1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

D-:)D GROUP++: Đi_en_Đi ký ??ongủ Cửa Vạn - ăn Quan Lạn - tắm Cô Tô - về Hà Nội??? và ??oCôn Đảo ngu

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi D_and_D, 27/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Trong chuyến đi thăm các bảo tàng ngày Chủ nhật, 3/12/06 tới chúng ta sẽ thấy:
    Sự thể hiện, bố trí, trưng bày của Bảo tàng Dân tộc học là kết hợp giữa cộng đồng ngôn ngữ và vùng lãnh thổ.
    Hầu hết hiện vật trưng bày là hiện vật gốc, được lựa chọn bày trong 97 tủ kính lớn nhỏ khác nhau: có loại tủ 1 mặt, có loại 4 mặt, có tủ chứa nhiều hiện vật, có tủ chỉ đặt 1 hoặc vài ba hiện vật.
    Trong số đó, hơn 50 tủ có bài viết giới thiệu kèm theo. Mỗi hiện vật đều có phụ đề ghi rõ tên gọi hiện vật, đồng thời cho biết dân tộc và xứ sở sản sinh ra nó.
    Bảo tàng Dân tộc học cũng sử dụng manơcanh, bản đồ, biểu đồ, sách báo viết, ảnh, video, băng ghi âm , một số mô hình và áp phích. Mặc dù diện tích không lớn, nhưng trong nhà vẫn có một số điểm nhấn được trưng bày theo hình thức tái tạo về một tập tục hay một nét văn hoá nào đó. Người xem có thể hiểu được nội dung tái tạo không chỉ thông qua hệ thống hiện vật, mà còn có cả phim video nữa.
    Các bảng chú thích có đủ nội dung giải thích phục vụ người xem. Hơn 100 bài viết gắn với hiện vật cung cấp nhiều thông tin cần thiết và ảnh minh hoạ, nhiều pa nô có cả bản đồ. Không chỉ dùng tiếng Việt, mà còn bằng tiếng Anh, Pháp. Vì vậy, dù không cần thuyết minh viên giới thiệu, người xem vẫn có thể hiểu được đáng kể về các phần, các tủ, các hiện vật trưng bày.
    Đối với khu ngoài trời, có 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như: Nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của người Việt, nhà trệt của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ của người Gia Rai.
    Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh , các lối đi ngoằn ngoèo uốn lượn và con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ.

    To be Cont...
    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 17:35 ngày 28/11/2006
  2. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Khách tham quancó thể tiếp cận với tấm biển có nhan đề: "Việt Nam - Những chặng đường lịch sử văn hoá", qua đó nắm sơ qua thông tin về các thời kỳ lịch sử của VN, sự hội nhập, giao thoa của các dân tộc và các nền văn hoá - văn minh vào Việt Nam.

    Tấm bản đồ lớn được in màu chỉ ra sự phân bố của các dân tộc Việt Nam theo các nhóm ngôn ngữ, đồng thời có 3 mặt cắt ở các vị trí Bắc, Trung, Nam để thấy được đặc điểm cư trú của các dân tộc theo độ cao.
    Cạnh đó, có 5 biển giới thiệu chân dung 54 dân tộc theo 5 ngữ hệ: Nam á, Nam Đảo, Hmông - Dao, Thái - Ka Đai, Hán - Tạng.
    Ở đây, chỉ trong khoảng khắc, người xem có thể nhanh chóng cảm nhận được tiếng nói của từng dân tộc.

    To be Cont...
    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 14:40 ngày 28/11/2006
  3. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Để nắm trước thông tin về Các Dân tộc, các hệ ngôn ngữ tại Việt Nam, đời sống văn hoá, sản xuất, tập tục của họ. Tôi xin sơ qua một số điểm mà viện bảo tàng Dân tộc học Đang trưng bày Để Đợi bà con D&D tới xem và nghiên cứu:
    Người Việt (Kinh):
    Ngay bên lối vào phòng trưng bày này có bản giới thiệu một số thông tin chung nhất về dân tộc Việt cùng với ảnh và bản đồ.
    Chiếm khoảng 87% dân số toàn quốc. Người Việt sinh sống trên khắp cả nước song tập trung ở đồng bằng, trung du và ven biển. Tổ tiên của dân cư Việt - Mường đã hình thành Nhà nước đầu tiên của mình vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên. Người Việt luôn là trung tâm liên kết các dân tộc anh em để cùng dựng nước và giữ nước.
    Làng là đơn vị cư trú cơ bản, nơi sản xuất nông phẩm, làm thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ. Làng xã được tổ chức chặt chẽ với bộ máy quản lý theo lệ tục. Làng thường có đền thờ Thành hoàng và các danh nhân văn hoá, lịch sử... Làng là một cơ cấu duy trì cơ cấu xã hội và văn hoá truyền thống.
    Đô thị xuất hiện sớm và ngày càng phát triển, trở thành các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá. Người Việt sớm chọn lọc để tiếp thu văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ và văn hoá phương Tây đồng thời bảo tồn, phát triển tiếng nói và những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Chữ Hán, chữ Nôm và Quốc ngữ đã lần lượt giữ vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển văn hoá quốc gia.
    Bảo tàng dành 1 không gian rộng rãi, sáng sủa và đầy ấn tượng dành cho việc tái tạo quá trình làm nón. Nón là một vật dụng gắn bó sâu sắc với người phụ nữ từ xa xưa. Nghề làm nón ở làng Chuông cũng như nghề đan đó ở làng Thủ Sỹ được tái tạo không chỉ thể hiện sự tinh tế, khéo léo, cần mẫn trong các nghề thủ công này mà còn chứng minh làng ở đồng bằng Bắc Bộ từ lâu đã có mối quan hệ kinh tế và xã hội rộng rãi trong việc làm ra sản phẩm cũng như tiêu thụ sản phẩm. Cảnh làm nón và chợ bán nón, cảnh làm đó và vận chuyển đó đi bán được thể hiện trên màn hình.
    Ngoài ra, một số nét văn hoá cổ truyền người Việt được giới thiệu trong các tủ trưng bày với chủ đề: rối nước, nhạc cụ, tín ngưỡng thờ Mẫu, các đồ chơi dân gian của trẻ em, thờ Tổ nghề hát bội.
    Một số nghề thủ công tiêu biểu như đúc đồng, chạm khắc gỗ, nghề sơn, nghề làm tranh Đông Hồ... cũng được giới thiệu. Người xem vừa được thấy một số sản phẩm của nghề thủ công, vừa được biết công cụ, dụng cụ và quy trình sản xuất. Thờ cúng tổ tiên, nét văn hoá tiêu biểu của người Việt được thể hiện qua trưng bày bàn thờ tổ tiên ở một gia đình nông dân Việt.

    To be Cont...
    Được D_and_D sửa chữa / chuyển vào 14:55 ngày 28/11/2006
  4. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ Cont.:
    Dân tộc Mường với dân số hơn 900.000 người, phân bố chủ yếu ở tỉnh Hoà Bình (trong đó nổi tiếng là 4 mường: Bi, Vang, Thành, Động) và các tỉnh Thanh Hoá, Phú Thọ, Sơn La. Người Mường làm ruộng nước trong các thung lũng với trình độ canh tác khá cao. Ngoài ra, họ còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, đánh cá, hái lượm và làm thủ công nghiệp. Làng xóm định cư ở chân núi, bên sườn đồi, gần sông suối. Chế độ nhà Lang theo hình thức thế tập là tổ chức xã hội truyền thống trước đây. Mỗi dòng họ lãnh chúa (Đinh, Quách, Bạch, Hà, Hoàng...) đều có luật lệ riêng để chi phối các bản mường thuộc phạm vi cai quản của mình. Người Mường có kho tàng văn học dân gian phong phú với những trường ca, truyện thơ nổi tiếng như Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Nga - Hai Mối..., có làn điệu Xéc Bùa, hát Ví và những điệu dân vũ đặc sắc như múa Bông, múa Quạt, múa Sạp...
    Cộng đồng Chứt gồm có 5 nhóm: Sách, Mày, Rục, A-rem, Mã Liềng. Dân số khoảng 3.000 người. Họ cư trú rải rác trong các thung lũng hẹp của dải Trường Sơn thuộc các huyện Minh Hoá, Tuyên Hoá, Bố Trạch (Quảng Bình), một số ít ở Hương Khê (Hà Tĩnh). Họ vốn là cư dân nông nghiệp nhưng do bị phân tán thành từng nhóm nhỏ, sống gần như tách biệt nhau nên sinh hoạt kinh tế và trình độ phát triển giữa các nhóm có sự chênh lệch. Người Sách sống ở vùng thấp, ngoài nương rẫy còn có ruộng nước, ruộng khô, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhà cửa của họ vững chãi, làng bản tập trung. Các nhóm khác đều ở vùng cao, trước kia sống dựa vào săn bắt và hái lượm những sản phẩm của núi rừng, đặc biệt là thịt Khỉ và bột cây Nhúc. Họ cư trú phân tán, nhà ở tạm bợ. Cách đây không lâu còn có những gia đình thuộc nhóm Rục sống trong các mái đá và hang động.
    Người Thổ là một cộng đồng thuộc các nhóm Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai - Ly Hà, Tày Poọng. Dân số khoảng 51.000 người. Họ cư trú ở miền Tây tỉnh Nghệ An (thuộc các huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con Cuông, Tương Dương) và Thanh Hoá. Tuỳ từng nơi, họ sống chủ yếu bằng nương rẫy hay bằng ruộng nước. Cây gai đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Các hình thức săn bắn bằng lưới gai được sử dụng một cách phổ biến. Người Thổ ở nhà sàn hoặc nhà trệt. Họ không làm nghề dệt, thường đem các sản phẩm từ gai đổi lấy vải hoặc quần áo may sẵn. Nam giới ăn vận như nông dân người Việt. Còn nữ giới thì ở mỗi nhóm lại có một kiểu trang phục riêng do ảnh hưởng của những dân tộc cận cư. Đồ dùng trong nhà thường đơn giản. Nhà nào cũng có võng gai và chiếc cối gỗ hình thuyền.
    To be Cont...
  5. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Cộng đồng ngôn ngữ Tày - Thái có 8 dân tộc với dân số 3,1 triệu người, chiếm 4,8% dân số cả nước. Các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chay, Giáy, Bố Y sinh sống ở miền đông bắc Bắc bộ. Còn các dân tộc Thái, Lào, Lự phân bố từ miền Tây Bắc đến miền Tây Thanh Hoá. Tổ tiên của một số dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái đã ở Việt Nam khoảng hơn 2000 năm trước. Các tộc người khác mới đến lập nghiệp cách đây vài trăm năm. Cư dân nhóm Tày - Thái có trình độ kỹ thuật cao trong canh tác lúa nước với những biện pháp dùng cày, thâm canh và hệ thống thuỷ lợi hợp lý. Một số nghề thủ công như dệt vải, dệt thổ cẩm được phát triển. Họ chưa có thiết chế gia đình phụ hệ. Từ rất sớm đã xuất hiện các tổ chức gia đình theo kiểu lãnh chúa như chế độ Quằng, Phìa, Tạo. Họ thờ cúng tổ tiên và chịu ảnh hưởng Tam Giáo (Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo) ở mức độ khác nhau. Nhiều giá trị văn hoá cổ truyền đã ảnh hưởng không ít đến các dân tộc khác. Ở nhiều vùng, tiếng Tày hay tiếng Thái trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung.
    Nhóm ngôn ngữ Ka Đai gồm có 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cờ Lao và Pu Péo. Họ cư trú ở những vùng núi cao hẻo lánh giáp biên giới phía Bắc thuộc các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang. Trong ngôn ngữ còn lại nhiều dấu vết biểu hiện mối quan hệ giữa những cư dân Đông Nam á lục địa và hải đảo. Họ sinh sống theo lối du canh, du cư. Làm nương bằng cách phát đốt, chọc lỗ tra hạt hoặc định canh định cư làm ruộng bậc thang, nương cày hay thổ canh hốc đá, trồng ngô, lúa, các cây có củ, bầu bí và cây thuốc. Kiểu nhà của các dân tộc này khá đa dạng: Nhà sàn (La Ha), nhà trệt (Cơ Lao, Pu Péo) hay nửa sàn nửa trệt (La Chí). Tuỳ theo từng nơi, y phục có màu đen hay xanh lam do nhuộm chàm hoặc màu sặc sỡ do ghép vải mà thành. Lương thực chính của họ là gạo tẻ, gạo nếp hay ngô - tuỳ theo từng điều kiện canh tác ở mỗi nhóm tộc người. Họ thờ cúng tổ tiên. Nếp sinh hoạt chịu nhiều ảnh hưởng của các dân tộc láng giềng có dân số đông như Tày, Thái, Nùng, Hmông.
    Người Dao có nhiều nhóm địa phương với sắc thái riêng thể hiện trong ngôn ngữ, trang phục nữ và phong tục, tập quán. Họ có mặt ở Việt Nam khoảng từ thế kỷ XIII, cư trú ở hầu hết các tỉnh miền núi, trung du Bắc Bộ. Người Dao ưa thích sống trong các bản riêng gồm những người đồng tộc. Họ lưu truyền Quá Sơn bảng ghi chép về lịch sử di cư của 12 họ người Dao. Trong Bình hoàng khoán điệp, Bàn Vương được coi là thuỷ tổ của cộng đồng. Tuỳ theo điều kiện của vùng cư trú, người Dao canh tác lúa nước hoặc làm nương rẫy. Họ còn trồng một số cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu có giá trị. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm khá phát triển. Một số nghề thủ công như rèn, dệt, làm giấy được chú trọng. Nhiều người giỏi việc khoan nòng súng và làm súng kíp. Họ có nhiều loại bẫy để bắt chim và thú rừng. Lễ cấp sắc là một tập tục cổ truyền, được tổ chức cho những người đàn ông từ độ tuổi trưởng thành. Vốn văn học dân gian Dao phong phú với nhiều thể loại và có giá trị về nhiều mặt.

    To be Cont....
  6. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Người Hmông có mặt ở Việt Nam khoảng thế kỷ XVIII. Hầu hết địa bàn sinh sống của họ là vùng cao biên giới, có núi non hiểm trở, đầu nguồn các con sông lớn, khí hậu thuận lợi cho việc phát triển một số loại cây đặc sản, chăn nuôi gia súc nhưng ít đất nông nghiệp. Nông phẩm có ngô, lúa, rau, đậu, lanh, bông chăn nuôi và thủ công nghiệp gia đình khá phát triển. Họ nổi tiếng về kỹ thuật khoan nòng súng kíp. Trước đây, cây thuốc phiện đã đem lại nguồn thu nhập quan trọng cho các gia đình. Bản là công xã láng giềng nhưng các quan hệ dòng họ vẫn giữ vị trí quan trọng. Những người cùng một họ có thể sinh đẻ hay chết ở nhà nhau mà không cần kiêng cữ. Người Hmông theo chế độ gia đình phụ hệ. Nam nữ lựa chọn người yêu trong số những người không cùng họ. Tục ''''''''Kéo vợ'''''''' còn được duy trì ở nhiều nơi. Ở Việt Nam có 4 nhóm Hmông chính: Hmông trắng, Hmông xanh, Hmông hoa và Hmông đen. Mỗi nhóm có sắc thái địa phương riêng thể hiện ở tiếng nói, một số phong tục tập quán và trang phục nữ.
    Người Ngái cũng như người Sán Dìu đều là cư dân nông nghiệp, nhưng cũng có một bộ phận ở ven biển và hải đảo sống bằng nghề chài lưới. Hai dân tộc này chịu ảnh hưởng không ít những yếu tố văn hóa Hán và chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa chung của miền đông bắc Bắc bộ song bản sắc của mỗi dân tộc vẫn được bảo tồn. Người Sán Dìu có cái xe quệt độc đáo, hoàn toàn bằng tre và gỗ, dùng trâu kéo để vận chuyển trong nông nghiệp. Đây là loại xe không có bánh, có thể sử dụng trong mọi địa hình. Chiếc cào làm cỏ lạc có lưỡi bằng sắt hình chữ U và có bánh xe để di chuyển cũng là một sáng tạo hiếm thấy của người Ngái và người Sán Dìu. Bên cạnh đó, cái vằng gặt lúa, cái bao dao bằng mây đều là những vật dụng tự tạo và quan trọng trong đời sống của họ. Ngư cụ có nhiều loại như thuyền, thúng, chài, lưới, vợt, ***g, giỏ... đáng chú ý là cái búa đập hà có 2 đầu nhọn. Công cụ nói chung tuy có phần đơn giản nhưng bền chắc, thích hợp với công việc của họ.

    To be Cont...
  7. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến gồm 6 dân tộc Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Cống, Si La và Phù Lá. Dân số chung khoảng 30.000 người. Một số ít có mặt ở miền núi Bắc Bộ từ rất sớm, còn phần lớn di cư tới khoảng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Họ sống rải rác trong những xóm nhỏ trên vùng núi cao ở biên giới phía Bắc. Bản làng thường ít có người dân tộc khác sống xen kẽ. Một bộ phận trong cộng đồng này làm nương rẫy du canh và sống du cư. Một bộ phận khác, tiêu biểu là người Hà Nhì, giỏi khơi mương làm thuỷ lợi canh tác lúa nước trên những tràn ruộng bậc thang hoặc làm nương định canh và sống định cư. Họ có thiết chế gia đình phụ hệ chặt chẽ. Một vài dân tộc còn tồn tại tập quán đặt tên người theo quy tắc ''''''''phụ tử liên danh''''''''. Nhà ở chủ yếu là nhà trệt, song cũng có một bộ phận ở nhà sàn hoặc nửa sàn, nửa trệt. Tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng tổ tiên. Hàng năm, mỗi bản đều tổ chức lễ cúng thần Thổ địa. Người Lô Lô vẫn lưu giữ một vài dấu tích về chữ tượng hình và tập quán đánh trống đồng trong tang lễ.
    Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me ở miền Bắc có 5 dân tộc: Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng và Ơ Đu dân số chung khoảng 65.000 người. Họ là cư dân sống lâu đời ở vùng núi giữa và vùng cao từ tây bắc Bắc Bộ đến miền tây Nghệ An. Họ canh tác lúa rẫy, chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát triển nghề đan mây tre, thành thạo săn bắn, hái lượm và kiếm cá trên sông suối. Họ có truyền thống ở nhà sàn, mái uốn hình mai rùa, đầu đốc có trang trí khau cút (dạng sừng trâu và dương xỉ). Các gia đình nhỏ phụ hệ quy tụ thành từng bản trên sườn núi. Riêng người Mảng cư trú rất phân tán, nhà cửa đơn sơ. Đó là dấu ấn của nếp sống du canh, du cư. Do quá trình chung sống lâu đời trên cùng địa bàn, văn hoá Thái đã xâm nhập vào mọi mặt nếp sống của cộng đồng cư dân này. Đồng thời cũng không ít những thành tố văn hoá truyền thống của họ đã hội nhập vào đời sống của người Thái láng giềng. Điều đó thể hiện trong kiến trúc và trang trí nhà ở, trong trang phục và trong một số trường ca, truyện cổ...

    To be Cont...
  8. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me ở Miền núi Đây là phần trưng bày về văn hoá 5 dân tộc ở miền Bắc (Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu) và 15 dân tộc ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên (Bru - Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Hrê, Co, Gié - Triêng, Xơ Đăng, Ba Na, Rơ Măm, Brâu, Mnông, Cơ Ho, Mạ, Xtiêng, Chơ Ro). Thuộc không gian trưng bày này có 6 panô giới thiệu về các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me ở miền Bắc, ở Trường Sơn - Tây Nguyên về nông nghiệp nương rẫy, về nhà cửa và tín ngưỡng. Bên ngoài các tủ kính còn có hiện vật để trên các giá đỡ và treo ở tường. Văn hoá truyền thống của các cư dân này đa dạng, có nhiều nét rất đặc sắc. Người ta còn thấy được những dấu ấn của văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh trên miền Thượng. Mặc dù cách bố trí trưng bày có tạo nên sự phân cách nhất định giữa các tộc người ở miền Bắc và các tộc người ở Trường Sơn - Tây Nguyên nhưng vẫn dễ nhận ra những điểm thống nhất, tương đồng bên cạnh các đặc điểm tộc người và khu vực. Các chủ đề chính ở đây là: trang phục phụ nữ Khơ Mú, Mảng, các vật dụng hàng ngày của các dân tộc Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu..., vỏ bầu trong đời sống, vật dụng bằng vỏ cây, các loại gùi, nghề dệt vải, nhạc cụ... Có 3 tủ giới thiệu về từng tiểu vùng: bắc Trường Sơn, bắc Tây Nguyên, nam Tây Nguyên và đông Nam Bộ. Có riêng một tủ lớn giới thiệu về người Xơ Đăng. Lễ hội lớn nhất của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên là lễ hội đâm trâu cúng thần. Do đó, lễ hội đâm trâu của người Ba Na được lấy làm chủ đề tái tạo ở đây và được thể hiện trên băng video.
    Nhóm Môn - Khơ Me ở Trường Sơn - Tây Nguyên Ở Trường Sơn - Tây Nguyên, có 15 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me. Với dân số chung khoảng 730.000 người, họ cư trú chủ yếu trong một vùng lịch sử văn hoá từ tây Quảng Bình đến miền đông Nam Bộ. Họ có truyền thống canh tác lúa rẫy theo hình thức luân khoảnh. Một số nơi có ruộng sình, canh tác theo hình thức ''''''''trâu quần và sạ giống''''''''. Ở miền trung và nam Tây Nguyên, phổ biến hình thức gia đình mẫu hệ. Các dân tộc ở bắc Trường Sơn theo chế độ gia đình phụ hệ. Ngoài ra, ở một số nơi còn gặp những trường hợp không thuộc hẳn về hình thức nào. Vốn văn hoá cổ truyền đặc sắc và phong phú biểu hiện ở các sử thi, tập quán pháp ca, truyện cổ ở lễ hội đâm trâu, nghi lễ đoạn tang ở kiến trúc nhà dài, nhà rông, nhà mồ và nghệ thuật cồng chiêng.... Bên ngoài các tủ kính còn có hiện vật để trên các giá đỡ và treo ở tường. Văn hoá truyền thống của các cư dân này đa dạng, có nhiều nét rất đặc sắc. Người ta còn thấy được những dấu ấn của văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh trên miền Thượng. Mặc dù cách bố trí trưng bày có tạo nên sự phân cách nhất định giữa các tộc người ở miền Bắc và các tộc người ở Trường Sơn - Tây Nguyên nhưng vẫn dễ nhận ra những điểm thống nhất, tương đồng bên cạnh các đặc điểm tộc người và khu vực. Các chủ đề chính ở đây là: trang phục phụ nữ Khơ Mú, Mảng, các vật dụng hàng ngày của các dân tộc Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu..., vỏ bầu trong đời sống, vật dụng bằng vỏ cây, các loại gùi, nghề dệt vải, nhạc cụ... Có 3 tủ giới thiệu về từng tiểu vùng: bắc Trường Sơn, bắc Tây Nguyên, nam Tây Nguyên và đông Nam Bộ. Có riêng một tủ lớn giới thiệu về người Xơ Đăng. Lễ hội lớn nhất của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên là lễ hội đâm trâu cúng thần. Do đó, lễ hội đâm trâu của người Ba Na được lấy làm chủ đề tái tạo ở đây và được thể hiện trên băng video.

    To be Cont...
  9. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:
    Ngữ hệ Nam Đảo ở miền núi Tại cao nguyên miền Trung có 4 dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Đảo: Gia Rai, Ê Đê, Raglai và Chu Ru, tổng số khoảng trên 300.000 người. Đây là những dân tộc đang bảo lưu khá đậm nét những truyền thống văn hoá mẫu hệ và những dấu tích của văn hoá biển. Sự phân bố của họ nối liền với địa bàn cư trú của người Chăm, tạo thành vùng văn hoá Nam Đảo ở Đông Dương trong lịch sử. Những dân tộc này có mặt ở đây từ rất sớm, nhưng chắc chắn là sau những cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me và trước sự hình thành Vương quốc Chăm-pa. Họ trồng lúa rẫy theo chế độ luân canh. Ruộng lúa nước trâu quần xuất hiện ở những vùng sình lầy nhưng không nhiều. Việc mua bán theo phương thức trao đổi sản phẩm vẫn tồn tại đến ngày nay. Làng là đơn vị dân cư tự quản, là tổ chức xã hội cổ truyền cơ bản dựa trên nền tảng của các đại gia đình mẫu hệ. Đời sống vận hành theo phong tục, tập quán. Tính cộng đồng làng tuy rất cao nhưng sự phân hoá giàu nghèo trong mỗi làng cũng đã rõ.
    Chăm, Hoa, Khơme Người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo, người Hoa nói ngôn ngữ Hán người Khơ Me thuộc ngữ hệ Nam Á. Mỗi dân tộc được giới thiệu trên 1 panô riêng và có thêm 1 panô thứ tư về kiến trúc chùa tháp và đạo Phật Tiểu thừa. Một số nét văn hoá của mỗi dân tộc được giới thiệu thích hợp. Với người Chăm là tôn giáo, nghề dệt, nghề gốm, hình thức vận chuyển bằng xe bò... Với người Hoa là đám cưới, hội múa lân... Với người Khơ Me là tôn giáo, chữ viết, nghề nhuộm vải, lụa và nông cụ... Bên cạnh người ********* cư, văn hoá của 3 dân tộc này giữ vai trò quan trọng và hiện diện tập trung ở vùng ven biển nam Trung Bộ và ở Nam Bộ

    To be Cont...
  10. D_and_D

    D_and_D Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    D:-)D GROUP++ NEWS Cont.:

    Trong chuyến thăm bảo tàng Dân tộc học sáng chủ nhật, ngày 3/12/06 tới này, các bạn sễ thấy những hiện vật khổng lồ, đó là những ngôi nhà của các dân tộc Việt Nam. Nếu ai chưa có dịp đi xa, đến đây bạn sẽ hình dung được về kiến trúc đặc thù của từng dân tộc.
    Đó là trưng bày về ngôi nhà dài Ê-đê, nhà sàn Tày, ngôi nhà nửa sàn và nửa trệt của người Dao, nhà mái lợp bằng gỗ pơ-mu của người Hmông, ngôi nhà Việt với mái lợp ngói, ngôi nhà mồ Gia-rai, nhà Rông của người Ba-na, ngôi nhà Chăm và ngôi nhà đất trình tường của người Hà Nhì. Trong tương lai, Bảo tàng dự định trưng bày ngôi nhà mồ của dân tộc Cơ-tu và khuôn viên hoàn thiện của ngôi nhà Việt. Một số loại cây thuộc địa phương của mỗi ngôi nhà cũng được mang đến và trồng cho khách thăm quan.
    To be Cont...

Chia sẻ trang này