theo cấp bậc , ở trong thành phố . Điều đáng ngạc nhiên ở CIA Sài Gòn là ngườI ta thích lái xe Ford Pinto và những ngườI đó đeo một huy hiệu ghi rõ :? Tôi làm việc cho CIA? . Thật vậy , họ là quan chức Mỹ ở Vn duy nhất dùng loạI xe này .
    MọI chi tiết đều được để đảm bảo đầy đủ tiện nghi cho cuộc sống của 300 nam , nữ nhân viên CIA cho đến lúc trở về Mỹ , nghỉ hè hằng năm , giảI trí .Trên trái đất này , chưa thấy ở đâu , chưa thấy ở nơi nóng bỏng nào , nhân viên CIA lạI được sống sang trọng như thế . Tất cả tiền chi phí đều do ngườI đóng thuế Mỹ chịu .
    Một , hai ngày sau khi tôi đã yên vị ở khách sạn Duc , tôi quyết định vào trung tâm thành phố , cách khách sạn khoảng vài trăm mét . Tôi ra đi đúng ngọ . Kim đồng hồ bưu điện chỉ 12 giờ lúc tôi cho khởI động chiếc xe Pinto mượn của ngườI khác , giữa tiếng ồn ào của ngườI VN . Phần đông đang trở về nhà hoặc đi qua đường đến ngủ trưa dướI bóng mát của nhà thờ Thiên Chúa Giáo . Trong khi luôn lái hãm phanh để tránh chẹt phải ngườI đi bộ đảng trí , tôi nhớ lạI một ngày hè 1969 , cũng nóng bức như hôm nay , ********* đặt một trái mìn có kim đồng hồ và làm nổ tung ở cửa nhà bưu điện .
    Khả năng một bạo động như thế khó có thể xảy ra ở ngày nay . Vẫn biết chiến tranh hãy còn . Ban đêm ,trên nóc khách sạn Caravelle , ngườI ta vẫn còn trông thấy máy bay lên thẳng VN bắn pháo sáng vào bầu trờI tạo thành những viên hoả châu trên nền nhung đen . Vẫn còn nghe tiếng gầm rít của đạI bác , tiếng bom rền của máy bay B.52 ở đằng xa làm rung chuyển giường ngủ . Nhưng hàng tháng nay , không có một vụ phá hoạI nào đáng kể . NgườI bản xứ gần đây nhất tự thiêu theo kiểu nhà sư hồI đầu những năm 60 , là một cựu binh cụt tay , 3 tuần trước , trong lúc anh ta nằm mơ màng ở một quán bán hoa trên đường Nguyễn Huệ , đã đánh rơi điếu thuốc là Bastos vào ngườI .
  4. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    Tôi trở về khách sạn Duc lúc tốI . Ở đó có một ông già ngồI . Ông ta ngồI kể chuyện SG đầu những năm 60 . Đó là Paris của phương Đông vớI những đường phố rộng trồng cây . Có những tiệm ăn Tàu nổI tiếng ở Đông Nam Á , những nhà thổ sang trọng , bốn bề là kiếng chiếu kiểu Hongkong . Nơi đó có nhiều trò giảI trí như tấm biển của nó chỉ rõ .
    Nghe ông ta nói thì thờI phồn vinh xa xưa ấy chấm dứt năm 1965 , lúc trận lũ lụt đô-la đổ xuống cùng vớI làn sóng lính Mỹ xô vào , tiêu diệt mọI thứ ưu ái ở thành phố này . Sau cuộc tổng tiến công năm 1968 của cộng sản , SG trở thành một bản sao tồI của Dodge City , thờI những ngườI mớI đến khai khẩn .
    Lính Mỹ , đạn trên vai, một tháng lương trong túi , trở thành ngườI chủ của thành phố .LốI sống Mỹ tràn ngập phố phường . Một phần nhân dân địa phương sống yên tĩnh ở nhà , chờ ngày giông tố qua đi . Phần còn lạI lao vào việc kiếm tiền bằng nhiều mánh khóe . Chất lượng các nhà chứa giảm sút . Thật vậy, hàng đàn phụ nữ nông thôn VN thiếu kinh nghiệm , bỏ quê hương , sẵn sàng hành nghề . Những ngườI khoẻ nhất , xinh nhất đều ở câu lạc bộ 147 đường Võ Tánh , ở bar Con Rồng , gần đường Lê LợI hay ở Mini?Ts Flamboyant , một ngôi nhà tồI tàn trên đường Nguyễn Huệ . Ở những nơi ấy , cả một thế hệ lính Mỹ đã mất cả áo sơ mi lẫn sự ngây thơ của mình.
    Tháng 10/1972 , lúc tôi trở lạI SG , những cảnh ấy chưa mất hẳn . Sự khổ cực vẫn còn bám lấy thành phố như cái vẩy trên vết thương . Bề mặt xám những ngôi nhà của ngườI dân và những khách sạn ở trung tâm thành phố , gần quảng trường Lam Sơn , vẫn như cũ . Từ những cống rãnh - kể cả những đường phố chính - bốc lên mùi nước tiểu và rác mặc dù thường có những xe do các chương trình viện trợ Mỹ cung cấp cho chính quyền SG , đi phun nước và hốt rác . Giao thông hỗn độn và dễ làm chết ngườI . Vào những giờ cao điểm , không khí trở nên xám xịt và lầy nhầy vì khói , hơi dầu do các loạI xe Honda và các loạI xe Nhật Bản khác của những ngườI VN đi , thảI ra mặc dù giá xăng dầu cao . Những cây me cuốI cùng ở đường Tự Do đang chết dần giữa làn khói ấy . Và những nhà thông thái trong xã hộI thực dân Pháp cho rằng quân độI Mỹ phảI chịu trách nhiệm về cái chết của những cây me này vì họ đã sử dụng những hoá chất làm trụI lá cây .
    Theo sự khám phá của tôi , đờI sống ban đêm ở SG không hề được cảI thiện chút nào , về mặt thẩm mỹ hay mặt vệ sinh cũng vậy . Mấy tuần trước , trong một lúc bốc đồng , chính quyền ra lệnh đóng cửa các quán bar và các phòng xoa bóp đáng nghi ở đường Tự Do và đường Nguyễn Huệ , để tỏ rõ rằng sự có mặt của ngườI Mỹ đã giảm sút và để giảm bớt sự lạm phát . Nhưng , cũng như mọI cảI cách ở thành phố này , việc cấm đoán đó cũng là một trò hề . Cách làm tiền mạnh bạo nhất là ra kiếm khách ở hè khách sạn Continental . Trong quán ăn-thay các bar-vẫn những trò giảI trí như trước .Nhưng các cô gái lạI mặc áo blu trắng của chiêu đãi viên và đề nghị khách dùng trước hết , rau xà lát và thịt trâu , khác vớI lệ thường .
    Mặc dù có những cảnh xấu xa ấy , thành phố vẫn có vẻ đang thay đổi , điều mà chỉ có thể những ngườI VN mớI đánh giá đúng . Những kẻ ăn xin và bọn nhóc lưu manh trên đường Nguyễn Huệ hình như lễ phép hơn , vị nể hơn . Có vẻ như chúng hiểu rằng ngườI Mỹ sắp ra đi hết và phảI tỏ ra ít nhiều ngoạI giao để tranh thủ những ơn huệ của những kẻ trọc phú cuốI cùng ! Còn lính Nam VN thì họ tiếp tục tràn vào các cửa hàng và tiệm café chiều thứ bảy . Họ lạI cầm tay nhau , cử chỉ mà họ phảI từ bỏ ngày lính Mỹ tớI . Những ngườI Mỹ , không hiểu tập quán ấy , cho rằng VN là nước của những kẻ gian .
    Một nhà buôn già , người Tàu , đã mua một phòng xoa bóp tốt nhất ở đường Tự Do để mở một cửa hàng bánh mỳ , hăng hái giảI thích cho tôi : ngườI Mỹ ra đi đã thay đổI mọi cái giống như người Mỹ tới , phảI chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh . Ông ta nói :?Sự giàu có mà các anh đem đếm buộc chúng tôi phảI nghĩ đến sự nghèo túng của mình và giao thiệp với các anh để trở thành ngườI mà các anh mong muốn . Nay , ngườI Mỹ trở về nước họ , chúng tôi lạI cảm thấy yên ổn hơn , tránh khỏI những ảo tưởng ?o
    Trừ những người Mỹ ngày càng ít đi , những nhân vật chính của SG vẫn thế, như tôi đã biết họ lúc trước : một bọn người ngây thơ và ăn cắp , xứng đáng vớI tượng của Hieronymus Bosch .
    Đằng kia, ở ngã tư đường Lê LợI và Nguyễn Huệ, một ngướI đạp xích lô già ,ngồI trên xe như con chim kền kền, đầu độI mũ côlônhân, mắt đeo kính đen, mũi tẹt , đang theo dõi xem có khách gọI không. Đằng này ,trên đường Tự Do, một cô bé khoảng 17,18 tuổI ,vẻ đãng trí, bộ đùi lộ rõ trên đôi dép giả da, vú độn cao cho hợp mốt thờI đại.Cô ta uống Coca vá nói đùa tục tĩu bằng 1 thứ tiếng Mỹ giả cầy học ở các bar mà cô chưa hiểu hết, vớI bọn lái xe xích lô không quen biết.
    Xa xa có 1 cô gái nông thôn, bé nhỏ ,thẹn thò nón ngang vai, quấn lụa đen phất phớI, dép râu đi kêu lách cách tứ gian hàng náy sang gian hàng khác ở chợ Bến Thành.Theo sau la anh chồng, 1 binh sĩ Việt Nam, đôi mắt buồn dướI chiếc mũ sắt, khẩu súng M.16 cao bằng ngườI, lương tháng bằng 12 dola , nhưng phảI nuôi sống gia đình 1 ngày 1 đồng ,không có tương lai nào khác nào khác ngoài việc nằm trên cáng hoặc đến tuổI giải ngũ là 37 tuổi. Lúc đó, anh ta đã quá già để làm bất cứ việc gì.
    Có cả tầng lớp thượng lưu, những diễn viên chính.BuổI trưa , thường họ ở câu lạc bộ thể thao, vết tiách của thờI thuộc địa Pháp.Họ vừa ăn sáng vừa tắm ở bể bơi trong 2 giờ. Đây là nhóm sản phẩm của xã hộI Pháp cũ,những tên thực dân già và những tên thanh niên lai, mạmh khoẻ, da nâu.Kia 1 nhóm ngườI riêng biệt, yên lặng, nằm phơi bụng trên ghế dài, dấu hiệu sung túc của đất nước kỳ lạ này. Đó là những người việt Nam hay Trung quốc quan trọng, nói thì thầm vớI nhau về việc làm ăn buôn bán, vế chính trị chung quanh cốc nuớc chanh vắt, đủ giàu để có thể thoát khỏi mọI biến cố sẽ xảy ra.
  5. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    Quá trưa , khoảng từ ba giờ đến bốn giờ, phảI đi xe ra tớI hiệu cà phê Givral đường Tự Do mớI uống đuợoc ly cà phê Pháp, đen như mực. Ở đây , giới thượng lưu cũng họp mặt.Nhưng đó là những người trẻ tóc đen, dài rất khó phân biệt giữa nam và nữ vì họ mặc áo sơ mi thêu cành lá và và quần chẽn. Những sinh viên ở Sài Gòn ghét Mỹ nhưng dành thì giờ để bắt chước Mỹ.
    Cũng có thể lượn phố, dình muũi vào tủ kính những cửa hàng sang trọng ở vòng cung Eden. Ở đây có thể gặp những phụ nữ lịch thiệp của thành phố.Họ đi , đầu thẳng, nhìn xa, đúng mốt trên tranh, mũi và mắt được các mỹ viện trang điểm theo kiểu phương Tây.Cxhiếc áo dài lụa, những chiếc bùa Campuchia tỏ rõ họ giàu sang.Có thể bí mật mời họ đi chơi 1 chuyến . Nhất là đốI vớI những vị có nhiều tiền. Đó thường là vợ hai hoặc tình nhân của của 1 vị tướng quan trọng hay 1 nhà chính trị Nam Việt Nam . Họ nói tiếng Pháp và giao thiệp với người Pháp.Tuy nhiên , họ bằng lòng ve vã người Mỹ nều việc đó có lợi cho họ.
    Giờ uống cốc-tai đến . NgườI ta vộI vã đến hiệu Mini cầm một cốc bia . Chắc chắn , những kẻ nịnh hót , đứa nào cũng hay nói . Nhưng đừng vộI nghĩ lầm . NgườI ngồI đó đang ở thời kỳ cực thịnh , là một người Mỹ quan trọng . Mặt anh ta đỏ gay, cổ bò rừng , sơmi kẻ ô che cái bụng phệ . Nguyên là lái xe vận tảI hoặc làm cai trong một xưởng máy , anh ta bám lấy VN từ năm nay qua năm khác ,làm tổ trưởng trong một nhà hàng Mỹ . Sau mỗI trận đánh , anh ta lạI được ký hợp đồng làm đường , xây nhà . Anh ta có một vợ và một nhân tình ngườI VN dễ bảo . Anh ta là ngườI bảo vệ lòng tự tôn mặc cảm Mỹ . Là ngườI sau cùng rờI đất nước này sau khi mọI ngườI Mỹ khác đã hồI hương .
    Sứ quán Mỹ nằm trên đường Thống Nhất , không có gì thay đổI trong lúc tôi vắng mặt ở SG. Họa chăng là trồng một ít cây hoa ở ngoài sân vào những chỗ ********* đào để đặt súng trong những ngày đầu của cuộc Tổng tiến công mùa xuân 1968 . Nhưng những bức tường bê tông bảo vệ mặt trước sứ quán chẳng đẹp đẽ gì hơn một cái cốI có hình tổ ong .
    Về mặt kiến trúc, nơi đây giống như phác hoạ một ý đồ Mỹ ở nước này , tạo cho trụ sở cơ quan ngoạI giao hình ảnh một pháo đài , việc đó tỏ rõ hiệu quả của nên ngoại giao ! Quả thật đó là một pháo đài : 60 lính gác , một hầm tránh bom , một mái nhà làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng và một bức tường cao 3 mét để dân SG và khách du lịch không thể dòm ngó được.
    Đại sứ E.Bunker và êkíp ngoạI giao của ông vẫn ở 3 tầng dướI đạI sứ quán . Ba tầng trên dành cho CIA . Bên cạnh ngôi nhà chính là một dãy nhà phụ , gọI là ?okhu? Nôrôđôm , dành cho nhân viên phụ động của CIA . Trong cuộc tổng tiến công của cộng sản , năm 1968 , một tổ đặc công của ********* đã đánh tớI khu Nôrôđôm . Nhưng một lính Mỹ gác ở phòng dùng để xếp bản đồ của CIA , đã lấy súng máy chặn họ lại .Từ đó , mốI xông và phá hoạI cả gian phòng . Ngày cuối cùng của chiến tranh , gian phòng đã ?o vui vẻ ? cháy hết .
    Một ngôi nhà 3 tầng mớI được xây gần khu Nôrôđôm . Hơi xa một chút , gần sân nơi máy bay lên thẳng hạ cánh cuốI cùng để cứu chúng tôi, đã thiết lập một nơi giảI trí mớI , gồm một nhà ăn theo kiểu Mỹ và nột bể bơi lớn. Như bể bơi khách sạn Duc . Tất nhiên là người SG không được vào bể bơi này .
  6. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    Sứ quán được xây dựng năm 1967 , đáng lẽ là chổ ở, nơi nấu nướng của đoàn ngoạI giao Mỹ tạI VN- hồI ấy đã quá đông , không thể ở gần trụ sở cũ , gần sông ?" Nhưng với những nhà kiến trúc không được bí mật về ý đồ của chính giớI cao cấp Mỹ , nên sứ quán mau chóng trở nên chật chộI đốI vớI số nhân viên mỗI ngày một phình ra . Một bộ phận phảI đặt tạm trụ sở ở những ngôi nhà tồI tàn trong thành phố . Cơ quan CORDS - tượng trưng cho sự nỗ lực của ngườI VN và ngườI Mỹ để bình định đất nước này , gồm 2 bộ phận chỉ huy riêng rẽ , ở cách xa sứ quán . Quan chức cơ quan USAID được sử dụng những ngôi nhà lớn gần câu lạc bộ thể thao . Và nếu cần phải có những dụng cụ tuyên truyền , thì phảI qua phố Lê Qúy Đôn quá đông đúc để đến thư viện Lincoln , ở đó là trụ sở của cơ quan thông tin Mỹ - USIS .
    Những ngôi nhà phụ của sứ quán cách đó 8 km , nằm trong sân bay Tân Sân Nhất , trước mặt những ngôi nhà của sân bay . Ở đấy , trong những căn phòng kín đáo , chắc chắn , gọI là ?o Lầu Năm Góc phương Đông ?, các tướng Mỹ thuộc cơ quan MACV (cơ quan viện trợ quân sự Mỹ ) , từ giữa những năm 60 , đã thảo ra những kế hoạch đánh chiếm cùng vớI Bộ chỉ huy tốI cao Nam Việt Nam , mà bộ tham mưu cùng ở đây .ThờI kỳ quân Mỹ tham gia toàn bộ vào cuộc xâm lược . ?o Lầu Năm Góc phương Đông ? là một tổ ong ồn ào , những binh sĩ bất mãn và chán chường , hít cần sa trong buồng thay quần áo hay trong bể bơi , những sĩ quan trẻ, vẻ bận rộn , rảo bước ngoài hành lang làm như không trông thấy gì . Lúc tôi trở lạI năm 1972 , nếu có gì thay đổi ở Nam VN thì đó là nhịp sống ở ?oLầu Năm Góc? chậm lạI . Binh lính Mỹ giữ vai trò thứ yếu bên cạnh ?ođồng minh? Nam VN . Theo tinh thần ?otriệt để? Việt Nam hoá , sĩ quan Mỹ cũng không trả lờI dây nói nữa .
    Sau đó , khi ngừng bắn , những cơ quan rảI rác của sứ quán đều thay đổI và thu hẹp lại . Cơ quan ?o Bình định và phát triển nông thôn? từ chối không làm nhiệm vụ chống khủng bố , đổI thành ?oPhòng giúp đỡ đặc biệt ?o
    Cơ quan MACV thu hẹp lại , trở thành ?oPhái bộ quân sự ? . Còn nhân viên ngoạI giao và quân sự Mỹ ở rảI rác khắp Nam VN , kéo về những trung tâm lãnh sự ở các thành phố quan trọng như Đà Nẵng , Nha Trang , Biên Hoà và Cần Thơ . Mặc dù vậy , những cơ quan khác nhau của sứ quán , cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh , vẫn gây cảm tưởng là họ ở khắp nơi và không ở đâu hết . Không có sự giúp đỡ của Chúa trời và nhất là không có sự tận tụy của một số ngườI lái máy bay lên thẳng thì một số khá đông nhân viên sứ quán có thể bị bỏ quên như trường hợp nhiều nhân viên VN .
  7. meomunchamchap

    meomunchamchap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Bac T55tank có CTCTL là bản nào thế? Tôi cũng có một cuốn nhưng có người nói là đó không phải là bản đầy đủ, vì nguyên bản (đã dịch ra tiếng Việt) còn có nói về các điệp vụ của CIA ở miền Bắc như: thu thập tin tức, âm mưu ám sát các lãnh đạo ta nữa. Cuốn của tôi không có.
    Mong rằng bac có nguyên bản đầy đủ post lên cho anh em coi. Chuc bac khoẻ!
  8. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    À vâng , cuốn của em cũng nói sơ qua về vấn đề đó . Đại loại ông ta chửi là ngay cả vụ tập kích Sơn Tây được hoạch định kĩ đến thế mà khi đổ bộ thì tù binh đã được chuyển đi nơi khác hết từ đời nào, thế mà bây giờ bắt vào Hà Nội ám sát lãnh đạo Bắc VN . Ông ta cho rằng có biết người ta ở chỗ nào đâu mà ám với chả sát .
    Em sẽ pót lên đầy đủ cuốn của em có nhưng có biết là đáp ứng được mong đợi của bác không đây ?
    Kính bác
    -------------
    Theo lý thuyết thì ông đại sứ là người duy nhất chịu trách nhiệm về cộng đồng viên chức Mỹ ở Việt Nam . Nhưng tháng 12 năm qua, trọng tâm chính trị đã thay đổi hoàn toàn, nhiểu lần khi ảnh huơỏng của phái bộ quân sự lớn đến đâu thì các đại sứ henry Cabot Lodge và M.Taylor bị đầu óc ?oLấu Năm Góc phương Đông ?o chi phốI đến đấy. Năm 1967, khi ông E. Bunker vào ở tẩng gác thứ 3 của sứ quán , thì ông chẳng làm gì để thay đổi tình trạng ấy . Nhưng 2 năm sau, khi ?oViệt Nam hoá? trở thành chính sách của Mỹ thì những quyền ưu tiên và trung tâm quyết định lại thay đổi 1 lần nữa . Bunker dần dần trở thành người diễn viên chính trên sân khấu Mỹ ở Việt Nam.Cùng vớI Đại tướng C. Abrams, người chủ ?oLầu Năm Góc phương Đông?, ông giao quyền chỉ huy dần cho ngườI Nam Việt Nam.
    Một cuộc chuyển giao trách nhiệm như thế đòi hỏi phảI có 1 chế độ vững chắc , cùng với chính sách đối ngoạI của H.Kissinger, Bunker có nhiệm vụ chính là đề cao giới thượng lưu chính trị Nam Việt Nam, nhất là Nguyễn Văn Thiệu. Ông làm việc này rất vui vẻ và với nhiều trí tưởng tượng. Năm 1971,trong nhiệm kỳ thứ nhất tôi ở Sài Gòn, tất cả các ứng cử biên tổng thống phải rút lui vì Thiệu chắc trúng cử . Bunker liền dàn 1 cảnh xảo quyệt để củng cố ?ouy tín? cho Thiệu, nhất là đối với phái đoàn hoà bình Mỹ có thể cho rằng Thiệu trúng cử tổng thống vì không có đối thủ, Bunker quyết định , ?oủng hộ? 1 nhân vật ôn hoà thuộc phe đối lập, Đại tướng Dương Văn Minh, thường gọI là Minh lớn, để ông này không bỏ cuộc đua , làm như thế may ra cứu vãn được tình thế . Bunker hành động theo lốI ngoại giao quen thuộc của ông . Mưu mô của ông có thể thành công nếu cuối cùng Minh lớn không nói rằng 3 triệu dola người ta biếu ông để vận động tranh cử không hấp dẫn bằng triển vọng 1 sự thất bại chắc chắn.
    Lúc tôi trở lại Sài Gòn, mùa thu năm 1972, tổ của tôi, 1 chi nhánh CIA , ngày càng bị báo giớI Mỹ công kích về cuộc lạm dụng bia đặt , nhất là trong chiến dịch Phượng Hoàng. Không còn nghi ngờ gì , chúng tôi có thể trở thành 1 tấm bia ít bị bắn hơn nếu chúng tôi tiếp tục tập trung , như những năm qua, vào mục đích chính : thu thập tin tức. Nhưng từ những năm đầu của thập kỷ 60, CIA ngày càng sa vào những vùng lầy khác.
    Không phải chúng tôi hành động ngoài qui định của pháp luật. Thật vậy, trong luật về an ninh quốc gia có 1 câu ngắn và mập mờ như thế này:?cơ quan CIA và các chi nhánh ở nước ngoài không được phép làm mọi việc và mọi cách để thu thập tin tức có quan hệ đến an ninh quốc gia mà Hội đồng an ninh Quốc gia đề ra cho nó?.
    Đầu những năm 60 , Nhà trắng đã lợi dụng câu này để buộc CIA phảI làm những việc mà Hoa Kỳ không có chuyên gia như tuyển và huấn luyện những độI quân chống cộng . Sau đó ,trong khi phái quân sự chuẩn bị 1 cuộc chiến tranh khốc liệt hơn, thì tổng thống Johnson quyết định để cho CIA tiếp tục hoạt dộng ngoài chương trình đã định : nghĩ rằng Lầu Năm Góc không cho đó là điều quan trọng.
    Được sự đồng ý của tổng thống Johnson , chi nhánh CIA ở VN dần phát triển . Đầu năm 1965 , có hơn 600 người thư ký , phân tích tin tức , điều khiển gián điệp , thám báo ( thường gọI là ngườI xem xét ) . Trừ cơ quan ở Virginia , trên thế giới , không có chi nhánh CIA nào đông nhân viên đến thế . Với thời gian , nhu cầu về nhân viên trở nên cấp bách , nên các chi nhánh khác hằng năm phải cử nhân viên tình nguyện sang VN bất kể họ có kinh nghiệm hay không .Phần lớn tình báo tớI VN đều từ CHLB Đức hoặc Châu Mỹ Latinh . Họ chưa hiểu gì về VN và muốn biết VN . Mặc dù như thế , chỉ một , hai tháng sau khi đến Nam VN , chưa biết một tiếng địa phương nào , họ vẫn phảI nhận nhiệm vụ ở một đồn tiền tuyến Tây Nguyên hay ở vùng đồng bằng , phảI tuyển mộ nhân viên , thu thập tin tức và phảI thực hiện một chương trình mớI rất mơ hồ để cứu vãn nước này , gọI là chương trình ?o phát triển nông thôn ?o
    Một ngườI phân tích tin tức trước đây của CIA tên là R . Komer đã đề ra chương trình này năm 1967 lúc ông ta là cố vấn ở Nhà Trắng . Ông cho rằng , một mặt có thể loại trừ bộ máy chính trị của ********* bằng chống khủng bố , mặt khác , có thể củng cố vị trí của chính phủ bằng những công trình lợi ích công cộng ở nông thôn . NgườI VN thành lập một bộ đặc biệt . Còn ngườI Mỹ thành lập cơ quan CORDS vào cuối năm 1967 . Phó của ông ta là W.Colby , trước đây chỉ huy những hoạt động bí mật của CIA ở Viễn Đông , thay ông ta đứng đầu cơ quan mới này . Cơ quan CORDS được hình thành để trở thành một hình mẫu của chủ nghĩa thế giới quan liêu . Nhân viên hoạt động được tuyển lựa trong độI ngũ các viên chức của phái bộ Mỹ ở Sài Gòn . CIA là cơ quan có tổ chức , giàu có nhất trong các cơ quan dân sự của sứ quán , cuốI cùng đã chỉ đạo được phần lớn những dự kiến táo bạo của CORDS , trong đó có chương trình Phượng Hoàng .
  9. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    Colby không ngừng nhắc lại , mục tiêu của chương trình Phượng Hoàng là bắt sống cán bộ ********* , hỏI cung , tiếp đó dùng họ làm gián điệp . Nhưng chương trình ấy quá phức tạp đối với ngườI ?ođồng minh? Nam VN . ĐốI với những kẻ quan liêu , đó là vấn đề định nghĩa . Không ai , dù là Nam VN hay Mỹ , có thể nói rằng mình không thể nhận ra ngườI này , người kia , là cán bộ ********* . Đó có phải là một xã trưởng dành nửa thì giờ để phục vụ ngườI Bắc VN hay không ? Hay từ ********* dùng để ám chỉ những ngườI cộng sản thật sự , những đảng viên ? Sự thiếu chính xác đó dẫn nhân viên Phượng Hoàng đến chỗ làm việc tuỳ tiện , bắt bớ lung tung , bất cứ người nào có vẻ nghi ngờ . Sau đó ít lâu , lúc các nhà tù đầy ắp ngườI , nhân viên Phượng Hoàng quyết định lấy đâu là pháp luật .
    Trước khi báo chí tố cáo sự lạm dụng của chương trình Phượng Hoàng , CIA vộI vàng tìm cách che giấu . Năm 1969 ,lúc chính sách Việt Nam hoá mớI được thực hiện , T . Shackley , giám đốc chi nhánh ở SG bắt đầu rút các nhân viên CIA làm việc ở cơ quan CORDS cho chương trình kiến thiết quốc gia về để ông ta tập trung vào những nhiệm vụ cũ , thí dụ như lấy tin tức về những ngườI cộng sản và về chính phủ Nam VN . Chi nhánh có khả năng đạt mục tiêu thứ nhất vì từ lâu , chúng tôi đã có nhiều nhân viên tình báo đắc lực ở ngay trong bộ chỉ huy tốI cao của cộng sản ! Nhưng Shackley , chuyên gia đầy tham vọng , chưa bằng lòng vớI công việc đã làm . Trong thời gian hoạt động , từ năm 1968-1972 , ông ta thúc giục nhân viên ?o tuyển lựa , tuyển lựa , tuyển lựa ?o , nghĩa là : lôi kéo , doạ nạt , , mua chuộc bất cứ ai có thể trở thành ngườI giúp việc . Khi ông hết nhiệm kỳ , danh sách tình báo của CIA dài một cách kinh khủng . Nhưng chỉ một thờI gian sau đó , năm 1974 , chúng tôi mớI thấy rõ sự tai hại do chính sách sốt sắng của Shackley đem lại . Hơn một trăm ?o nhân viên ? ********* được tuyển lựa chỉ là những nhà buôn VN láu lỉnh , họ chẳng biết tý gì về âm mưu của cộng sản . Họ chỉ thu thập những tin tức đăng tảI trên báo chí , hoặc những lời đồn đại , rồI tập hợp lạI một cách thông minh , đưa cho chúng tôi để đòi tiền vớI giá cao .
    Còn cái ?o bia thân hữu ?o ( như thường gọi đốI vớI Thiệu ) , để buộc hắn theo chính sách của Mỹ , chúng tôi phải có những nhân viên chất lượng trong chính phủ . Trong những năm sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ , từ năm 1963 , miền Nam VN liên tiếp bị xáo trộn vì những cuộc đảo chính và chống đảo chính . Có những viên tướng đấy tham vọng , định lợi dụng tình trạng không ổn định của nước này để đục nước béo cò . Năm 1967 , trong một cố gắng cuối cùng để chống rốI loạn , Hoa Kỳ quyết định ủng hộ một nhân vật mớI , một viên tướng miền Nam bình thường và nổi danh là phi chính trị : Nguyễn Văn Thiệu . Sau đó ít lâu , cùng năm đó , Thiệu được đưa lên làm tổng thống . Nhưng con người hùng thật sự là Nguyễn Cao Kỳ , một ngườI Bắc xuất sắc , nguyên thủ tướng trờ thành phó tổng thống . ĐạI sứ Bunker không hề lo sợ về Kỳ và phe cánh của Kỳ . Dần dần , ông gạt được họ ra và chỉ cho tổng thống Thiệu biết rõ các vấn đề về chính trị . Kỳ bị bỏ rơi hẳn sau cuộc Tổng tiến công năm 1968 của cộng sản . Trong cuộc tấn công này , nhiều bạn ?ođồng minh? tin cậy của chúng tôi bị giết .
    Từ đó , mục tiêu chính của sứ quán là củng cố chính phủ Thiệu, bằng bất cứ giá nào, để cho nước Mỹ có thể rút quân ra khỏI VN mà không sợ nổ ra một cuộc khủng hoảng chính trị mớI . Tháng 10/1972 , nhằm mục tiêu ấy , chúng tôi đã mua , ủng hộ và bán nhiều nhà quân sự , chính trị Nam VN , nhiều nhân viên tình báo , người hợp tác với cúng tôi nằm trong chính phủ .
    Shackley đã lôi kéo được tướng Đặng Văn Quang , viên cố vấn sôi nổI về an ninh của Thiệu ( Kissinger của Thiệu - nếu như bạn muốn gọI thế ) cộng tác chặt chẽ vớI CIA . Shackley còn sử dụng được tướng Nguyễn Khắc Bình , người chỉ huy cảnh sát độc ác của chính quyền Nam Việt Nam .
    Cho đến ngày cuốI cùng của chế độ SG , Bình và Quang được coi là những nhân vật có giá trị , chắc chắn nhất của chúng tôi ở VN . Nhưng họ được đánh giá hơi cao so vớI thực tế . NgườI này cũng như ngườI kia , không ai cung cấp cho chúng tôi nhiều tin tức . Chúng tôi lấy tin tức chủ yếu nhờ những máy móc đặt bí mật trong dinh tổng thống . Phòng làm việc của thủ tướng được nghe thường xuyên . Số ít tin tức Bình và Quang cung cấp thường sai lệch . Thật vậy , họ hiểu rằng họ phải nghĩ đến quyền lợi riêng của họ và quyền lợi của Thiệu , không thể cung cấp cho chúng tôi đúng những tin tức chúng tôi yêu cầu . Hơn thế , CIA phụ thuộc rất nhiều vào họ về mặt chính trị , vì họ là ngườI truyền đạt những chủ trương của ngườI Mỹ trong chính phủ , tình hình đó không cho phép chúng tôi đánh giá những tin tức của họ một cách khách quan hay có phê phán .
    Sự tín nhiệm của chúng tôi đối vớI 2 người này đã gây ra nhiều hậu quả tai hại , không những cơ quan thông tin bị ảnh hưởng mà uy tín tinh thần và chính trị của ngườI Mỹ đối vớI ngườI VN cũng bị giảm sút . Làm cho Bình và Quang trở thành những người giàu có và thế lực , những điển hình về tham nhũng và thoái hoá theo lốI Mỹ , chúng tôi đã cung cấp cho cộng sản những vũ khí có hiệu quả nhất để tuyên truyền .
    Để củng cố chính phủ Thiệu , chúng tôi không chỉ đưa hợp tác viên vào đó . Trung lập hoá phe đốI lập không cộng sản cũng là một phần hoạt động của chúng tôi .
    Một thí dụ đáng kể là trường hợp Trần Quốc Bửu . Đó là một nhà chính trị chắc chắn thân Mỹ, đứng đầu Tổng liên đoàn lao công VN . CIA đã biến Bửu thành một hợp tác viên . Chúng tôi sử dụng ông ta để thuyết phục các công đoàn trung thành với chế độ Thiệu . Bửu cũng tuyên truyền cho chính phủ trong những tổ chức lao công trên thế giớI . Thỉnh thoảng , CIA lại giúp cả Bửu viết thư xin ủng hộ gửi cho những đoàn viên công đoàn Mỹ .
    Tất cả những ngườI đốI lập với Thiệu không phảI đã hiểu tình hình như Bửu . Khi việc mua chuộc , đút lót , tấy chay không mang lại kết quả mong muốn . Chúng tôi đã dùng những phương pháp mạnh mẽ hơn . Đó là trường hợp vớI Trần Ngọc Châu , nhà luật học nổI tiếng , có tinh thần dân tộc , năm 1970 , trở thành một đồI thủ chính trị uy hiếp Thiệu . Shackley và Colby cùng với cơ quan cảnh sát Nam VN tạo cho ông ta thành một tay chân và cổ động viên của cộng sản . Anh của Châu là cộng sản , Châu đã gặp anh theo yêu cầu của CIA. Như thế tương đối dễ qui cho ông ta một tộI , chỉ cần thêm hoặc bớt một số tài liệu về ông ta trong hồ sơ của cảnh sát . Shackley không phảI là ngườI dựng lên vụ này . Nhưng ông ta không hề ngăn cản mặc dù biết rõ sự việc . Do đó , khi chính phủ Nam VN cho đăng lên báo chí những tội trạng giả tạo của Châu , Shackley và đạI sứ Bunker lại khẳng định là đúng . Mấy ngày sau , Châu bị bắt ở hành lang quốc hộI và bỏ tù ngay . Rõ ràng là vi phạm luật pháp . Là kẻ có tội , Châu bị giam 4 năm , mớI được tha đầu năm 1975 . Mấy ngày trước khi điện về Bộ chỉ huy ở Langley , Virginia , xin phép cho Châu di tản bằng máy bay . Nhưng Shackley , lúc bấy giờ là người chỉ huy CIA ở Viễn Đông , đã điện về phản đối , viện cớ rằng chưa bao giờ Châu phục vụ cho lợi ích nước Mỹ ở VN . Thế là Châu bị bỏ rơi , mặc cho số phận .
  10. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0

    Hoạt động khác của CIA : thu thập tin tức về trinh độ của quân độI Nam VN và tinh thần tác chiến của họ . Người giao thiệp chính của chúng tôi với Bộ chỉ huy tốI cao Nam VN là cựu chiến binh dũng cảm ?" Charles Timmes . Ông được khen thưởng trong thế chiến thứ 2 vì đã chỉ huy sư đoàn dũng cảm thứ 82 , là đơn vị đầu tiên đã nhảy dù và chiếm đầu cầu Noóc-măng-đi (Pháp) năm 1944 . Hollywood đã giao cho một diễn viên lực sĩ đóng vai Timmes trong phim ?o Ngày dài nhất ?o . Thật là một quyết định kỳ cục . Vì Timmes là người mảnh dẻ , đi đứng xiêu vẹo , giống như Fred Astaire chứ không giống John Wayne .
    Từ năm 1962 đến năm 1964 , Timmes là trưởng đoàn cố vần Mỹ ở VN , cốt lõi của ?o Lầu Năm Góc phương Đông ? sau đó . Nhiệm vụ của ông tạo điều kiện cho ông hằng ngày tiếp xúc những sĩ quan trẻ đầy tham vọng của quân độI Nam VN . Một số ngườI trong những sĩ quan này , nhất là Nguyễn Văn Thiệu , trở thành những ngườI bạn chí cốt . Nhưng lúc ông hết nhiệm kỳ thì ông cũng mệt mỏI về vấn đề VN và xin nghỉ hưu . Nếu CIA không yêu cầu thì ông có thể dành vài năm đi du lịch khắp thế giớI . Năm 1967 , đề nghị với ông một chức vụ mà ông không thể từ chối . Đó là việc ông trở lạI VN , gặp lại người bạn cũ của ông , những sĩ quan Nam VN . Timmes chấp nhận ngay . Trong suốt cuộc đờI của ông làm việc ở CIA cho đến ngày SG thất thủ , ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ . Là bạn đánh quần vợt đều đặn với Minh lớn , qua từng ván một , ông đã lượm được nhiều tin tức có giá trị về phe đốI lập hợp pháp ở SG , kể cả về bản thân Minh lớn . Thường bay luôn về các tỉnh . Timmes đã chắp nốI lạI những cuộc gặp mặt với nhiều chỉ huy đơn vị Nam VN mà ông quen biết những năm trước . Mọi ngườI đều qúi mến và coi trọng ông như người thân . Họ sẵn sàng giúp đỡ ông , viết tóm tắt lại những cuộc trao đổI với ông cho chính xác . Kết quả là những bản báo cáo của Timmes gửi cho sứ quán Mỹ , nhờ ông đến tận nơi , trở thành những bản tường trình cực kỳ đúng vớI những điều quân độI Nam VN đang mong muốn .
    Tuy vậy , những người phân tích tin của CIA , cũng như của Washington , của SG đều nghi ngờ những bản báo cáo của Timmes và coi đó chỉ lả một quan điểm về một vấn đề hết sức phức tạp . Nhưng dần dần , nguồn tin về quân đội Nam VN mỗI ngày một cạn vì quân Mỹ giảm đi ( năm 1970 , 1971 ) và cố vấn quân sự Mỹ ở nông thôn cũng rút về . Lúc đó , giớI cao cấp Washington và SG mới coi trọng tin tức của Timmes . Những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh , đại sứ và giám đốc CIA ở SG đi đến mức đọc cho nhau nghe những tin tức của ông ta và lấy đó làm chứng cứ thật sự cho chính những ảo tưởng của họ .

Chia sẻ trang này