1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐẶC TRƯNG ĐẤT SÀIGÒN

Chủ đề trong 'Đất Sài Gòn' bởi vyhuynh, 09/06/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Chuyện đường xá
    Trước 1956 tất cả những con đường Sàigòn đều mang tên Tây -- năm 1950 vua Bảo Đại trở về nước (vua Bảo Đại đã thoái vị Vua vào Tháng Tám năm 1945), danh vị "Sa Majesté Bao Dai, Roi d''Annam" nay đổi là " Son Excellence Bao Dai, Chef d''Eùtat." Chính quyền quốc gia phôi thai; để làm vui lòng Quốc Trưởng Bảo Đại người Pháp đổi tên đường Lagrandiere thành đường Gia Long, năm ấy họ chỉ đổi tên có một con đường này thôi.
    Những con đường lớn, nhỏ Sàigòn đều mang tên Tây, nhiều nhất là tên những tướng lãnh Pháp đã đem quân đến đánh chiếm Nam Kỳ, tiếp đó là tên những văn quan Pháp sang cai trị Đông Dương, tên những vị linh mục Gia Tô truyền giáo: Charner, Bonard, Kitchener, Général Lizé, Général Paul Blanchy, Colonet Boudonnet, Colonel Grimaud, Catinat, Chasseloup-Laubat, MacMahon, Galliéni, Pèllerin, Frère Louis, Frère Denis, Frère Guillerault, Génibrel, Taberd..vv?
    Dân Sàigòn khó nói những tên Tây dài lòng thòng, như Lagrandière: La Le Nhe, đường Eryaud des Verges -- ta đổi là đường Trương Minh Giảng -- được phát âm là đường E-ô đề Oẹc, đuờng Đít-mút: Dixmude, ta là đường Đề Thám, đường Rem: Reims, ta là đường Huỳnh Thúc Kháng, đường Đọt-me: D''Ormay: Nguyễn văn Thinh, đường Ô Đui: Audouit, Cao Thắng vv?Những tên đường tương đối dễ cho người Việt gọi là đường May-dze: Mayer, Hiền Vương, đường Li-dzê: Général Lizé, đường Phan Thanh Giản, đường Năng-xi: Nancy, Cộng Hòa..vv..
    Tháng Giêng 1956 ông Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống, việc thay tên đường phố Sàigòn được chính phủ quốc gia làm ngay.
    Những nhân vật lịch sử được chọn, được để tên đúng chỗ: Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Lý Thường Kiệt, Trần Quang Khải, Lê Lai, Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Cô Giang, Cô Bắc..
  2. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Thành phố Sàigòn ta có mấy "Bà?" Thành phố Sàigòn ta có nhiều "Bà" lắm -- có thể nói thành phố Sàigòn ta là thành phố có nhiều "Bà" nhất thế giới: Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân -- Tân Định -- Bà Triệu ở Quận Năm, Bà Huyện Thanh Quan ở Quận Ba, rồi các Bà Hạt, Bà Hom, Bà Ký, Bà Lài, không kể những Bà không có tiếng Bà đứng đầu, như các Bà: Âu Cơ, Đoàn Thị Điểm, Bùi Thị Xuân, Hồ Xuân Hương, Sương Nguyệt Ánh..
    Bà Sương Nguyệt Ánh ở khu đối diện với Vườn Tao Đàn mà cụ thân sinh của bà là cụ Đồ Chiểu ở mãi tận khu chợ Tân Định, thương bà khó đi lại thăm cụ Đồ, còn bà Bùi Thị Xuân ở cạnh bà Sương Nguyệt Ánh, nhưng phu quân của Bà, Tướng Quân Trần Quang Diệu, nằm tít bên chợ Trương Minh Giảng, hai ông bà ở thật xa nhau. Ông bà là đôi danh tướng của Nhà Tây Sơn, bà Bùi Thị Xuân chỉ huy quân chống lại quân Vua Gia Long, bà bị Vua Gia Long bắt và giết bằng cách cho voi giày.
    1956, ủy ban đã chọn tên bà Bùi Thị Xuân để đặt tên đường trong khi phải chờ cho đến năm 1960 khu nhà bên chợ Trương Minh Giảng được giải tỏa, lập ra con đường Trương Tấn Bửu nối dài, sau đó mới thay tên con đường Trương Tấn Bửu nối dài này là đường Trần Quang Diệu. Cho thấy SaiGòn ta đã tỏ ra coi trọng bà Bùi Thị Xuân hơn ông chồng bà.
  3. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Như vậy Sài Gòn ta có ba cặp vợ chồng được đặt tên đường:
    -- Ông bà Lạc Long Quân-Âu Cơ.
    -- Ông bà Thi Sách-Trưng Vương.
    -- Ông bà Trần Quang Diệu-Bùi Thị Xuân.
    Ông Nguyễn Thái Học và Cô Giang chưa phải là vợ chồng
    Thành phố Sài Gòn ta có bốn nhà hai cha con có tên đường:
    -- Cha con ông Nguyễn Phi Khanh-Nguyễn Trãi.
    -- Cha con ông Đặng Tất-Đăng Dung.
    -- Cha con ông ông Nguyễn Cảnh Chân-Nguyễn Cảnh Dị.
    -- Cha con ông Phan Thanh Giản- Phan Tôn- Phan Liêm.
    Hai ông Phan Tôn, Phan Liêm cùng tử trận trong những trận đánh lại quân Pháp xâm lược nước ta.
    Sàigòn ta có hai Công Chúa:
    -- Công Chúa Huyền Trân, Công Chúa Ngọc Hân.
    (Đường Công Chúa Huyền Trân của ta trước năm 1956 là đường Miss Cawell, tên một nữ y tá người Anh phục vụ quân đồng minh trên đất Pháp trong Thế Chiến Thứ Nhất.)
    Sàigòn ta có hai Cô:
    -- Cô Giang, Cô Bắc.
  4. saigon_thu7

    saigon_thu7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2004
    Bài viết:
    61
    Đã được thích:
    0
    Mình ko biết Tôn Thất Thuyết Tôn Thất thiệp Tôn Thất Đạm có fải cha con ko mà sao 3 đườnng này nằm gần nhau???
  5. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Tìm hiểu nguồn gốc tên thành phố chúng ta: Sài Gòn
    Nước ta có cuộc Nam Bắc phân tranh bắt đầu từ năm 1627. Cai trị Đàng Trong là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên. Ông là con của Nguyễn Hoàng, lên thay cha cầm quyền từ 1613 và từ trần năm 1635. Ông vừa lo xây dựng miền Nam, vừa phải đối phó với miền Bắc, vừa tiếp tục kiếm cách mở đường Nam tiến.
    Nguyên vào năm 1611, người Chăm đem quân tấn công miền biên giới, Nguyễn Hòang cử chủ sự Văn Phong cầm quân, đẩy người Chăm xuống tới núi Đèo Cả, lấy vùng đất mới đặt làm phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân (phía tây) và Tuy Hòa (phía đông). Nói cách khác, biên giới phía nam nước ta thời Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên mới chỉ ngang Phú Yên mà thôi.
    Phía nam Phú Yên, từ Bình Định ngày nay vào đến Bình Thuận ngày nay là nước Champa. Phía nam Champa, tức phía nam Bình Thuân ngày nay, vùng châu thổ hạ lưu sông Cửu Long, là nước Chân Lạp (Cambodia). Vùng nầy thật ra, thời xa xưa là nước Phù Nam (Funan), một vương quốc hiện diện từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ sáu. Vào giữa thế kỷ thứ 6, Chân Lạp đem quân xâm lăng và sáp nhập Phù Nam. Địa bàn gốc của Chân Lạp cao nên gọi là Lục Chân Lạp. Nước Phù Nam cũ, thấp, thường ngập lụt, nên gọi là Thủy Chân Lạp.
    Người Chăm vốn rất thiện chiến, lại thường hay chống đối nước ta. Nếu trong lúc giao thương với Bồ Đào Nha, người Chăm liên kết với người Bồ và được người Bồ trang bị võ khí tối tân, để chống lại Đại Việt, thì thật là nguy hiểm, chẳng những cho xứ Đàng Trong và còn nguy hiểm cho cả nước ta. Sãi Vương, với một tầm nhìn chiến lược hết sức xa rộng, đã hóa giải ngòi thuốc nổ phương nam, hết sức êm thắm.
    Trước đây, không có tài liệu nào ở trong nước, kể cả Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, viết về các hoạt động ngoại giao của Sãi Vương trong giai đoạn người Tây phương mới xuất hiện. Theo giáo sư Phan Khoang, trong Việt sử xứ Đàng Trong, lúc nầy có hai điểm đáng chú ý sau đây: Thứ nhất, bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên, khi viết về bốn người con gái của Sãi Vương, đến mục ?oNgọc Vạn? và ?oNgọc Khoa?, đã ghi rằng: ?oKhuyết truyện?, tức thiếu truyện, nghĩa là không có tiểu sử của hai người nầy. Thứ hai, dựa vào tài liệu Chân Lạp và Pháp, ông Phan Khoang phát hiện ra rằng có một công nữ, con của Sãi Vương, đã qua Chân Lạp làm hoàng hậu năm 1620. Căn cứ trên hai yếu tố nầy, ông Phan Khoang đoán rằng hoàng hậu Chân Lạp lúc đó phải là một trong hai cô gái của Sãi Vương, nhưng không biết là người nào?
    Tài liệu gần đây, bộ gia phả của gia đình chúa Nguyễn, ấn hành năm 1995, cho biết Sãi Vương đã gả người con gái thứ nhì là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II (trị vì Chân Lạp 1618-1628) năm 1620; và đã gả người con gái thứ ba là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Champa là Poromê (trị vì Champa 1627-1651) năm 1831. Sách Thế phả không cho biết lý do, cũng như diễn tiến hai cuộc hôn nhân nầy.
    Đưa hai người con gái ra nước ngoài làm hoàng hậu hai vương triều lân bang, là hai quyết định ngoại giao thầm lặng của Sãi Vương, để theo dõi hoạt động của các nước chung quanh, và nhất là hoạt động của người Tây phương tại vùng Đông Nam Á. Có thể Sãi Vương không muốn làm ồn ào hai cuộc hôn nhân nầy, mà chỉ lặng lẽ tổ chức hôn lễ cho hai con, nên các bộ chính sử nhà Nguyễn không viết ra.
  6. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Cuộc hôn nhân của Ngọc Vạn cho thấy rõ cả hai bên Đàng Trong Đại Việt và Chân Lạp đều muốn dựa vào nhau để tồn tại. Vua Chân Lạp là Chey-Chetta II (trị vì 1618-1628) muốn cầu thân với Đàng Trong để chống lại áp lực của Xiêm La (Thái Lan). Lúc đó, Sãi Vương mới lên cầm quyền, tình hình giao thiệp với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài bắt đầu căng thẳng. Những tin tức về sự xuất hiện của người Tây phương làm cho nhà chúa càng thêm lo ngại. Ông gả con gái mình để tạo quan hệ ngoại giao trong khu vực, và đồng thời để hướng đến một tương lai xa cho đất nước. Đoàn tùy tùng của bà Ngọc Vạn khá đông đảo. Có người sẽ giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình Chân Lạp. Riêng bà Ngọc Vạn, bà lập một xưởng thợ và nhiều hiệu buôn tại gần kinh đô. Rồi đây, bà Ngọc Vạn sẽ cho chính quyền Đàng Trong nhiều tin tức quan trọng về tình hình chính trị Chân Lạp
  7. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Ba năm sau cuộc hôn nhân của bà Ngọc Vạn (1620), Sãi Vương cử một sứ bộ sang Chân Lạp (Cambodia) năm 1623, xin vua Chey-Chetta II nhượng cho người Việt khu dinh điền ở vùng Mô Xoài, gần Bà Rịa ngày nay. Nhờ sự vận động của hoàng hậu Ngọc Vạn, vua Chân Lạp đồng ý cho người Việt đến đó canh tác.
    Đây là lần đầu tiên người Việt chính thức đặt chân lên đất Chân Lạp. Mô Xoài là bàn đạp để người Việt dần dần tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1698, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (cầm quyền 1691-1725) cử Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất Chân Lạp, lúc đó vẫn còn phần đất đồng bằng sông Cửu Long. Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Đồng Nai (người Hoa gọi là Nông Nại) đặt thành huyện Phước Long, lấy đất Sài Côn đặt thành huyện Tân Bình. Hai huyện này được đặt dưới quyền của phủ Gia Định.
    Cuối cùng, người Việt tiến xuống tới mũi Cà Mau vào khoảng giữa thế kỷ 18. Năm 1744, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (cầm quyền 1738-1765) cải tổ hành chánh, chia Đàng Trong làm 12 dinh, trong đó có 3 dinh thuộc Chân Lạp cũ là Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định), và Long Hồ (Vĩnh long).
    Đất Sài Côn thuộc dinh Phiên Trấn, nguyên là một thị trấn nhỏ trước khi người Việt đến định cư. Theo ông Vương Hồn Sển, trong sách Sài Gòn năm xưa, ấn hành ở Sài Gòn năm 1960, thì địa danh nguyên thủy của đất này là Sài Gòn, theo cách đặt tên của người Chân Lạp, nhưng khi phiên âm qua chữ Nho (chữ Hán), thì người ta đọc là Sài Côn.
    Ngay từ khi người Việt đến định cư, do vị trí địa lý thuận lợi, Sài Gòn biến thành trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế của toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1731 (tân hợi), để thống nhất sự lãnh đạo quân đội Việt ở tại đây, chúa Nguyễn lập Sở Điều khiển ở Sài Côn hay Sài Gòn (Gia Định). Khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân chạy vào Nam năm 1775, Sài Côn trở thành thủ phủ mới của chúa Nguyễn. Lực lượng nhà Tây Sơn nhiều lần đánh chiếm miền Nam, cũng đặt bộ chỉ huy tại Sài Côn.
  8. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Tìm hiểu nguồn gốc tên thành phố chúng ta: Sài Gòn - Hòn Ngọc Viễn Đông. (tt)
    Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm Sài Côn năm 1787, ông ra lệnh xây thành Sài Côn năm 1790 theo kiểu Tây Phương, gần như bát giác, được gọi là "Quy thành" (thành rùa, vì có hình dáng như con rùa), còn có tên là "Gia Định kinh". Tại đây, chúa Nguyễn đặt triều đình và bộ chỉ huy các chiến dịch hành quân chống Tây Sơn. Thành rất kiên cố, được xây bằng đá ong Biên Hòa, cao khoảng 4,8m., có tám cửa ra vào, nằm ở thôn Tân Khai, tổng Bình Dương lúc đó. Thành nằm ở khu vực bao quanh bằng các đường ngày nay là Lê Thánh Tông (đông), Nguyễn Đình Chiểu (sau 1975, tây), Đinh Tiên Hoàng (bắc), và Nam Kỳ Khởi Nghĩa (sau 1975, nam). (Nguyễn Đình Đầu dịch của Trương Vĩnh Ký, Ký ức về Sài Gòn và các vùng phụ cận, Nxb Trẻ, TpHCM, 1997, tt. 9 và 53.)
    Sài Gòn, Sài Côn hay Gia Định kinh không phải chỉ thuận lợi trong giao thông nội bộ, mà còn thuận lợi trên hải trình đông tây và bắc nam. Sài Gòn gần như nằm giữa con đường từ Ấn Độ qua Phi Luật Tân, từ Trung Hoa xuống Indonesia. Vì vậy, chẳng bao lâu, Sài Gòn trở thành một hải cảng quốc tế sầm uất, giúp chúa Nguyễn phát triển nền kinh tế. Nhờ vậy, Nguyễn Phúc Ánh mới có điều kiện tăng cường quân lực, tiến đánh nhà Tây Sơn.
    Sau khi thống nhất đất nước và lên ngôi vua năm 1802, vua Gia Long chia nước thành ba phần: Bắc Thành, Trung ương và Gia Định Thành. Gia Định Thành từ phía nam Bình Thuận trở vào. Thủ phủ của Gia Định Thành là thành Gia Định hay Sài Côn hoặc Sài Gòn.
    Năm 1832, trong đợt cải tổ hành chánh, vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định Thành, nhưng Gia Định vẫn giữ vai trò trung tâm của miền Nam. Năm 1859, Pháp đánh chiếm Gia Định, và tự động công bố Sài Gòn là hải cảng thương mại tự do ngày 22-2-1860. Trong bốn tháng đầu tiên, 60,000 tấn gạo đã được xuất cảng. Đến cuối năm đó thì có 111 tàu Âu Châu, 140 thuyền buồm Trung Hoa và gần 100,000 tấn hàng đã xuất cảng.
    Sau khi triều đình Huế ký hòa ước 1874, nhượng toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, tổng thống Pháp ký sắc lệnh ngày 8-1-1877, chính thức thành lập thành phố Sài Gòn. Thành phố Sài Gòn được xếp vào loại thành phố lớn (grande municipalité), hoặc thành phố hạng nhất (municipalité de première classe).
    Pháp bảo hộ Việt Nam bằng hòa ước 1884, thành lập Liên Bang Đông Dương ngày 17-10-1887. Đứng đầu Liên bang Đông Dương là viên toàn quyền (gouverneur général), do tổng thống Pháp bổ nhiệm. Ngày 12-11-1887, tổng thống Pháp ra sắc lệnh đặt Sài Gòn làm thủ phủ của Liên Bang Đông Dương và đặt phủ toàn quyền tại Sài Gòn.
    Hiệp định Genève chia hai đất nước ở vĩ tuyến 17. Chính phủ quốc gia, và sau đó các chính phủ Cộng Hòa, đã chọn Sài Gòn làm thủ đô của miền Nam. Như thế, dầu nhiều lần đổi chủ, Sài Gòn vẫn giữ tên Sài Gòn và luôn luôn giữ vai trò chính trị, kinh tế, văn hóa, quan trọng chẳng những trong toàn quốc mà cả Đông Nam Á nữa. Trước năm 1975, các nước Đông Nam Á đã mệnh danh Sài Gòn là ?oHòn ngọc Viễn đông?.
    (sưu tầm)
    Được co sửa chữa / chuyển vào 03:12 ngày 16/09/2006
  9. CO

    CO Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/01/2002
    Bài viết:
    991
    Đã được thích:
    0
    Tôn Thất Thiệp (1870-1888) là con trai thứ của Tôn Thất Thuyết. Cùng anh trai Tôn Thất Đạm, ông là một trong những chỉ huy của phong trào Cần Vương.
    Ngày 4 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết cho quân đánh úp vào trại lính và Tòa Khâm sứ Pháp nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết chạy ra thành Quảng Trị, sau đó lên Sơn Phòng Tân Sở rồi về vùng Tuyên Hoá, Quảng Bình. Tại Tân Sở vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương. Tôn Thất Đạm cùng Tôn Thất Thiệp được cha giao cho nhiệm vụ bảo vệ vua Hàm Nghi.
    Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị một thuộc hạ là Trương Quang Ngọc làm phản đem quân tới bắt. Tôn Thất Thiệp bảo vệ vua và bị giết chết trước mặt vua Hàm Nghi ngày 1 tháng 11 cùng năm tại Tuyên Hoá. Khi đó ông mới 18 tuổi.
    Ở Hà Nội, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh có những con đường được mang tên ông.
    được co sửa vào 01:34 ngày 18/05/2007
  10. donghailongvuong

    donghailongvuong Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/08/2005
    Bài viết:
    1.547
    Đã được thích:
    1
    Bác thì chưa gặp cái lạnh ở SG bao giờ, nhưng có đôi lần ở KG thì thấy hơi lành lạnh, nhà dân còn đốt lửa (hoạ huằn thôi) .
    Chắc lại thắc mắc tại sao ĐHLV lại vào đây, vì lang thang trên mạng đọc bài này về Sài Gòn thấy hay hay :
    http://dactrung.net/baiviet/noidung.aspx?BaiID=xM80PoJSkWgzAGYZaTxbgg%3d%3d
    u?c CO s?a vo 02:25 ngy 01/10/2006

Chia sẻ trang này