1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

D:-)D GROUP 3+: Ký sự ngóng chờ bão tan trên BẠCH LONG VĨ (6 -9/8/08) Mừng quốc khánh LÝ SƠN - Quảng

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi thichsoluon, 07/05/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vecchia_signo

    vecchia_signo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2004
    Bài viết:
    1.854
    Đã được thích:
    0
    Ôi thôi bác Hoàng lại thịt mất vụ này dịp 2/9 của em rồi. Hic hic bác phụ trách vụ đi Quảng Nam - Lý Sơn - Đặng Thùy Trâm cơ mừ
  2. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP 3+ NEWS Cont.:
    QUẢNG TRỊ VÙNG ĐẤT HÀO HÙNG
    Hiếm có nơi nào trên đất nước ta hiện nay còn lưu giữ nhiều di tích, chứng tích lịch sử về chiến tranh cách mạng như ở vùng đất Quảng Trị. Ông Giôn Smít, một cựu chiến binh người Mỹ, khi đi tham quan, du lịch chiến trường xưa ở Quảng Trị đã phải thốt lên:
    - Nơi đây dày đặc các di tích lịch sử, truyền thống về chiến tranh để người ta say mê nghiên cứu và tìm hiểu. Vùng đất này là một bảo tàng phong phú và sinh động nhất về chiến tranh mà mỗi người đều có thể tìm ra trong đó những giá trị lịch sử, văn hóa đích thực...
    Quả vậy, du khách nếu đến vùng đất Quảng Trị mới được thấy rằng các di tích lịch sử hào hùng về chiến tranh là một sản phẩm du lịch độc đáo nhất của tỉnh. Toàn tỉnh có tới 498 di tích lịch sử, trong đó có 50 di tích được xếp hạng. Các di tích lịch sử này phong phú về số lượng đa dạng về loại hình, có tầm cỡ về giá trị nội dung hình thức... Đặc biệt nổi tiếng là các di tích như: cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, địa đạo Vĩnh Mốc, Cửa Tùng, Cửa Việt, đảo Cồn Cỏ, căn cứ Dốc Miếu Đông Hà, Đường 9 - Khe Sanh, sân bay Tà Cơn, hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra, thành cổ Quảng Trị, đường mòn Hồ Chí Minh...
    Có thể nói bất cứ du khách nào vào thăm Quảng Trị trước hết cũng đều muốn tới dòng sông Bến Hải và cầu Hiền Lương thuộc vĩ tuyến 17 để chiêm nghiệm về một vùng đất đã là giới tuyến của hai miền Bắc-Nam trong suốt 20 năm liền. Khu di tích cầu Hiền Lương đã được tôn tạo, giữ lại nguyên vẹn như một chứng tích lịch sử của nước ta. Cây cầu này nằm cách Đông Hà 19km về phía bắc, được công binh Pháp xây dựng năm 1950. Năm 1967 máy bay Mỹ đã liên tục oanh tạc, ném bom phá hoại cầu Hiền Lương, đến năm 1973 cây cầu đã được sửa chữa khôi phục lại.
    Giờ đây, đứng bên cầu Hiền Lương, ngắm nhìn dòng sông Bến Hải trong xanh, thấp thoáng những chiếc thuyền đánh cá, nghe câu hò Quảng Trị ngọt ngào, du khách bỗng thấy lòng dào dạt liên tưởng tới sự khốc liệt, hào hùng của quá khứ và một tương lai tươi đẹp đang hiện diện trên vùng đất này. Ở Hiền Lương có các cụm di tích lịch sử nổi tiếng như: nhà Liên Hiệp, đồn công an giới tuyến, hệ thống lô cốt của Mỹ Diệm ở bờ nam Bến Hải, tượng đài khát vọng thống nhất đất nước, nhà bảo tàng...
    Qua cầu Hiền Lương gần 20km, du khách sẽ được tới thăm một công trình địa đạo thần kỳ của thế kỷ 20 là địa đạo Vịnh Mốc. Đây là di tích lịch sử hấp dẫn về chiến tranh cách mạng, nơi cán bộ, bộ đội và nhân dân đã sinh sống và hoạt động chiến đấu ngay dưới lòng đất để đánh thắng kẻ thù. Địa đạo Vịnh Mốc dài 2.034m, sâu trên dưới 25m, cao từ 1,5m đến 1,8m, rộng từ 1m đến 2m, thông ra ngoài trời bằng 13 cửa. Dọc theo toàn tuyến địa đạo, cứ khoảng từ 3m đến 5m, lại có một khu vực rộng rãi được đào sâu vào như chiếc hang lớn làm ô nhà ở, cứu chữa thương binh, nơi chiếu phim, hội họp, xem văn nghệ và gia đình dân cư sống theo đơn vị sản xuất và chiến đấu.
    Những di tích chiến tranh đã chứng kiến những trận đánh anh hùng, sự hy sinh to lớn của quân và dân ta ở Quảng Trị đều rất nổi tiếng với trong nước và quốc tế. Đó là về 81 ngày đêm máu lửa ở Thành cổ Quảng Trị, trận tiêu diệt căn cứ Cồn Tiên Dốc Miếu, chiến công của đặc công nước ở Cửa Tùng, Cửa Việt, đảo Cồn Cỏ anh hùng, chiến thắng Khe Sanh, Làng Vây, Đường 9... Đặc biệt di tích lịch sử nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn ở huyện Gio Linh, nơi an nghỉ của 10 vạn liệt sĩ trên cả nước... luôn làm du khách xúc động, tự hào.
    Đến Quảng Trị có một di tích lịch sử chiến tranh độc đáo hấp dẫn du khách, đó là hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra, nơi Mỹ-ngụy đã bỏ nhiều tiền của, kỹ thuật hiện đại và công sức nhằm ngăn chặn quân và dân ta Nam tiến, nhưng đã bị thất bại nặng nề. Hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra và ?ophòng tuyến ngăn chặn *********? của Mỹ-ngụy có chiều dài hơn 10km kéo dài từ Nam vĩ tuyến 17 đến cuối Đường 9. Ngoài hệ thống hàng rào điện tử ?ocon mắt thần?, còn có hệ thống kẽm gai dày đặc, bãi mìn, hào sâu cắm chông sắt, hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ 2km có một tháp canh, 4km có một căn cứ... Hiện nay toàn bộ di tích phòng tuyến ngăn chặn và hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra đang được tu bổ, hoàn thiện... rất cuốn hút du khách đến xem.
    Quảng Trị vùng đất là giới tuyến, vùng đất máu lửa của chiến tranh xưa kia, nay đang thay da đổi thịt trong cuộc sống mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên một mảng của đời sống về lịch sử truyền thống, các di tích chiến tranh cách mạng luôn luôn được người dân trong tỉnh và du khách trong và ngoài nước nâng niu, trân trọng, cảm phục.

    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 22:14 ngày 11/08/2007
  3. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP 3+ NEWS (cont.):
    Sáng nay bác Cuu_van, D&D Member miền Trung của D&D gọi điện than phiền lâu đến cuối tuần quá. Bác đang mong ngóng mọi người vào đó để bày tỏ tấm lòng của người miền Trung đón tiếp và hướng dẫn tận tình chu đáo D&Ders. Chuyến D&D Cồn Cỏ lần này có bác Cuu_van đưa đường chỉ lối thì tuyệt vời rồi.
    Mọi người vỗ tay hoan hô cổ vũ bác Cuu_van nhé
    Tiếp theo là thông tin về Điểm Đến D&D Cồn Cỏ:
    Làng hầm Vịnh Mốc

    ?oĐịa đạo Vịnh Mốc giống như một tòa lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất dấu kín biết bao điều kỳ lạ của con người đã làm ra nó và của thời đại mà nó được sinh ra?. Đó là lời giới thiệu sang trọng về Làng Hầm Vịnh Mốc đối du khách bốn phương trước khi bước xuống cửa địa đạo huyền thoại này.
    Đã có hàng triệu du khách trong và ngoài nước đến thăm quan di tích nổi tiếng: Địa đạo Vịnh Mốc. Nhưng có lẽ không ít người chưa hiểu rõ sự tích của Làng Hầm lịch sử có một không hai này. Một trong những kỳ tích vĩ đại nhất của người Vĩnh Linh trong chống Mỹ cứu nước là chuyển toàn bộ cuộc sống trên mặt đất xuống lòng đất để bám trụ chiến đấu và chiến thắng.
    Ở Vĩnh Linh có tới trên 60 địa đạo lớn nhỏ như địa đạo Tân Mỹ, Địa đạo Mụ Giai, địa đạo Tân Lý... Trong đó Địa đạo Vịnh Mốc là làng hầm vững chắc nhất, tồn tại cho đến tận hôm nay và đã thành một điểm du lịch nổi tiếng thế giới!
    Vịnh Mốc là tên của một làng chài ở xã Vĩnh Thạch, Vĩnh Linh. Cái tên Vịnh Mốc xuất xứ từ chuyện ngày xưa giữa hai thôn Vĩnh Ân và Thừa Luật có chôn một cột mốc để phân định ranh giới. Phía Bắc lại có một cái vịnh biển dưới mũi Lài. Nên làng biển nằm giữa hai thôn có tên gọi là Vịnh Mốc.
    Địa đạo ở Vĩnh Linh được khởi đào từ năm 1963, khi giặc Mỹ chưa đánh phá miền Bắc. Theo nhiều lão thành cách mạng kể lại, thì cuối năm 1963, trên đường từ Trung Ương Cục miền Nam ra Bắc công tác, đồng chí Trần Nam Trung đã ghé thăm Vĩnh Linh. Đồng chí đã giới thiệu kiểu đào địa đạo chiến đấu của quân dân Củ Chi, đông - bắc Sài Gòn, đánh địch rất có hiệu quả. Từ đó Đảng Ủy Khu vực Vĩnh Linh đã chỉ đạo các xã đào địa đạo theo kiểu Củ Chi.
    Ở xã Vĩnh Giang có địa đạo Tân Trại Hạ dài 50 mét, thôn Tùng Luật đào địa đạo dài 300 mét. Ngày đó địa đạo được đào rất đơn giản thô sơ, giống như một cái hầm trú ẩn nối dài, chưa thành làng hầm được. Từ khi giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, Vĩnh Linh trở thành chiến trường ác liệt nhất. Bọn giặc dùng máy bay, kể cả máy bay B52, hàng trăm khẩu pháo cỡ 46- 105 ly ở Cồn Tiên - Dốc Miếu và các hạm tàu ngoài khơi ngày đêm điên cuồng trút bom đạn xuống từng tấc đất Vĩnh Linh. Chỉ riêng thôn Vịnh Mốc, diện tích chưa đầy 1 km2 với 300 dân, 82 nóc nhà, mà phải hứng chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ của 1003 trận oanh kích, rải thảm. Ngày 27- 11- 1964, tàu chiến Mỹ từ hạm dội 7 đã bắn đại bác thiêu rụi một lúc 72 ngôi nhà, làm hàng trăm người Vịnh Mốc chết và bị thương. Đến tháng 6 - 1966, thôn Vịnh Mốc bị máy bay Mỹ dội bom hủy diệt. Nhưng người Vịnh Mốc vẫn kiên cường bám trụ chiến đấu. Vịnh Mốc trở thành một trong hai địa điểm chính tập kết sức người, sức của cho đảo Cồn Cỏ cách mũi Lài 30 km và cũng là nơi triển khai trận địa pháo tầm xa 85 ly, 136 ly chi viện đảo.
    Để chống lại giặc Mỹ, người Vinh Linh chỉ còn cách dựa vào đất mà sống và chiến đấu. Cuối năm 1966, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đồn Công an Vịnh Mốc và chi bộ thôn Vịnh Mốc, một tổ xung kích gồm 4 đồng chí đã bổ những nhát cuốc đầu tiên đi vào lòng đất. Sau đó toàn bộ quân và dân Vịnh Mốc thay phiên nhau đào bới. Sau 3 tháng chỉ bằng cuốc thuổng và trí thông minh, vừa đánh giặc vừa đào địa đạo, làng Vịnh Mốc đã huy động 18.000 ngày công, đào đắp 6.000 m3 đất đá, tạo nên trong lòng quả đồi đất đỏ bazan một hệ thống đường hầm địa đạo chằng chịt với rất nhiều cửa ra vào từ tất cả các hướng. 4 đội đào 4 nhánh, hợp lại thành một hệ thống thông suốt gọi là Làng hầm. Bao quanh địa đạo có 8.200 mét giao thông hào chiến đấu. Thật ra để hoàn chỉnh địa đạo Vịnh Mốc, phải mất 3 năm đào (1968) với khối lượng đất đá lên tới 3,76 triệu mét khối!
    Để đào sâu xuống lòng đất, người Vịnh Mốc đã có sáng kiến đào những cái giếng như giếng nước, đến độ sâu quy định thì đào xuyên vào lòng đất. Mỗi tổ đào đường hầm có 20 người, nhưng mỗi kíp đào chỉ có 2 người. Người đào, người chuyển đất ra miệng giếng để người ở trên quay tời kéo lên. Chuyển đất mới lên mặt đất phải đổ thật xa và ngụy trang kín đáo để địch không phát hiện ra. Thời gian đầu ngành Thương nghiệp cung cấp 5 - 7 đôi pin để soi sáng, sau đó pin cũng không còn, nên phải đào bằng đèn dầu hỏa, đất đèn, mỡ lợn để thắp sáng.
    Làng hầm Vịnh Mốc nằm ở độ sâu 20- 28 mét dưới lòng đất. Tổng chiều dài hệ thống đường hầm là 2.034 mét. Trục đường chính dài 768, cao 1,5- 1,8 mét cho người đi lại thoải mái, rộng từ 1- 1,2 mét. Từ trục chính tỏa ra 13 nhanh thông với 13 cửa gồm 7 cửa ra biển và 6 cửa trên đồi đi xuống. Cả làm có 3 trạm cảnh giới. Các ống thông hơi đều bí mật. Tại các cửa đều có khung gỗ chống đổ. Làng hầm không bao giờ ngập nước vì các cửa đều dốc ra ngoài! Hai bên trục đường cứ cách khoảng 3- 5 mét khoét sâu vào thành từng căn nhỏ, đủ cho một hộ sinh sống.
    Làng hầm có 3 tầng: Tầng 1 có độ sâu 10 mét là nơi sinh sống của nhân dân; tầng 2 có độ sâu 20 mét là trụ sở Đảng ủy, Ủy ban và chỉ huy quân sự. Tầng 3 có độ sâu 20- 28 mét là kho hậu cần với hàng ngàn tấn hàng hóa, súng đạn để tiếp tế cho Cồn Cỏ, cho miền Nam và phục vụ chiến đấu tại địa đạo. Theo bà con Vịnh Mốc kể, thì ông Lê Xuân Vy là người có sáng kiến dùng ống dẫn dầu dựng đứng thông từ mặt đất xuống để chuyển gạo xuống địa đạo, vì vác từng bao gạo xuống hầm sâu là rất khó khăn. Khi gạo đầy ở tầng một thì mở van cho gạo xuống tầng hai, tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức.
    Trong làng hầm có 3 giếng nước, một bệnh xá, một nhà hộ sinh, nhiều lỗ thông hơi và một hội trường có sức chứa 50 người... Đàng hoàng nhất là gian hầm bệnh xá và nhà hộ sinh. Đó là 2 vách hầm lớn, tường và trần được lót vải dù trắng, có giường, có bàn bàn tủ thuốc cấp cứu. Trong nhà hộ sinh này đã có 60 đứa trẻ sinh ra! Đó là một kỳ công, một chứng tích của sự sống Vĩnh Linh bất diệt!
    Làng địa đạo Vịnh Mốc - Một toà lâu đài cổ trong lòng đất Quảng Trị. Vịnh Mốc (thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) là một làng chài khiêm nhường có gần 100 nóc nhà nằm trên bờ biển phía đông nam thị trấn Hồ Xá chừng 13km, cách bãi tắm Cửa Tùng 7km về phía Bắc, cách đảo Cồn Cỏ anh hùng 30km về phía Tây.
    Vào năm 1965, trước sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ vào Vĩnh Linh, cũng như hầu hết các làng quê khác, Vịnh Mốc đã bị huỷ diệt hoàn toàn. Trước quyết tâm bám trụ quê hương, chi viện chi miền Nam, việc tổ chức phòng tránh cho con người đặt ra hết sức cấp thiết. Với ý chí "một tấc không đi, một li không rời", quân và dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất, họ đã kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo mà địa đạo Vịnh Mốc là đại diện tiêu biểu nhất.
    Cuối năm 1965, các chiến sĩ đồn biên phòng 140, nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã chọn quả đồi sát mép biển, nằm ở phía Nam làng Vịnh Mốc, bổ nhát cuốc đầu tiên khai sinh ra làng hầm Vịnh Mốc kỳ vĩ này.
    Toàn bộ địa đạo được đào trong lòng quả đồi đất đỏ có độ cao chừng 30m, rộng hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước khoảng 0,9m x 1,75m với độ dài 2.034m bao gồm nhiều nhánh nối thông với nhau qua trục chính dài 780m, có 13 cửa ra vào, được chống đỡ bằng cột nhà, gỗ và nguỵ trang khá kín đáo, tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo chức năng thông hơi cho đường hầm.
    Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 cách mặt đất 8 - 10 mét dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời, tầng 2 sâu 12 - 15 mét là nơi sống và sinh hoạt của dân làng, tầng 3 có độ sâu hơn 30 mét là nơi trung chuyển hàng hoá, vũ khí ra thuyền lên đảo Cồn Cỏ.
    Để đảm bảo cho hàng trăm con người ăn, ở, sinh hoạt an toàn, tiện lợi, dọc hai bên đường hầm người ta khoét vào rất nhiều căn hộ, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 - 4 người ở. Ngoài ra trong đường hầm còn có hội trường (sức chứa hơn 50 người dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm phẫu thuật, trạm gác, máy điện thoại? đặc biệt có nhà hộ sinh, nơi ra đời của 17 đứa trẻ suốt trong hai năm 1967 - 1978.
    Việc tổ chức phòng tránh, bảo vệ địa đạo rất phức tạp, đòi hỏi tính tổ chức, tự giác cao, bởi lẽ không chỉ đạn bom trút xuống mà còn người nhái, gián điệp tìm cách xâm nhập. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại (từ 1965 - 1972), việc 17 đứa trẻ ra đời an toàn không một người nào bị thương đã nói lên sự lựa chọn đúng đắn, là sự tích kỳ diệu về mảnh đất và con người nơi đây.
    Hơn thế nữa, vượt qua hoàn cảnh, họ không chỉ tồn tại mà còn tổ chức hàng trăm chuyến thuyền nan tiếp vận cho đảo Cồn Cỏ. Đảo Cồn Cỏ đứng vững và được Nhà nước tuyên dương anh hùng hai lần trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân làng hầm Vịnh Mốc.
    Đây thực sự là một công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh Mốc và lực lượng vũ trang. Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn và luôn bị địch rình rập, đánh phá, quân dân Vịnh Mốc - Vĩnh Thạch đã đồng lòng góp sức, tổ chức khoa học hợp lý hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ.
    Với hơn 18.000 ngày công, đào và vận chuyển ra khỏi lòng đất hơn 6.000m3 đất đá, mỗi mét đường hầm thực sự là kết tinh tình cảm, trí tuệ, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân. Từ cụ già chế tác dụng cụ đến nồi nước chè xanh, bữa cơm đạm bạc của các mẹ, các chị và sức lực cường tráng của các chàng trai. Làng hầm ra đời đã tạc vào lịch sử của quân dân Vĩnh Linh, Quảng Trị một nét son rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
    Chiến tranh đã lùi xa, còn đó một làng hầm huyền thoại ngày ngày truyền lại niềm tin, ý chí cho thế hệ hôm nay và mai sau về sức mạnh nội lực của dân tộc VN. Từ đây, tất thảy bạn bè và những người từng là "kẻ thù" đều phải thừa nhận sự thần kỳ của một đất nước, một dân tộc mà sự tồn tại và chiến thắng của nó là tất yếu. Có rất nhiều dòng cảm xúc về làng hầm này, tất cả đều công nhận "Làng địa đạo Vịnh Mốc giống như một toà lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất giấu kín biết bao điều kỳ lạ về những con người đã làm ra nó và thời đại nó đã sinh ra".
    Địa đạo Vịnh Mốc là hình ảnh thu nhỏ của một làng quê Việt Nam được xây dựng và kiến tạo dưới lòng đất. Dân làng Vịnh Mốc đã sống 2000 ngày đêm dưới Làng Hầm. Ban ngày họ chuẩn bị mọi thứ, để ban đêm lên mặt đất trồng khoai, vận tải hàng, ra biển đánh cá, ra biển vận tải hàng cho đảo Cồn Cỏ, ra bến đò A chi viện cho miền Nam. Và người Vịnh Mốc đã tồn tại và chiến thắng!
    Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Bộ Văn hoá - Thông tin đã quyết định công nhận địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào danh mục di tích đặc biệt quan trọng. Hiện nay, địa đạo Vịnh Mốc là điểm thu hút mọi du khách đông nhất trong tuyến du lịch nổi tiếng và độc đáo.

    Cửa Tùng - Nữ hoàng của các bãi tắm
    Cửa Tùng là một bãi biển đẹp tuyệt vời ở Quảng Trị, từng được các nhà du lịch quốc tế mệnh danh là ?onữ hoàng của các bãi tắm?.Từ cầu Hiền Lương, chiếc cầu nối đôi bờ Vĩnh Linh và Gio Linh, đi khoảng 10 km về phía Ðông Bắc, người ta có thể nhìn thấy bãi biển xinh đẹp này. Nó là một điểm nhấn đẹp đẽ và nên thơ trong cả một vùng cửa biển.
    Những điều chỉ có ở Cửa Tùng
    Nằm phía Bắc cửa biển, bãi tắm là một bãi cát thon dài nằm phơi mình dưới làn nước trong xanh. Ðây là một bãi tắm êm đềm vì nó được bao bọc kỹ lưỡng bởi bà mẹ thiên nhiên. Hai bãi đá ngầm ăn sâu ra biển từ hai phía là Mũi Si và Mũi Lai đã tạo nên một cái vịnh nhỏ kín đáo và không có các dòng hải lưu cuốn xoáy.
    Nếu như đứng trên mỏm đồi đất đỏ ăn ra phía biển mà nhìn xuống Cửa Tùng, người ta có thể thấy một quang cảnh tuyệt đẹp trải ra trước mắt. Một người Pháp khá am tường về xứ Quảng Trị xưa là ông A. Laborde đã từng mô tả về Cửa Tùng như một bãi biển đẹp nhất trong ký ức của mình. Ông viết: ?oCửa Tùng có cái sắc thái đặc biệt là nó được cấu tạo bởi một dải nguyên xanh tươi với độ cao 20m dựng xiên thành bờ dốc trên một bãi biển có độ dốc thoai thoải và nhẹ nhàng...?.
    Một nét đặc biệt của Cửa Tùng chính là độ thoai thoải của bãi tắm. Bạn đi từ bờ ra phía ngoài khơi, lao mình vào vòng tay của biển. Và có thể đi mãi như vậy đến nửa cây số mà nước mới chỉ đến ngang ngực. Một sự thú vị tuyệt vời. Nơi đây có nhiều hải sản quý và ngon có tiếng như mực nang, tôm he, tôm hùm, cá chim, cá thu, cá nụ và cá đé với cách chế biến món ăn rất đặc biệt của người dân địa phương.
    Gắn với những kỳ tích và lịch sử
    Du khách có thể lang thang trong vùng biển này để tìm đến với làng biển Cát Sơn hàng trăm năm nay đã nổi tiếng với những nghề như đánh cá, bịt trống, mộc và khảm xà cừ.
    Bạn cũng có thể tìm ra ở đây ngôi nhà nghỉ mát của vua Duy Tân từ 1896. Ngoài ra, còn có các nhà nghỉ mát cũ rải rác đó đây vốn xưa là nhà nghỉ của các cố đạo và tu sĩ. Tại Cửa Tùng, người Pháp cũng đã từng đặt các đồn binh, sở bưu điện và sở thương chánh phục vụ khách du lịch và các cơ quan này chuyên phục vụ khách du lịch đã tồn tại đến trước năm 1945.
    Tuy nhiên, những dấu ấn lịch sử không chỉ có vậy. Cửa Tùng là tâm điểm của đường phân chia giới tuyến quân sự: Vĩ tuyến 17 nổi tiếng với nhiều đau thương và mất mát. Và đằng xa, cách bờ biển hơn 30km chính là đảo Cồn Cỏ anh hùng, hiện nay đang được xây dựng thành cảng cá lớn của Quảng Trị. Cách Cửa Tùng không xa là một loạt di tích lịch sử quan trọng như Ðịa Ðạo Vịnh Mốc, Cồn Tiên Dốc Miếu, Cầu Hiền Lương lịch sử... Những di tích nói lên sức mạnh không gì ngăn nổi của một thời kháng chiến anh hùng của quân và dân ta. Những di tích này càng làm cho Cửa Tùng trở thành cụm du lịch sôi động, thu hút du khách.

    To be cont...
    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 10:25 ngày 13/08/2007
  4. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP NEWS: (Cont.)
    D&D Cồn Cỏ: bà con lưu ý đây là điểm đi chính, có ý nghĩa nhất. Các điểm khác chỉ là phụ trợ vui vẻ thích thì thêm tí D&D. Cũng giống như các chuyến đi khác của D&D có điểm chính và phụ. Điểm Đi chính là bắt buộc không thể không đi. Còn Điểm Đi phụ là Đi Đến Đâu hay Đến Đó.
    Bãi tắm Cửa Tùng
    Đây là vùng bãi biển trải dài gần 1km nằm ở thôn An Đức, xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Linh. Đây là một vịnh nhỏ ăn sâu vào chân dải đất đồi bazan chạy sát biển gọi là Bãi Lay. Kề sát phía Nam bãi biển là cửa của dòng sông Hiền Lương (hay còn gọi là sông Minh Lương, sông Bến Hải).
    Vùng bờ biển miền Trung là nơi thường xảy ra những trận gió to, sóng lớn, bão tố thất thường, nhưng Cửa Tùng lại là nơi hiền hòa, kín gió, tàu thuyền đánh cá của ngư dân có thể neo đậu an toàn.
    Ôm lấy bãi biển Cửa Tùng là dải đồi đất đỏ bazan với những dải đá kéo dài ăn sâu ra biển cùng với bãi cát mịn màng. Trên đồi là khu dân cư trù mật với những vườn cây như mít, chè, dứa, chuối, chôm chôm, mãng cầu?

    Biển Cửa Tùng có các loại hải sản nổi tiếng như mực, ruốc (khuyết), tôm hùm, cá thu?
    Cửa Tùng xưa là nơi neo đậu của thuyền bè cư dân đánh cá. Dưới thời Pháp thuộc, thấy khí hậu ở đây mát mẻ hiền hòa, người Pháp đã sử dụng Cửa Tùng làm nơi nghỉ ngơi, tắm biển, giải trí. Lúc đầu, Pháp lập một đồn lính, xung quanh đào hào đắp lũy và dựng trại cho lính ở. Quân Pháp ở đây được hai năm rồi rút dần, chỉ để lại nền đồn cao nhường chỗ cho một nhà nghỉ mát.
    Dưới con mắt của người nước ngoài, Cửa Tùng là "Nữ hoàng của các bãi biển" (Lareine des plages) Chính quyền người Pháp đã phát hiện ra vẻ đẹp kỳ thú nên thơ của Cửa Tùng. A.Laborde - một người Pháp rất am tường về Đông Dương và Quảng Trị đã mô tả: Cửa Tùng có một sắc thái rất đặc biệt bởi một cao nguyên rất xanh tươi ở độ cao 20m? Từ trên đồi con dốc người ta chiêm ngưỡng những màu xanh luôn biến đổi của biển và trời? Cửa Tùng có đủ các yếu tố để hàng năm du khách có thể đến đây nghỉ mát.
    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của nhân dân ta, Cửa Tùng là một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt của địch bởi đây vừa là vùng giới tuyến, vừa là cầu tiếp vận cho bộ đội ở Cồn Cỏ. Bom đạn của địch đã tàn phá mọi công trình đã có từ trước trên bờ biển Cửa Tùng.
    Ngày xưa Cửa Tùng là bảo vật của thiên nhiên ban tặng, hiện nay qua dặm dài lịch sử đất nước, Cửa Tùng là một điểm nhấn trong một không gian văn hóa du lịch nổi tiếng. Sông Bến Hải - cầu Hiền Lương; làng Địa đạo Vịnh Mốc; bãi tắm Cửa Tùng; Rừng nguyên sinh Rú Lịnh.
    Khu danh thắng Cửa Tùng:
    Khu danh thắng Cửa Tùng là một điểm kỳ thú trong một không gian nên thơ của một vùng biển Cửa Tùng.
    Ðây là vùng bãi biển trải dài gần 1km từ cửa sông Minh Lương (Cửa Tùng Luật nơi sông Hiền Lương đổ ra biển ở địa phận hai làng Cát Sơn (phía Nam), An Hòa (phía Bắc) đến mũi Hàu). Ngày xưa đây là địa phận của phường Vĩnh An-Tổng An Du-phủ Vĩnh Linh.
    Bãi tắm Cửa Tùng tọa lạc trên một vùng đất có địa mạo đặc biệt: Vừa có những dải cát dài, những mũi đá và đồi đất đỏ,vẻ đẹp tự nhiên của bãi tắm rất hiếm có trên dọc suốt 3.260km bờ biển Việt Nam.
    Nguyên xưa, địa danh Cửa Tùng bao gồm một vùng rộng lớn của vùng phía đông huyện Minh Linh (Vĩnh Linh và Gio Linh ngày nay). Trước khi thuộc người Việt (thế kỷ XI) Cửa Tùng là một cảng thị sầm uất của người Chàm. Các phát hiện về khảo cổ học cho thấy: Cửa Tùng có nền văn hóa lâu đời hình thành từ thời Đại Đá mới.
    Sự giao lưu mạnh mẽ về kinh đô và văn hóa sau công nguyên biến Cửa Tùng thành một cảng thị sầm uất: Nhiều tàu bè, thương gia nước ngoài đã đến đây để trao đổi buôn bán. Các sản vật người Chàm trao đổi như nước ngọt, hồ tiêu, trầm hương, quế...
    Từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIX, Cửa Tùng là một cảng thị sầm uất có vai trò to lớn, trong sự phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa của xứ Ðàng Trong...
    Sau Hiệp ước Patơnốt(1884), cùng với việc củng cố chính quyền thống trị thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Chính quyền người Pháp đã phát hiện ra vẻ đẹp kỳ thú nên thơ của Cửa Tùng. Alaborde-một người Pháp rất am tường về Ðông Dương và Quảng Trị đã mô tả:
    Cửa Tùng có một sắc thái rất đặc biệt bởi một cao nguyên rất xanh tươi ở độ cao 20m... Từ trên đồi con dốc người ta chiêm ngưỡng những màu xanh luôn biến đổi của biển và trời... Cửa Tùng có đủ các yếu tố để hàng năm du khách có thể đến đây nghỉ mát.

    Năm 1896, Khâm sứ Trung kỳ Brieere vì thích thú Cửa Tùng đã cho xây dựng nhà nghỉ ở đây. Sau đó đến thế kỷ XX, các cha cố, chủ đồn điền,vua quan nhà Nguyễn cho xây dựng nhiều nhà nghỉ, khách sạn, nhà dây thép...tại đây, rất nhiều mỹ từ ca ngợi hết lời bãi tắm Cửa Tùng: Nữ hoàng của bãi tắm, Bà chúa của bãi tắm, Hòn ngọc của biển Thừa Lương...
    Thật vậy, từ sắc thái đổi màu trong ngày đến cảnh quan khá đặc biệt đã tạo nên một vẻ hấp dẫn: Phía Nam là những dải cát dài (mà Lê Quý Ðôn gọi là đại trường sa), phía Tây là những làng quê đất đỏ mướt xanh hồ tiêu, mít, chè, phía Bắc là mũi Hàu, mũi Si giống như những con khủng long khổng lồ phơi mình cho sóng biển vuốt ve.
    Cửa Tùng là một bãi tắm đẹp và an toàn, độ thoải của bãi tắm khá đặc biệt: từ trong bờ lội ra đến 400-500m nước chỉ sâu 1,5 đến 1,7m. Ðộ mặn của nước biển vừa phải: Nhạt hơn các vùng biển phía nam, đậm đà hơn các bãi tắm Nhật Lệ, Cửa Lò... Đặc biệt, Cửa Tùng tọa lạc trên một vùng cách xa các khu công nghiệp nên môi trường nước và không khí không bị ô nhiễm. Mặc dù là bãi tắm mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 9) song Cửa Tùng ***g lộng gió đông nam (mà dân địa phương gọi là gió nồm), vì thế cái nóng, bốc lửa của gió lào về cách Cửa Tùng từ 6 -7km bị vô hiệu hóa hoàn toàn.
    Do đặc điểm cấu tạo của địa chất Cửa Tùng vừa là bãi ngang vừa là chân rạn. Ðặc điểm này không thuận lợi phát triển các ngư trường lớn,nhưng lại thuận tiện để phát triển nhiều loại hải sản quý hiếm và ngon nổi tiếng như: Chim, Thu, Nhụ, Đé, cá Cam, tôm Hùm; các loại, cua, ốc, cầu gai, tảo biển, hến...nói chung ở đây có đủ điều kiện, để đảm bảo nhu cầu ẩm thực của du khách bốn phương.
    Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Cửa Tùng được đầu tư xây dựng khá quy mô và đẹp. Người Pháp cho xây đường sá (tỉnh lộ 70) đặt trạm bưu điện, ngân hàng và nhà nghỉ cho các quan chức thực dân, nơi cách ly ru ngủ vua Duy Tân. Hệ thống nhà nghỉ bao gồm:
    - Nhà Thừa lương(nhà nghỉ cũ của tòa Khâm sứ Trung kỳ)
    - Nhà nghỉ của cố Cả (một cha cố, chủ xứ đạo Di Loan)
    - Nhà của Cai lục lộ Trung kỳ (chủ đồn điền tê-rôm(ở Khe sanh-Hướng hóa).
    - Hotel Cáp (Khách sạn đóng ở mũi Hàu), Hotel Plage ( nhà hàng) Tây đui (nhà hàng của một người Pháp chột mắt) v.v... ngoài ra họ còn mở ra hai con đường thượng ,để trồng hoa và tổ chức đua xe đạp...
    Tại đây vị vua yêu nước Duy Tân đã bàn luận về việc nước bằng một câu khẳng khái: ?oTay nhớp lấy nước mà rửa, nước nhớp lấy chi mà rửa? ?o

    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 22:19 ngày 13/08/2007
  5. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP NEWS (Cont.):

    Ở hai đầu nổi nhớ - Cầu Hiền Lương
    Có lẽ ai trong chúng ta cũng không xa lạ gì với hai chữ Hiền Lương thân yêu và tất nhiên tôi cũng sẽ không là ngoại lệ. Người đời có không ít giai thoại về cái cầu bắc sang con sông Bến Hải từ thuở ngày xưa, "thiên hạ" tốn không ít giấy mực để viết về chứng tích lịch sử đánh dấu một thời điểm là bước ngoặt của xã hội Việt Nam và ngày nay trong thời đại công nghệ số, chỉ cần đặt "Hiền Lương"/"Hien Luong" vào Google rồi Enter thì có không dưới nửa vạn links trỏ đến cây cầu huyền thoại ấy. Bấy nhiêu đó cũng đủ nói lên rằng Hiền Lương đã đi vào lịch sử của cả nhân loại. Hơn ai hết, là những đứa con của mảnh đất Quảng Trị thân yêu, các bạn không những biết về một Hiền Lương da hồng thịt thắm hôm nay mà còn phải "thuộc lòng" về Hiền Lương trong quá khứ cho dù đó là nổi đau chia cắt, nổi nhớ chia lìa, nổi buồn chinh chiến hay nổi lòng tha hương. Tất cả ấy là những nổi niềm của người con xứ gió lào nắng cháy.
    Đã có lúc nào bạn tự đặt câu hỏi "Cái tên Hiền Lương có tự bao giờ?" Có lúc nào bạn đồng nghĩa sông Bến Hải với sông Hiền Lương và liệu điều đó có gì sai? Bến Hai là một địa danh ở mạn đông của dãy Trường Sơn trong địa phận của tỉnh Quảng Trị. Đây cũng chính là nơi bắt nguồn của một con sông chảy dọc theo vĩ tuyến 17 từ tây sang đông rồi đổ ra biển ở Cửa Tùng vì thế mà nó mang tên sông Bến Hải. Cùng với Bến Hải là sông Sa Lung chảy từ hướng tây bắc đổ về. Hai sông hợp lưu ở bờ bắc của làng Minh Lương để từ đó đổ ra Biển Đông nên sông hợp thành được gọi là sông Minh Lương. Đến thời Minh Mạng, do phải kiêng huý tên vua nên cả tên làng lẫn tên sông đều đổi thành Hiền Lương và cái tên Hiền Lương ra đời từ đó. Cũng từ đó, cây cầu nằm cách ngã ba sông một đoạn không xa cũng mang tên Hiền Lương.
    Ngược dòng thời gian, điểm lại lịch sử các cây cầu bắc sang sông mang tiên Hiền Lương để thấy rằng nó xứng tầm là cây cầu nối hai miền nổi nhớ. Cho đến những năm đầu của thế kỷ 20 thì tại con sông rộng 100m này chỉ mới có bến phà. Mãi đến năm 1928, phủ Vĩnh Linh huy động dân làng làm chiếc cầu rộng chừng 2m (bằng gỗ, cọc sắt), chỉ đủ cho khách bộ hành. Năm 1931, cầu được người Pháp sửa lại nhưng lúc bấy giờ xe cơ giới qua sông vẫn phải đi bằng phà. Năm 1943, cầu được nâng cấp để xe cơ giới loại nhỏ đi qua. Năm 1950, Pháp xây cầu bê tông cốt thép dài 162m, rộng 3m6, trọng tải dưới 10 tấn để phục vụ nhu cầu quân sự nhưng nó bị phá sập bởi du kích vào khoảng chừng 2 năm sau đó. Vì thế nên đến tháng 5/1952, Pháp xây lại cầu mới 7 nhịp, dài 178m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép, mặt cầu rộng 4m lát ván gỗ thông, hai bên có thành chắn cao 1m2, trọng tải 18 tấn. Đây chính là cây cầu chứng kiến sự chia lìa của bao gia đình, sự chia cắt của cả một dân tộc. Vào lúc đó, ở giữa cầu có một vạch sơn trắng rộng 1cm kẻ ngang làm ranh giới Bắc - Nam. Mỗi nửa cầu dài 89m, nửa phía nam có 444 tấm ván, nửa phía bắc có 450 tấm ván. Những năm đầu, nửa phía nam cứ ra sức sơn màu khác nửa phía bắc, còn nửa phía bắc cứ cố gắng sơn cùng màu với nửa phía nam. Vì thế mà phải mất một thời gian khá dài, cầu mới có cùng một màu xanh thống nhất nhưng chẳng bao lâu sau đó thì cầu bị bom Mỹ đánh sập vào tháng 8/1967. Từ đó việc di chuyển qua sông phải thực hiện trên một cầu phao được bắc tạm cách cầu cũ chừng vài chục mét về phía tây. Năm 1974, một cây cầu được xây dựng bằng bê tông cốt thép, dài 186m, rộng 9m, có hành lang rộng 1m2 dành cho người đi bộ, được coi là cầu thống nhất đất nước. Năm 1996, ở phía tây cây cầu này, một cây cầu khác được xây dựng bằng công nghệ đúc đẩy, dài 230m, rộng 11m5 và hiện là phương tiện chính đi qua sông Hiền Lương.
    Ngày hôm nay, xe vụt qua cầu Hiền Lương hiện đại mất chưa đầy vài phút, không biết chừng đó thời gian có đủ để người ta nhớ đến, hồi tưởng về một chứng tích lịch sử của dân tộc hay không??? Nhưng bất luận với vật đổi sao dời thì tôi vẫn tin Hiền Lương mãi mãi là cây cầu huyền thoại
    .

    Bãi tắm Cửa Việt
    Cách thị xã Đông Hà 15km về phía Đông Nam, đây là bãi tắm có diện tích rộng gần cảng lớn, nước sạch, bãi cát thoai thoải dài theo những rặng dương xanh ven biển.
    Bãi biển Cửa Việt nằm ở Bắc Cửa Việt thuộc địa phận thôn Tân Lợi, xã Gio Việt, huyện Gio Linh cách đường xuyên Á khoảng 1km về phía Bắc.
    Bãi biển Cửa Việt dù không được mệnh danh là ?oNữ Hoàng? của bãi tắm như Cửa Tùng nhưng nó mang vẻ đẹp lung linh, được phơi mình bên làn nước trong xanh với dáng vẻ của một bãi cát phẳng mịn trải dài. Vào mùa hè trong cái tiết nóng nực, phủ kính những cơn gió Lào du khách được tắm mình dưới làn nước êm ái này thì thật sảng khoái không gì tả được. Với không gian rộng du khách không những đến biển để tắm mà còn có thể chơi những trò chơi bãi cát. Đây thật sự là điểm đến tuyệt vời cho du khách sau những ngày làm việc mệt nhọc, căng thẳng mà đến đây biển sẽ làm dịu và tạo cho du khách có thêm sức mạnh để tiếp tục công việc của mình.

    Bãi tắm Mỹ Thuỷ
    Bãi biển Mỹ Thủy thuộc xã Hải An, huyện Hải Lăng cách thị trấn Hải Lăng 18km về phía Đông, cách thị xã Quảng Trị 26km về phía Đông Nam, cách thành phố Huế 50km về phía Đông Bắc.
    Đây là bãi biển có bãi cát trắng dài, phẳng mịn và sạch, mang trong mình đầy vẻ nguyên sơ về duyên dáng kỳ lạ. Môi trường ở đây khá lý tưởng. Nơi đây hàng năm vào mùa hè đã thu hút được lượng khách tắm biển khá đông có lúc lên tới 2000 người. Đặc biệt từ năm 1999, bãi biển Thuận An ở Huế bị lũ lụt làm hư hại thì bãi biển Mỹ Thủy là nơi hấp dẫn khách du lịch từ thành phố Huế ra nghỉ ngơi, tắm biển tại nơi này.

    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 17:52 ngày 14/08/2007
  6. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bác Vechia nghiên cứu vụ Le tour đón mừng rằm Trung thu đi:
    Tập kết tại đường Thanh niên: vào đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, chùa Nghi Tàm, Kim Liên, Ngũ Xã, Ô Quan Chưởng, cầu Long Biên, chùa Bồ Đề. 1 ngày là đủ.
    Có thể: đền Bà Kiệu, đền Ngọc Sơn, khu di tích 48 hàng Đào...
    Được tranvuhoang2005 sửa chữa / chuyển vào 11:55 ngày 15/08/2007
  7. kilotu

    kilotu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/07/2005
    Bài viết:
    1.958
    Đã được thích:
    2
    Anh Hoàng dạo này bị biển bỏ bùa rồi, suốt ngày thấy bì bõm ngoài khơi.
    Em cũng có mặt ở QB vào cuối tuần này, có gì alo giao lưu tý anh nhỉ?
  8. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    Bác Kilogram có mặt ở QB ròi bỏ QB Đi cùng D&D Đi!!! Xe riêng, tàu biển riêng, tội gì đến CN hoặc sớm hơn, tối thứ 7, bác lại quay ra QB cùng mọi ng tiếp!!! Sáng sớm rời QB, tối lại nhảy xe khách về QB, ngon ơ. Tội gì mà bỏ lỡ dịp tranh thủ D&D nhỉ, Kilogram ơi?
    D:-)D GROUP NEWS (Cont.):
    Lễ hội du lịch Quảng Trị

    I. Lễ hội dân gian
    Quảng Trị là tỉnh có truyền thống văn hoá, lịch sử lâu đời. Ðiển hình nhất là tiếng nói mang đặc điểm thổ ngữ vùng Trung Bộ còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ của tiếng Việt. Các phong tục khác nhau như ma chay, cưới xin, giỗ chạp với nghi lễ đơn giản. Chùa chiền được xây ít. Chỉ có một số chùa như chùa Thạch Hải, chùa Ðông Hà. chùa Linh Quang. Ðặc biệt các dân tộc ít người cư trú ở đây thường sử dụng cồng, chiêng,.đàn Amam, nhị,,đàn môi, trống, sáo. Họ có nhiều truyện cổ truyền miệng, có điệu hát "oát" là loại hát đối giao duyên nam nữ, Prdoak là hát vui trong sinh hoạt, Adang Kon là hát ru trẻ con. Lễ hội, lễ tết không cầu kỳ.
    Hội Thượng Phước
    Hội Thượng Phước thuộc xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong. Lễ hội mở ra hàng năm vào ba ngày từ 13 đến 15 tháng 3 Âm lịch để ghi nhớ công lao của Quan công Hoàng Dũng, người đã có công lập làng Thượng Phước. Ngày 13 - 14 tháng 3 Âm lịch cả làng đi săn, lấy đầu muôn thú để làm lễ vật dâng cúng. Sáng ngày 15 tháng 3 Âm lịch, làng bắt đầu tổ chức tế lễ. Cuộc tế lễ dâng cúng kéo dài đến hết ngày 15.
    Hội Cướp Cù
    Ðây là hội làng được tổ chức tại đình An Mỹ, Cẩm Phổ, Gio Mỹ, huyện Gio Linh vào ngày 4 tháng 1 Âm lịch hàng năm. Lễ hội kéo dài hai ngày. Sau phần lễ, tế cầu an là trò cướp cù. Nét độc đáo của lễ hội là bên nào huy động được nhiều người tham gia thì càng dễ thắng cuộc. Người tham gia không kể già, trẻ, trai, gái. Ðây là một hình thức thể thao mang tính dân gian.
    II. Lễ hội Tôn giáo
    Lễ hội La Vang
    La Vang thuộc thị xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, cách quốc lộ 1A chừng 5km về phía Tây, cách thị xã Đông Hà 18km về phía Tây Nam, nhà thờ Thiên Chúa giáo La Vang đã được cấp lên bậc ?oVương Cung Thánh Đường?. Đây là một trong bảy nơi trên thế giới Đức mẹ Đồng Trinh xuất hiện. Chính vì vậy nơi đây đã được tín đồ Thiên Chúa giáo trong nước và trên thế giới biết đến với sự cung kín rất lớn, hàng năm vào ngày 18/5 Dương lịch đều có tổ chức ?oKiệu?, ?oKiệu? được tổ chức vào những năm chẵn lớn hơn những năm lẻ, cứ 3 năm một lần thì gọi là ?ođại hội? và ?oKiệu? 100 năm thì lớn hơn ?oKiệu? 40 năm, 50 năm. Năm 1998, ở đây đã được tổ chức cuộc hành hương kỷ niệm 20 năm Đức mẹ hiện hình tại La Vang và đã có hơn 20 vạn lượt giáo dân cùng quan khách tham dự. Đây thực sự là một lễ hội độc đáo ở Quảng Trị.
    Lễ hội Tổ Đình Sắc Tứ
    Chùa Sắc Tứ được toạ lạc trên một vùng núi phía Tây ?" Nam làng Ái Tử, thuộc địa phận thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong cách quốc lộ 1A chưa đầy 1km về phía Tây. Ngôi chùa được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng di tích quốc gia theo quyết định số 2009/QĐ ?" BVHTT ngày 15/11/1991. Chùa Sắc Tứ có tên là Tịnh Quang Tự hay còn gọi là Tổ Đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Những bần tăng, bổn đạo, thiện nam tính nữ coi chùa là đất tổ của mình, còn danh bất tính trong thiên hạ thì ngưỡng mộ chùa như một trung tâm từ thiện. Chùa do vị ***** Chí Khả khai sinh nên hàng năm vào ngày 18/2 Âm lịch tổ chức ngày lễ kỵ Tổ Đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Vào dịp này hàng năm rất nhiều quý vị tăng ni Phật tử trong và ngoài nước đến tham dự, đặc biệt những vị tăng ni Phật tử Việt kiều chùa có quy mô rộng, sức chứa khoảng mười nghìn người mỗi khi ngày lễ về.
    Ở Quảng Trị, ngày nay lễ hội đang có xu hướng phục hồi và phát triển trở lại. Gần đây ở Quảng Trị còn xuất hiện thêm loại hình lễ hội mới: Lễ hội cách mạng như: Lễ hội ?othống nhất non sông?, lễ hội ?othả đèn trên sông Thạch Hãn?, và còn có lễ hội ?oNhịp cầu xuyên Á? được tổ chức 3 năm một lần nhằm mở rộng giao lưu quan hệ hợp tác giữa các nước trong hành lang kinh tế Đông ?" Tây (Đông Nam Á) về Thương mại ?" Du lịch, Văn hoá ?" Xã hội. Tuy các lễ hội này mới được tổ chức trong những năm gần đây những loại hình lễ hội này được đông đảo nhiều người quan tâm, được bạn bè trong nước và thế giới chờ đón, để lại dấu ấn sâu sắc đối với du khách khi tới Quảng Trị, đặc biệt là lễ hội ?oNhịp cầu xuyên Á?, đây là cơ hội tốt để du lịch Quảng Trị có thể đi lên sánh vai cùng với các tỉnh thành bạn bè trong nước và nước ngoài.
    III. Lễ hội cách mạng
    Lễ hội Thống nhất non sông
    Lễ hội này gắn với khu di tích lịch sử Đôi bờ Hiền Lương, nơi chứng kiến nổi đau chia cắt đất nước hai mươi năm, nơi biểu hiện cao nhất khát vọng thống nhất và đoàn tụ của dân tộc Việt Nam. Lễ hội này gắn với hoạt động kỷ niệm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam - thống nhất tổ quốc. Đây còn là ngày hội tôn vinh chiến thắng của đồng bào, đồng chí hai bên dòng sông Hiền Lương và chiến công của nhân dân cả nước trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam - thống nhất đất nước. Lễ hội cũng là dịp để khẳng định khát vọng và ý chí đoàn tụ dân tộc như lời Bác Hồ đã nói: ''''''''''''''''Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một''''''''''''''''.
    Phần lễ: Gồm Lễ thượng cờ trên kỳ đài bờ Bắc và khai mạc ngày hội.
    Phần hội: Gồm các hoạt động cắm trại, giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể thao của nhân dân trong tỉnh.
    Lễ hội được tổ chức định kỳ 5 năm một lần vào dịp kỷ niệm năm chẵn và tròn ngày giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc (30/04/1975).
    Lễ hội Đêm Thành Cổ
    Lễ hội gắn với khu di tích Thành Cổ Quảng Trị nhằm tưởng niệm những người con nước Việt đã ngã xuống trên mảnh đất Thành Cổ. Tôn vinh chiến công hiển hách của quân và dân cả nước trong cuộc chiến 81 ngày đêm chống phản kích và tái
    chiếm của địch. Đồng thời giới thiệu cho du khách những nét văn hoá tiêu biểu của Thành Cổ, một trung tâm chính trị văn hoá, thời Nguyễn ở tỉnh Quảng Trị?
    Phần lễ:
    -Lễ tưởng niệm tại tượng đài Thành Cổ, kết hợp với kỷ niệm ngày giải phóng thị xã Quảng Trị.
    -Thả hoa đèn trên sông Thạch Hãn.
    -Lễ dâng hương ở các hương án.
    -Lễ cầu siêu chung cho các vong linh đã mất.
    Phần hội:
    Các hoạt động giao lưu, toạ đàm dành cho cựu chiến binh Thành Cổ. Các hoạt động văn hoá thể thao, du lịch tôn vinh và quảng bá văn hoá truyền thống.
    Lễ hội đêm Thành Cổ thường được tổ chức vào ngày và đêm 1/5 tại thị xã Quảng Trị. Và lễ được tổ chức định kỳ 5 năm một lần vào dịp năm chẵn và năm tròn ngày giải phóng Quảng Trị (1/5/1972).
    Lễ hội Trường Sơn Huyền thoại
    Đây là hoạt động tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đang yên nghỉ trên Nghĩa trang quốc gia Trường Sơn và Nghĩa trang quốc gia Đường 9 và các nghĩa trang khác ở Quảng Trị.
    Lễ hội này gắn với hoạt động kỷ niệm ngày Thương binh liệt sỹ 27/7, thể hiện trách nhiệm và tình cảm của người còn sống với anh hùng liệt sỹ đã hi sinh và vì đạo lý uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta.
    Phần lễ:
    Gồm Lễ cáo kết hợp với lễ viếng nghĩa trang được tổ chức trước ngày giỗ chính. Lễ giỗ tại đền thờ nghĩa trang dành cho các đoàn hành hương tổ chức trong cả hai ngày 26 và 27/7. Lễ giỗ chính do lãnh đạo tỉnh chủ trì tổ chức tại Đài tưởng niệm nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn chiều 27/7. Cùng ngày, tất cả các nghĩa trang liệt sỹ trong toàn tỉnh đều tiến hành lễ viếng, dâng hương.
    Phần hội:
    Gồm các hoạt động tổ chức hành hương cắm trại tại nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn. Tuỳ theo điều kiện từng lễ hội để tổ chức các hoạt động giao lưu nghệ thuật, tôn vinh chiến công của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuối ngày dâng nến trên tất cả các phần mộ ở hai nghĩa trang liệt sỹ quốc gia. Lễ hội Trường Sơn huyền thoại sẽ được tổ chức ở hai nghĩa trang liệt sỹ quốc gia nhưng phần Hội tập trung ở nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn. Đại giỗ sẽ được tổ chức định kỳ ba năm một lần.

    To be Cont...
    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 12:10 ngày 15/08/2007
  9. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP NEWS (Cont.):

    Lịch sử hình thành và phát triển
    Đất Quảng Trị xưa thuộc Bộ Việt Thường, nước Văn Lang của ta đời Vua Hùng. đây là vùng đất tiếp giáp với nước Lâm Ấp (Chiêm Thành) nên thường xuyên xảy ra chiến tranh và thay đổi chủ. Quảng Trị là huyện Tượng Chân đời nhà Tần, Hán rồi thuộc nước Lâm Ấp đời nhà Tấn, rồi được chia thành hai châu Lâm và châu Cảnh đời nhà Đường và vào thời Tống thì thuộc về nước Chiêm Thành. Năm 1069, do hay bị quấy nhiễu biên thuỳ nên vua Lý Thánh Tông thân chinh cùng Nguyên soái Lý Thường Kiệt đi đánh và bắt được Vua Chiêm là Chế Cũ (Rudravarman III). Vua Chiêm dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Hai châu Địa Lý và Bố Chính thuộc tỉnh Quảng Bình. Châu Ma Linh được đổi tên thành châu Minh Linh (gồm hai huyện Gio Linh và Vĩnh Linh ngày nay) gồm 65 xã cổ của tỉnh Quảng Trị. Quân Chiêm nhiều lần quấy phá nhằm chiếm lại ba châu nói trên nhưng đều bị Lý Thường Kiệt đánh tan.
    Ông mộ dân nghèo vùng Thanh Hoá, Nghệ An đến Minh Linh khai khẩn sinh sống, đây là lớp người di dân đầu tiên vào Quảng Trị mà lớp dân tiền bối ở vùng Bắc Cửa Việt. Năm 1306, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông sang thăm Chiêm Thành, Vua Chiêm Thành là Chế Mân (Java Simhavarman III) dâng biểu cầu hôn xin cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1306, Vua Chiêm dâng hai châu Ô, Rí (Lý) làm sính lễ thì vua Trần Anh Tông mới thuận gả. Vua cho Đoàn Như Hải vào nhận đất và đổi châu Ô thành Thuận Châu gồm đất Triệu Phong (59 xã cổ), Hải Lăng, (49 xã cổ) và Phong Điền;
    ...Đổi châu Rí thành Hoá Châu gồm đất Quảng Điền, Hương Trà, Diên Phước, Hoà Vang.
    Sau chiến thắng giặc Minh nhà Lê chia Thuận Châu thành hai huyện Vũ Xương và Hải lăng thuộc phủ Triệu Phong.
    ...Năm 1558, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) để tránh bị ám hại nên xin với anh rể là Trịnh Kiểm cùng vua Lê vào trấn thủ đất thuận hoá theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm "Hoàng sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Chúa Nguyễn Hoàng đóng dinh đầu tiên ở xứ Sa Khứ, xã Ái Tử, thuộc huyện Vũ Xương (sau đổi tên thành Đăng xương) ở ven sông Thạch Hãn, mở đầu cho hành trình mở đất về phương Nam.
    ...Sau khi lên ngôi hoàng đế tháng 8/1801, vua Gia Long lấy 2 huyện Hải Lăng, Đăng Xương (phủ Triệu Phong), huyện Minh Linh (phủ Quảng Bình) lập ra dinh Quảng Trị, riêng phía tây lập ra đạo Cam Lộ thuộc dinh Quảng Trị. Năm 1831, theo sự phân chia của triều đình thì Quảng Trị gồm 2 phủ (Triệu Phong và Cam Lộ); 3 huyện (Hải Lăng, Đăng Xương, Minh Linh) và 10 châu (Hướng Hoá, Nà Bôn, Thượng Kế, Tá Ban, Xương Thịnh, Tân Bôn, Ba Lan, Mường Bồng, Làng Thìn).
    ...Năm 1827(Minh Mạng thứ 8) đổi dinh Quảng Trị thành trấn Quảng Trị. Đến năm 1831 (Minh Mạng thứ 12) đổi trấn Quảng Trị thành tỉnh Quảng Trị và đạo Cam Lộ thành phủ Cam Lộ. Năm 1853, Tự Đức bỏ Quảng Trị thành lập đạo Quảng Trị và sát lập vào phủ Thừa Thiên. Năm1876 lại đổi đạo Quảng Trị thành tỉnh Quảng Trị như cũ. Ngày 3 tháng 5 năm 1890, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định: hợp 2 tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị dưới quyền công sứ Đồng Hới. Ngày 23.1.1896, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định: Quảng Trị không thuộc quyền công sứ Đồng Hới mà hợp lại với Thừa Thiên dưới quyền khâm sứ Trung Kỳ (đặt một phó khâm sứ đại diện cho khâm sứ tại Quảng Trị ).
    ...Năm 1900, toàn quyền Đông Dương ra Nghị đinh: tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên và lập thành một tỉnh riêng biệt. Ngày 17.2.1906, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định: thành lập thị xã Quảng Trị. Ngày 5.9.1929, phủ toàn quyền Pháp ở Đông Dương ra quyết định thành lập thêm thị xã Đông Hà.

    ...Từ sau cách mạng tháng Tám(1945) đến hoà bình lập lại (1954) về cơ bản tên gọi địa giới của tỉnh không có gì thay đổi. Sau năm 1954. theo hiệp định Giơnevơ, nước ta tạm thời chia cắt làm 2 miền Nam- Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến, khi đó tỉnh Quảng Trị bị chia làm 2: phía Bắc sông Bến Hải là huyện Vỉnh Linh được thành lập đặc khu trực thuộc Trung ương, phía Nam sông Bến Hải do chính quyền Mỹ - Nguỵ Sài Gòn quản lý. Năm 1973, vùng giải phóng được mở rộng đến sông Thạch Hãn, sau hiệp định Pari, Đông Hà trở thành thị xã tỉnh lỵ mới của tỉnh Quảng Trị vừa giải phóng
    ...Tháng 3.1975, QuảngTrị hoàn toàn được giải phóng.
    ...Từ tháng 7.1976 đến tháng 6. 1989, theo quyết định của Quốc hội của nước CHXHCN Việt Nam, Quảng Trị cùng với Quảng Bình, Thừa Thiên và khu vực Vĩnh Linh thực hiện việc hợp nhất thành lập tỉnh mới là tỉnh Bình Trị Thiên.
    Tháng 7.1989, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam lại quyết định chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh như trước đây. Quảng Trị trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh thuộc Trung ương. Hiện nay tỉnh Quảng Trị có 2 thị xã: Đông Hà và Quảng Trị và 7 huyện(Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng, Hướng Hoá và Đakrông ).

    To be Cont...
  10. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP NEWS (Cont.):

    Hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội
    1. Cầu Hiền Lương:
    Cầu Hiền Lương qua sông Bến Hải, giới tuyến tạm thời 2 miền Nam-Bắc suốt 20 năm. Cầu có 7 nhịp, dài 178m, lát 894 miếng ván trên mặt cầu. Cầu Hiền Lương và di tích đôi bờ mang đậm dấu ấn lịch sử trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
    Hiện nay được phục chế nâng cấp thành cụm di tích quan trọng, thu hút du khách gần xa.
    2. Nghĩa trang liệt sỹ quốc gia Trường Sơn:
    Nghĩa trang tọa lạc trên 6 quả đồi rộng trên 106ha, chia thành 6 khu vực thuộc xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh. Là nơi an nghỉ của hơn 10 ngàn liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
    Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn nhắc nhở các thế hệ mai sau đời đời ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sỹ đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.
    3. Thành cổ Quảng Trị:
    Nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt, kiên cường bảo vệ Thành cổ của các chiến sỹ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị suốt 81 ngày đêm đương đầu với một lượng bom đạn (hơn 330.000 tấn) vô cùng khủng khiếp của kẻ thù. Thành cổ Quảng Trị là di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của Quốc gia.
    4. Địa đạo Vịnh Mốc:
    Một công trình độc đáo ở khu vực Vĩnh Linh, là hệ thống hầm ngầm liên hoàn được kết nối với nhau bằng 13 cửa ra vào, cấu trúc thành 3 tầng dưới lòng đất, dài hàng ngàn mét. Di tích Địa đạo Vịnh Mốc là minh chứng hùng hồn ý chí quyết thắng , lòng yêu nước nồng nàn và sự khát khao hòa bình của dân tộc Việt Nam.
    5. Di tích Khe Sanh - Tà Cơn - Làng Vây:
    Là một tập đoàn cứ điểm quan trọng bậc nhất của Mỹ ở miền Trung Việt Nam (gồm: Tà Cơn, Làng Vây, Khe Sanh) được coi là "bất khả xâm phạm". Nơi này đã trở thành di tích lịch sử chiến thắng của tinh thần yêu nước và lòng quả cảm vô song.
    Đến đây, du khách sẽ thăm nhà trưng bày, hầm, hào, hàng rào kẽm gai, đường băng, máy bay, pháo, xe tăng của địch,... và khung cảnh chiến trường xưa.
    6. Đường Hồ Chí Minh huyền thoại:
    Là con đường "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" len lỏi giữa núi rừng trùng điệp từ Bắc vào Nam. Đoạn đi qua Quảng Trị là trọng yếu nhất, ác liệt nhất trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
    Đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh đã đi vào huyền thoại như một bản anh hùng ca về sức mạnh thần kỳ, ý chí kiên cường và lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam.
    - Du lịch sinh thái.
    1. Bãi biển Cửa Tùng, Cửa Việt:
    Cửa Tùng là một bãi biển đẹp, nơi nghỉ mát và tắm biển lý tưởng của du khách. Bãi bằng phẳng, cát mịn, nước trong xanh, lộng gió với những rặng phi lao ven bờ. Đặc sản biển Cửa Tùng nổi tiếng rất ngon và bổ. Bãi tắm Cửa Tùng được mệnh danh là "Nữ hoàng của các biển Thừa Lương" duyên dáng với nét rất riêng đang hấp dẫn du khách gần xa.
    2. Trằm Trà Lộc:
    Nằm phía Tây - Nam làng Trà Lộc, trên dải cát rộng tiếp giáp các xã Hải Thiện, Hải Thọ, Hải Thượng, Hải Lâm, Hải Quy, Hải Xuân, Hải Vĩnh thuộc huyện Hải Lăng. Trằm Trà Lộc là một hồ nước rộng gần trăm héc-ta, quanh hồ cây rừng mọc tự nhiên, nguồn sinh thủy dồi dào, khí hậu trong lành.
    Trằm Trà Lộc rất thuận lợi cho du khách đến nghỉ dưỡng, cắm trại... để thưởng thức không gian thanh bình và thơ mộng.
    3. Làng văn hóa dân tộc bản Cát:
    Thuộc xã Đakrông, huyện Đakrông. Là một ngôi làng của dân tộc Vân Kiều được tạo dựng khá sớm trong lịch sử, còn lưu giữ những sản phẩm văn hóa vật chất và tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng. Bản Cát hiện vẫn duy trì được lối sống và sinh hoạt văn hóa theo nghi thức và tập quán của mình, vẫn giữ được các yếu tố bản sắc trong lễ hội như: Đâm trâu, các làn điệu múa hát dân tộc, các nghi thức thờ cúng và hệ thống quan niệm về vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa.
    4. Đảo Cồn Cỏ:
    Cách bờ biển Vĩnh Linh khoảng 30km về hướng Đông. Cồn cỏ rộng chừng 4 km2; Địa hình đồi rừng, thảm cỏ, không khí trong lành; có nhiều đặc sản quý, ngon và bổ dưỡng như cua đá, chim cườm, chim én, ...
    Cồn cỏ là hòn đảo anh hùng trong chiến tranh và nay là một điểm du lịch mới lạ và hấp dẫn.
    5. Rừng nguyên sinh Rú Lịnh:
    Rú Lịnh rộng chừng 100 ha, nằm giữa 2 xã Vĩnh Hòa và Vĩnh Hiền (huyện Vĩnh Linh). Rú Lịnh phong phú và đa dạng về động thực vật, có nhiều loài rất quý hiếm. Rú Lịnh còn là nguồn nước cung cấp cho sản xuất nông nghiệp của một vùng.
    Đến với Rú Lịnh du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành của một khu rừng nguyên sinh quý hiếm còn sót lại qua chiến tranh khốc liệt.
    - Du lịch hành lang Đông Tây.
    1. Trung tâm Thương mại Lao Bảo:
    Nằm gần cửa khẩu quốc tế đường bộ giữa Việt Nam - Lào. Đây là nơi giao lưu mua bán nhộn nhịp, đa dạng hàng hóa và nhiều dịch vụ đồng bộ, liên hoàn khác của các nước Việt Nam - Lào - Thái Lan... Nơi đây đã trở thành một trung tâm Thương mại - Du lịch lớn trên Con đường Xuyên Á.
    2. Khu sinh thái nghỉ dưỡng Đăkrông:
    Với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, trữ tình; có con sông Đakrông chảy qua; có cầu treo thơ mộng, duyên dáng; có nguồn nước khoáng tự nhiên rất quý; Quốc lộ 9 đi qua và tuyến đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Đakrông là khu du lịch độc đáo, thú vị để nghỉ dưỡng và khám phá bao điều kỳ thú.
    - Lễ hội và văn hóa dân gian
    Quảng Trị là tỉnh có bản sắc văn hóa rất đa dạng, phong phú và có nét đặc thù. Điều đó thể hiện rất rõ trong các lễ hội và phong tục truyền thống. Những tiếng cồng, chiêng, đàn Aman, đàn nhị, đàn môi, trống, sáo, các làn điệu hát "oát" trong giao duyên nam nữ, Prdoak trong hát vui sinh hoạt, Adang Kon trong hát ru... được đồng bào các dân tộc cư trú tại Quảng Trị thường sử dụng.
    Ngày nay, trong hòa bình Quảng Trị đã duy trì và phát triển các lễ hội truyền thống như: Cồng chiêng, Nhịp cầu Xuyên Á, Thống nhất Non sông, Đêm Trường Sơn huyền thoại,... thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước tìm hiểu và khám phá.
    1. Tổ đình Sắc Tứ:
    Chùa tọa lạc tại xã Ái Tử, huyện Triệu Phong, được xây dựng vào năm 1739 đời Vua Lê Ý Tông; trùng tu năm 1941, xây dựng lại năm 1975.
    Chùa hiện lưu giữ một hiện vật cổ có giá trị nghệ thuật cao là pho tượng Đức Phật A Di Đà.
    2. Lễ hội La Vang:
    Nhà thờ La Vang cách Thành cổ Quảng Trị 6km về phía Tây. Tương truyền nơi đây Đức Mẹ Đồng Trinh Maria hiện hình để "cứu rỗi những linh hồn vướng nạn".
    Lễ hội La Vang diễn ra hàng năm vào trung tuần tháng 8. Cộng đồng giáo dân khắp nơi hành hương về đây tham gia lễ hội và cầu nguyện. Đây là một lễ hội khá độc đáo ở Quảng Trị.

    To be Cont...

Chia sẻ trang này