1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

cứu với

Chủ đề trong 'Đại học Kinh tế Tp.HCM' bởi trinhcong, 24/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. trinhcong

    trinhcong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/03/2004
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    cứu với

    mình học k29 đang làm đề tài Kinh tế chính trị là:"hãy nêu vai trò của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế Việt Nam" tìm trong thư viện nhưng ít quá có bác nào có tài liệu hay biết chổ nào có thì chỉ với
    cám ơn
  2. _matnaden_

    _matnaden_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2004
    Bài viết:
    308
    Đã được thích:
    0
    Không biết trong đây có những gì bạn cần tìm không!
    http://www.luathoc.com/main/main.php?c=view&id=2792
  3. _matnaden_

    _matnaden_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2004
    Bài viết:
    308
    Đã được thích:
    0
    CÔNG NGHIỆP HÓA,
    HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
    VÀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

    Nguyễn Hoành Xanh *
    Tại Đại hội VII và Đại hội VIII, Đảng ta đã xác định đường lối phát triển kinh tế của nước ta là thực hiện và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, nền kinh tế đất nước đã đạt được tốc độ tăng GDP trung bình hằng năm giai đoạn 1991 - 2000 là 7,72%. Quá trình thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế trong giai đoạn này đã giành được thành tựu to lớn và rất quan trọng: GDP năm 2000 tăng gấp đôi so với 1990.
    Gắn liền với quá trình đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, hoạt động ngân hàng đã có những thay đổi và chuyển biến mạnh mẽ nhằm thích nghi với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Hoạt động ngân hàng đã góp phần kiềm chế tốc độ lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời, gia tăng nguồn vốn tín dụng và tổng phương tiện thanh toán, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
    Tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự phát triển kinh tế, thiên về số lượng, việc khai thác các tiềm năng sẵn có của các nguồn nhân lực, vật lực và tài nguyên khác theo chiều rộng chỉ thích hợp với nền kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi. Những nguồn lực này trong thời gian qua đã được khai thác triệt để. Vì vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay phải mang nội dung mới phù hợp với bước phát triển của thời đại mới. Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 trong Báo cáo Chính trị Đại hội IX được xác định rõ: "Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, chuyển mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế, mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh và phát huy nhân tố con người, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ".
    Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn mới phải được đặt trong bối cảnh mới, Việt Nam chuẩn bị gia nhập Hiệp ước AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN), đã ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, khi từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và toàn cầu hóa kinh tế thế giới là tất yếu khách quan trong thời đại ngày nay, Việt Nam có rất nhiều cơ hội và cũng không ít những thách thức. Tuy nhiên, với kinh nghiệm công nghiệp hóa trước đây của các nước Đông Á và các nước Đông - Nam Á, Việt Nam sẽ rút ra cho mình không ít những bài học thiết thực. Mặt khác, công nghiệp hóa và hiện đại hóa phải hướng tới và vận dụng kinh tế tri thức - hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thế kỷ XXI với những đặc trưng chủ yếu là: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng cao trong giá thành sản phẩm.
    Ngân hàng là một ngành kinh tế tổng hợp gắn liền với quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế. Với nội dung mới của thời đại mới, hoạt động ngân hàng sẽ có vai trò như thế nào đối với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước ? Trong điều kiện của nền kinh tế phát triển, ngân hàng có vai trò cực kỳ quan trọng. Hoạt động ngân hàng tác động đến tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa cả trên cấp độ vĩ mô lẫn cấp độ vi mô. Trên cấp độ vĩ mô, hoạt động ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước) sẽ tác động theo hướng từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đạt hiệu quả cao về kinh tế - xã hội, gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái. Trên cấp độ vi mô, hoạt động ngân hàng (Ngân hàng Thương mại) sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp, góp phần tích cực vào quá trình tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp chủ đạo trong khu vực kinh tế nhà nước (các Tổng công ty 90, 91); đến các ngành công nghiệp mũi nhọn hướng về xuất khẩu, nhằm tạo ra sức đột phá trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
    Để hoạt động của ngân hàng từng bước có hiệu quả trên cả cấp độ vĩ mô lẫn cấp độ vi mô, chúng tôi xin đề đạt một vài giải pháp sau đây :
    1. Trên cấp độ vĩ mô.
    Ngân hàng Nhà nước phải tăng khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong điều kiện của nền kinh tế mở (open economy) nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn. Trong giai đoạn mới, cần phải có một lượng vốn đầu tư lớn. Theo thông lệ quốc tế, trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hệ số ICOR (Incremental Capital Output rate: để tăng một đơn vị sản phẩm cần bao nhiêu đơn vị vốn) phải là 2,5. Trong giai đoạn tiếp theo, hệ số ICOR phải gấp từ 4 - 6 lần. Để có khả năng hấp thụ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước phải tích cực hoàn thiện thị trường tài chính tiền tệ theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Trong điều kiện thị trường chứng khoán mới ra đời, khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, vai trò của các tổ chức tín dụng là cực kỳ to lớn, nhất là các ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, các công ty tài chính, vì đó là các định chế tài chính mà chức năng chủ yếu là thu hút nguồn vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, khi tạo điều kiện thuận lợi cho luồng vốn đầu tư chảy vào Việt Nam dễ dàng, thì ngược lại, đồng vốn đầu tư cũng có nhiều điều kiện chuyển dịch ra khỏi Việt Nam khi kinh tế quốc tế có những biến động. Vấn đề là ở chỗ, các nhà hoạch định chính sách phải có nhãn quan sâu rộng về kinh tế quốc tế để có những quyết sách đúng đắn. Chúng ta khó có thể dự đoán được xu hướng dịch chuyển và vận động của luồng vốn đầu tư ngắn hạn, nhưng có thể dự đoán được trong đầu tư dài hạn. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại Thái Lan (1996 - 1997) là bài học nhãn tiền: khi nền kinh tế hấp thụ quá nhiều vốn đầu tư ngắn hạn, đến lúc luồng vốn này sút giảm quá nhanh, đã gây nên hậu quả nặng nề.
    - Ngân hàng Nhà nước cần phối kết hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường, cùng các bộ, ban, ngành có liên quan khác thiết lập các định chế tài chính - tín dụng với một cơ chế tài chính ưu đãi về thuế, lãi suất, để thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và hoạt động nghiên cứu khoa học. Tranh thủ các nguồn tài trợ của IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới), ADB (Ngân hàng phát triển châu Á) về phát triển khoa học, công nghệ và giáo dục. Với sự phát triển mới của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, hoạt động nghiên cứu, sẽ tạo nên sự thay đổi về chất trong tiến trình đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
    - Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng áp dụng hệ thống kế toán trong toàn bộ hoạt động theo các tiêu chí quốc tế để đánh giá được sát thực tiềm lực tài chính của hệ thống ngân hàng, có những quyết sách đúng đắn, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, giúp hệ thống ngân hàng thương mại có thể hội nhập với hoạt động tài chính quốc tế. Hiện tại, còn có độ chênh rất lớn trong xác định giá trị tài sản không sinh lời của hệ thống ngân hàng. Theo một số chuyên gia kinh tế, cách đánh giá nợ quá hạn của Ngân hàng Nhà nước theo tiêu chuẩn kế toán hiện hành của toàn hệ thống ngân hàng là 1 tỉ đô la. Còn theo tiêu chí kế toán quốc tế, con số đó có thể lên đến 3 - 4 tỉ đô la.
    - Ngân hàng Nhà nước cần tham mưu cho chính phủ thúc đẩy việc mở rộng thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt đối với tất cả các hoạt động kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng, giúp các doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trên phạm vi toàn xã hội. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chuyển tiền điện tử và thanh toán liên ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thị trường liên ngân hàng và thị trường mở nhằm khai thác tối đa nguồn vốn khả dụng, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng cao của nền kinh tế.
    2. Trên cấp độ vi mô.
    Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Thương mại phải đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế đất nước. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi, vốn hoạt động của Ngân hàng Thương mại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của Ngân hàng Thương mại như là một "cú huých" tạo đà cho nền kinh tế bước vào giai đoạn phát triển mới. Có những doanh nghiệp có vốn của ngân hàng thương mại chiếm tới 80% tổng nguồn vốn hoạt động, vì thế, ngân hàng thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình cải cách, sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước. Ngân hàng Thương mại phải tích cực hơn nữa trong việc xác định và giải thể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thúc đẩy, hỗ trợ mạnh mẽ các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nếu các năm 1995 - 1996, các ngân hàng thương mại đã thực hiện tốt vấn đề này thì sẽ không phải chịu hậu quả nặng nề của vụ án Epco - Minh Phụng với số tiền thất thoát 4 000 tỉ đồng. Vào thời điểm này, bằng số tiền đó, Ngân hàng Thương mại có thể tài trợ vốn để hình thành một số khu công nghiệp kỹ thuật cao.
    - Chính sách tín dụng của Ngân hàng Thương mại phải ưu tiên cho những ngành kinh tế mũi nhọn, những sản phẩm chiến lược có tính quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chính vì lẽ đó, Ngân hàng Thương mại phải chủ động tham gia xây dựng chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, cung cấp thông tin tư vấn cho doanh nghiệp tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nhằm giúp cho doanh nghiệp có phương án kinh doanh hữu hiệu nhất. Suy cho cùng, hoạt động kinh doanh có hiệu quả của doanh nghiệp sẽ đem lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
    - Ngân hàng Thương mại phải có chiến lược dài hạn về huy động vốn và sử dụng vốn, tăng tỉ trọng vốn trung, dài hạn trong hoạt động tín dụng. Để tạo nên sự vận hành đồng bộ trong quá trình phát triển kinh tế, song song với quá trình sắp xếp lại, cổ phần hóa của các doanh nghiệp đã và đang diễn ra, bản thân các ngân hàng thương mại cũng nên sắp xếp, hợp nhất lại thành những tập đoàn ngân hàng đủ mạnh, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
    Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn Đảng và toàn dân. Để đẩy nhanh tiến độ, phải kết hợp các nguồn lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Nâng cao vai trò của ngân hàng trong quá trình này cùng với sự kết hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác sẽ góp phần đáng kể cho công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay; tạo đà cho thắng lợi ở các giai đoạn tiếp theo.
  4. _matnaden_

    _matnaden_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2004
    Bài viết:
    308
    Đã được thích:
    0
    Hổng biết cái này hợp không
    http://www.mot.gov.vn/Ven/VBdetail.asp?id=817
  5. _matnaden_

    _matnaden_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2004
    Bài viết:
    308
    Đã được thích:
    0
    Xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam​

    Nguyễn Văn Tuyến
    Giảng viên Trường Đại học Luật Hà
    Nội

    Đối với bất cứ quốc gia nào con đường chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam cũng đều gặp phải vấn đề xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước vào quá trình kinh tế như thế nào cho hợp lý.
    Trong bài viết này, chúng tôi xin trao đổi một vài ý kiến xung quanh vấn đề xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với ba nội dung chủ yếu sau đây:
    1. Những nguyên tắc cơ bản nào cần tuân thủ khi xác định giới hạn hợp lý của sự can thiệp từ phía Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng?
    Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc xác định giới hạn can thiệp hợp lý từ phía Nhà nước đối với hoạt động giao dịch ngân hàng nói riêng trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại, chúng tôi cho rằng muốn xác định được ranh giới này cần phải quán triệt và tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau đây:
    Nguyên tắc thứ nhất: Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô và bằng các biện pháp vĩ mô đối với hoạt động kinh tế nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng; còn những hoạt động mang tính vi mô, vốn dĩ là công việc của các chủ thể kinh tế (ở đây ngụ ý các ngân hàng thương mại) thì để cho họ tự quyết định và tự chịu trách nhiệm, nhất là trách nhiệm kinh tế theo sự dẫn dắt của các quy luật thị trường.
    Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào hoạt động kinh tế, trong đó có hoạt động giao dịch của các ngân hàng, phải xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, có tính đến yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn đương đại. Mọi hành vi sao chép một cách máy móc các mô hình quản lý của nước ngoài mà không tính đến hoàn cảnh và điều kiện đặc thù của Việt Nam sẽ là không thích hợp và thậm chí còn có thể gây ra những hậu quả vô cùng bất lợi cho nền kinh tế và xã hội.
    Nguyên tắc thứ ba: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào kinh tế, trong đó có hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải nhằm thoả mãn các mục tiêu cơ bản về kinh tế, chính trị và xã hội theo định hướng XHCN như văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra (**********************, ?oVăn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX?, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001).
    Nguyên tắc thứ tư: Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng bằng nhiều công cụ và biện pháp khác nhau (chẳng hạn như công cụ pháp luật, các chính sách và hệ thống chương trình, kế hoạch định hướng?) nhưng các biện pháp và công cụ này không được gây cản trở cho quá trình tự do hoá thương mại quốc tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng mà Việt Nam đã tham gia hoặc cam kết sẽ tham gia, cũng như không cản trở quyền tự do kinh doanh của các chủ thể tham gia giao dịch thương mại ngân hàng.
    Nguyên tắc thứ năm: Tiêu chí xác định giới hạn hợp lý cho hành vi can thiệp của Nhà nước vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng là hậu quả của sự can thiệp đó phải là cho kinh tế tăng trưởng bền vững; hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và có hiệu quả; các chủ thể kinh tế thoả mãn được lợi ích của mình khi giao dịch với ngân hàng; nền kinh tế và đời sống xã hội không gặp phải các rắc rối và những biến động bất lợi; xu hướng hội nhập quốc tế không bị cản trở và ngày càng được thúc đẩy.
    2. Nhà nước cần sử dụng những phương thức can thiệp như thế nào đối với hoạt động giao dịch thương mại của ngân hàng để được xem là hợp lý?
    Xuất phát từ nền tảng tư tưởng là những nguyên tắc cơ bản nêu trên, chúng tôi cho rằng giới hạn can thiệp hợp lý của Nhà nước đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, có thể được xác định theo những nội dung (phương thức) cơ bản sau đây:
    Một là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng bằng việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý an toàn và hiệu quả cho việc xác lập và thực hiện các giao dịch thương mại của ngân hàng. Đây là phương thức can thiệp có tính phổ biến nhất, hiệu quả nhất và được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng bằng hệ thống pháp luật sẽ chỉ phát huy hiệu quả tích cực khi hệ thống pháp luật này tỏ ra đồng bộ, thống nhất, có tính khả thi và tính hiệu quả cao trong quá trình thực hiện. Để đảm bảo tính hiệu quả của phương thức can thiệp này, Nhà nước không những phải tiến hành cải cách hệ thống pháp luật một cách toàn diện, đồng bộ và đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, trong đó có hoạt động giao dịch thương mại của ngân hàng mà còn phải đề cao việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là cho các nhà kinh doanh. Chẳng hạn, Nhà nước cần thống nhất các quy định pháp luật về chủ thể giao dịch, pháp luật về hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch? nhằm tạo ra tính thống nhất và đồng bộ cho hệ thống pháp luật hiện hành, trên cơ sở đó tạo ra tính khả thi và hiệu quả cho hệ thống pháp luật trong quá trình điều chỉnh các giao dịch pháp lý trong hoạt động kinh tế nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, để thể hiện rõ giới hạn hợp lý của việc Nhà nước can thiệp bằng pháp luật đối với giao dịch thương mại của ngân hàng, Nhà nước cần quy định rõ những việc gì bị cấm thực hiện đối với chủ thể kinh tế là ngân hàng thương mại trong qúa trình giao dịch, đồng thời cũng quy định rõ những việc gì Chính phủ được phép làm hoặc phải làm vì nhu cầu bảo đảm lợi ích chung và trật tự công cộng. Sự phân định ranh giới giữa hành vi của Chính phủ với hành vi của các chủ thể kinh tế (ngân hàng thương mại) trong quá trình giao dịch thương mại với khách hàng cần phải được làm rõ và được thể hiện một cách minh bạch trong hệ thống pháp luật hiện hành.
    Hai là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng thông qua việc hoạch định và thực hiện các chương trình, kế hoạch định hướng có liên quan đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Đây là phương thức can thiệp thường được Chính phủ các nước phát triển sử dụng để điều tiết ở tầm vĩ mô đối với các hoạt động kinh tế, trong đó có hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Theo phương thức này, Chính phủ - với tư cách là nhà quản lý vĩ mô cần chú trọng đến việc xây dựng các chương trình, dự án có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng, chẳng hạn như chương trình, kế hoạch cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng tách các ngân hàng chính sách ra khỏi hệ thống ngân hàng thương mại. Mặt khác, Chính phủ có thể điều tiết gián tiếp đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng thông qua việc xây dựng và triển khai các dự án đầu tư tài chính, với sự tham gia tài trợ của các ngân hàng. Bằng cách này, Chính phủ không những giúp các ngân hàng có cơ hội tiếp cận với các dự án đầu tư lớn nhằm nâng cao năng lực quản trị, điều hành dự án đầu tư theo phương pháp tiên tiến và công nghệ ngân hàng hiện đại, mà còn tạo cơ hội cho các ngân hàng mở rộng thị phần của mình ở trong nước và quốc tế. Trên thực tế, đôi khi các ngân hàng gặp phải tình huống khó khăn là huy động vốn dễ dàng nhưng không thể cho vay được do sợ đối mặt với khách hàng có nhu cầu vay ít hoặc họ không thể vay được vì không thoả mãn các điều kiện tín dụng khắt khe của các ngân hàng đưa ra. Trong những trường hợp như vậy, việc Chính phủ tạo ra các dự án đầu tư tài chính mới để kêu gọi sự tham gia tài trợ của các doanh nghiệp trọng điểm; chương trình kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; chương trình kế hoạch xoá đói giảm nghèo cho các khu vực dân cư vùng sâu, vùng xa; chương trình xuất khẩu hàng hoá mà Việt Nam có thế mạnh? sẽ là giải pháp hỗ trợ hiệu quả nhất cho các ngân hàng trước những tình huống khó khăn do yếu tố thị trường đem lại.
    Ba là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách điều hành lãi suất tín dụng, chính sách thuế khoá, chính sách ngoại hối đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng? Về lý thuyết, mỗi loại chính sách nói trên có mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với quá trình giao dịch thương mại của các ngân hàng. Mặt khác, giữa các chính sách này cũng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong quá trình điều tiết hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế. Điều quan trọng nhất khi sử dụng các chính sách này để can thiệp hợp lý vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng là Chính phủ phải nhận biết được vai trò tác dụng và mức độ tác động của từng loại chính sách đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng để đưa ra các nội dung hợp lý trong từng loại hình chính sách đó. Trong nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh doanh ngân hàng bằng các chính sách kinh tế vĩ mô tỏ ra có nhiều hiệu quả hơn so với các biện pháp quản lý hành chính thuần tuý. Trong số các chính sách kinh tế này, chính sách tiền tệ quốc gia được coi là quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất đối với quá trình giao dịch thương mại của các ngân hàng. Việc Chính phủ tổ chức thực thi chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ truyền thống do Ngân hàng TW thực hiện như lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái, nghiệp vụ mua bán ngoại hối? có thể làm cho hoạt động giao dịch của các ngân hàng được mở rộng hơn hoặc thu hẹp lại, tuỳ theo ý muốn của Nhà nước trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền trong nước. Ngoài ra, chính sách thuế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các chi phí giá thành sản phẩm dịch vụ tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại, chẳng hạn như việc tăng, giảm thuế đối với các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ làm tăng hoặc giảm chi phí kinh doanh, từ đó mà ảnh hưởng đến số lượng khách hàng và số lượng, chất lượng các giao dịch sẽ được ngân hàng cung ứng. Thông qua đó Chính phủ tiến hành kiểm soát hữu hiệu hơn đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng trong nền kinh tế. (còn tiếp)
  6. _matnaden_

    _matnaden_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2004
    Bài viết:
    308
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo và hết)
    Bốn là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng trong nền kinh tế thông qua việc thành lập và trực tiếp điều hành các ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong thời đại ngày nay, người ta thừa nhận việc Nhà nước đứng ra thành lập các tổ chức kinh tế bằng nguồn vốn của mình để những tổ chức này trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh, như là một phương thức thực hiện vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng bằng cách thành lập và củng cố hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước được được coi là một hình thức can thiệp hợp lý và hiệu quả. Tuy nhiên, tính hợp lý và hiệu quả cuả hình thức can thiệp này đến đâu còn phụ thuộc vào chính sách đối xử của Nhà nước như thế nào đối với ngân hàng thương mại Nhà nước, so với các loại hình tổ chức tín dụng phi Nhà nước. Về nguyên tắc, chúng ta có thể chấp nhận việc Nhà nước đầu tư nhiều vốn hơn cho các ngân hàng thương mại Nhà nước hoặc củng cố năng lực hoạt động của các ngân hàng này bằng chính sách quản trị, điều hành năng động, có hiệu quả trên cơ sở đổi mới công nghệ ngân hàng. Song, trong thời đại ngày nay với yêu cầu xây dựng một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thì Nhà nước không thể vì mục đích tạo vai trò chủ đạo cho các ngân hàng thương mại Nhà nước mà thực hiện chính sách phân biệt đối xử giữa ngân hàng thươngmại Nhà nước với các tổ chức tín dụng phi Nhà nước, nhằm tạo ra các lợi thế hơn cho ngân hàng thương mại Nhà nước trong quá trình thực hiện các giao dịch ngân hàng. Có thể nói, ngày nay nhu cầu tự do kinh doanh và nhu cầu được đối xử bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong quá trình giao dịch đã trở thành một thuộc tính tự nhiên của bất kỳ nền kinh tế nào vận hành theo cơ chế thị trường, kể cả đối với nền kinh tế thị trường ở đó có sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động vi mô cua các doanh nghiệp Nhà nước trong đó có ngân hàng thương mại Nhà nước, chỉ nên dừng lại ở mức như là sự đối xử hợp lý của chủ doanh nghiệp đầu tư vốn với doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư. Mọi hành động làm thay của Nhà nước cho doanh nghiệp Nhà nước (ở đây được hiểu là ngân hàng thương mại Nhà nước) trong quá trình giao dịch với khách hàng sẽ không còn thích hợp với yêu cầu tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường. như một lẽ tự nhiên và công bằng, Nhà nước nên thể hiện sự can thiệp của mình vào hoạt động kinh doanh ngân hàng bằng việc không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của chính các ngân hàng thương mại Nhà nước trong môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng. Phương thức can thiệp này không chỉ đem lại nguồn thu nhập cho Nhà nước từ việc đầu tư vào hoạt động kinh tế của xã hội mà quan trọng hơn, nó còn là giải pháp điều tiết hợp lý và rất hiệu quả đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng nói chung trong nền kinh tế thị trường. Sự vững mạnh dần lên của các ngân hàng thương mại Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian gần đây (ví dụ điển hình là sự kiện xếp hạng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nằm trong số 10 ngân hàng có chất lượng cao trong khu vực) theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng tốt đến việc nâng cao chất lượng và số lượng giao dịch thương mại nói chung của các ngân hàng trong toàn hệ thống tín dụng. Điều này cho thấy, muốn thúc đẩy nhanh chóng và có hiệu quả quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước nhà trong giai đoạn hiện nay thì nhất thiết phải coi việc cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam là khâu quan trọng tâm và then chốt. Tuy nhiên, muốn cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam một cách căn bản, toàn diện và hợp lý thì phải bắt đầu từ việc cải cách hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, trong đó việc cải cách các ngân hàng thương mại Nhà nước phải được coi là khâu đột phá. Về vấn đề này, G.S Harutoshi Kagoshima, Đại học Chuo, trong bài nghiên cứu cho Dự án ?ochương trình trợ giúp cải cách các chính sách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam ? đã nhận định: ?oCải cách hệ thống tài chính ở Việt Nam liên quan mật thiết đến chủ đề trọng tâm của cải cách kinh tế - cải cách các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước? và ?otrong tương lai, nền kinh tế Việt Nam tuỳ thuộc vào sự thành công của cải cách các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước? (Tập thể tác giả, ?oĐổi mới chính sách tài chính tiền tệ và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam?).
    3. Mức độ can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch thương mại của các ngân hàng như thế nào là hợp lý?
    Trong lịch sử phát triển của hoạt động ngân hàng trên thế giới, đã từng có giai đoạn Nhà nước can thiệp rất sâu vào hoạt động ngân hàng thông qua những quy định có tính chất cấm đoán của Nhà nước (Lê Vinh Danh, Tiền và hoạt động ngân hàng). Tuy nhiên, trải qua thời gian dưới sự ảnh hưởng sâu sắc của các học thuyết kinh tế, vai trò và mức độ can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động giao dịch ngân hàng cũng liên tục thay đổi, có khi giảm, có lúc tăng. như một tất yếu lịch sử, xu hướng chung hiện nay trên thế giới là Nhà nước tìm cách giảm dần sự can thiệp trực tiếp của mình vào hoạt đọng kinh tế bằng công cụ hành chính và thay vào đó là việc sử dụng nhiều hơn các công cụ kiểm soát gián tiếp, chẳng hạn như các chương trình, kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế vĩ mô?
    Ở nước ta, do nhận thức rõ đây là xu hướng tất yếu và tính quy luật, tính phổ biến đối với mọi quốc gia lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện từng bước việc hạn chế dần sự can thiệp của Nhà nước đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng với một lộ trình thích hợp cho đến khi đạt tới mức độ hợp lý cần thiết. Theo lộ trình này, trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi kinh tế, Nhà nước có thể tiếp tục duy trì sự can thiệp mang tính chất bảo hộ cho nền kinh tế và các ngân hàng trong nước, chẳng hạn như việc quy định lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại ấn định lãi xuất cụ thể đối với khách hàng; cho phép Chính phủ được quyền chỉ định một số ngân hàng thương mại Nhà nước phải cho vay không có bảo đảm đối với một số khách hàng thuộc diện chính sách ưu đãi của Nhà nước, trên cơ sở cam kết của Chính phủ về việc xử lý rủi ro tín dụng; hạn chế có kiểm soát sự tham gia của các ngân hàng trong nước. Đến giai đoạn sau, khi nền kinh tế thị trường đã hình thành rõ nét và được vận hành ổn định thì sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng sẽ tiếp tục được hạn chế, theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh và tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho các ngân hàng thương mại thuộc mọi hình thức sở hữu, đồng thời tuân thủ triệt để các cam kết quốc tế trong tiến trình hội nhập quốc tế về ngân hàng. Việc tiếp tục giảm dần sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng trong huy động vốn và cho vay; tách bạch rõ ràng giữa tín dụng vì mục tiêu thương mại và chuyển nghĩa vụ cho vay theo chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại Nhà nước bằng cách trao nghĩa vụ đó cho các ngân hàng chính sách mới được thành lập bởi Chính phủ; đối xử công bằng, bình đẳng giữa các ngân hàng chính sách mới được thành lập bởi Chính phủ; đối xử công bằng, bình đẳng giữa các ngân hàng trong nước và nước ngoài trên cơ sở cho phép rộng rãi các ngân hàng nước ngoài được thực hiện những hoạt động dịch vụ tài chính - ngân hàng trên lãnh thể Việt Nam theo lộ trình hội nhập cam kết trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương; khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng thương mại Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài bằng chính sách thuế và chính sách ngoại hối hợp lý?.
    Tuy nhiên, theo nhận thức của chúng tôi, những vấn đề nêu trên chỉ là sự phản ánh cụ thể của quấ trình điều chỉnh vai trò, chức năng kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng như thế nào là hợp lý, thực chất lại nằm ở vấn đề phân chia trách nhiệm hợp lý giữa Chính Phủ và chủ thể kinh tế là ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực (khía cạnh) liên quan đến giao dịch thương mại của ngân hàng, chẳng hạn như khía cạnh lãi suất; giới hạn quyền lựa chọn khách hàng để giao dịch; các biện pháp bảo đảm an toàn cho giao dịch; các biện pháp bảo đảm an toàn cho giao dịch? Xuất phát từ nhận thức như vậy, chúng tôi cho rằng sự phân chia trách nhiệm hợp lý giữa Chính phủ và các doanh nghiệp ngân hàng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, bao gồm hai nội dung cơ bản sau đây:
    - Với tư cách là chủ thể quản lý, Chính phủ có trách nhiệm xây dựng môi trường thuận lợi, đầy đủ và an toàn nhất cho việc xác lập và thực hiện các giao dịch thương mại của ngân hàng. Khái niệm môi trường ở đây được hiểu bao gồm các thành tố cơ bản như môi trường pháp lý, môi trường chính trị và an ninh xã hội, môi trường khoa học và công nghệ? trong đó, môi trường pháp lý có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến số phận pháp lý và số phận thực tế của các giao dịch thương mại của ngân hàng. Mặt khác, do hoạt động giao dịch thương mại của các ngân hàng vốn là lĩnh vực kinh doanh có tính đặc thù nên vai trò kiểm soát, quản lý của Chính phủ trong lĩnh vực này cũng cần phải được thực hệin theo những phương thức đặc thù. Theo phương thức này, Chính phủ sẽ và chỉ nên thực hiện vai trò kiểm soát hoạt động giao dịch của các ngân hàng chủ yếu thông qua cơ quan đặc biệt do mình thành lập là Ngân hàng TW (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), bằng việc thực hiện các chức năng của cơ quan đặc biệt này.
    - Với tư cách là chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp ngân hàng có quyền quyết định tối cao trong quá trình giao dịch với khách hàng và tự chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch. Trách nhiệm này bao gồm các quyền năng chủ yếu như tự do lựa chọn lĩnh vực và đối tượng giao dịch; tự do lựa chọn khách hàng giao dịch, tự do quyết định giá cả của giao dịch và tự do lựa chọn phương thức giải quyết các tranh chấp cho mình phát sinh từ giao dịch. Nói khác đi, việc xác định trách nhiệm hợp lý của các doanh nghiệp ngân hàng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam trong quá trình giao dịch thương mại - xét trong mốt tương quan với trách nhiệm của Chính phủ, thực chất là xác định nội hàm của quyền tự do kinh doanh của ngân hàng thương mại với tư cách là một chủ thể kinh tế.
    Việc xác định chính xác nội hàm của quyền tự do kinh doanh của các ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nhận thức đúng đắn về bản chất pháp lý của các giao dịch thương mại của ngân hàng nói chung và các giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng nói riêng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

    Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2003
  7. trinhcong

    trinhcong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/03/2004
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    cám ơn anh nhiều lắm, ko có anh chắc chết wá
  8. mua_la_vang

    mua_la_vang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/04/2004
    Bài viết:
    982
    Đã được thích:
    0
    Không có gì đâu em ạ, nhưng nhớ nhìn sang trái nhớ mặt anh cho kĩ nhe, lỡ ra đường đụng nhau thì nhớ nương tay cho anh nhé

Chia sẻ trang này