1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đại chiến Bắc Âu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 27/03/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Đại chiến Bắc Âu

    hôm rồi qua wikipedia thấy có bài viết quá hay về cuộc chiến này nên em xin đăng lại để mọi người hiểu rõ về tinh thần chiến đấu của quân Nga trước kẻ thù hùng mạnh và chặng đường trở thành siêu cường của Nga
    Đại chiến Bắc Âu (tiếng Anh: The Great Northern War) là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm 1715 có thêm vương quốc Phổ và Hannover (Đức). Anh và Hà Lan cũng can dự tuy không trực tiếp tham gia chiến đấu.
    Hai nước tranh chấp chính với nhau là Nga và Thụy Điển. Trong 20 năm, hai nước liên tục chiến đấu với nhau để cuối cùng quyết định số phận của cả hai đế quốc. Trong những năm đầu, từ 1700 đến 1709, Nga ở vào thế phòng thủ trong khi chuẩn bị xây dựng tiềm lực quân sự và cải tổ. Sau trận Poltava, Nga lật ngược thế cờ, nhưng hai nước vẫn tiếp tục chiến đấu với nhau: một bên bị vướng víu trong những liên minh bất lực, bên kia muốn rửa hận và phục hồi đế quốc của mình đang tan rã. Cuối cùng Nga đã bắt buộc Thụy Điển phải ký hòa ước để chính thức chấm dứt chiến tranh.

    Nguyên nhân
    Mầm mống của Đại chiến Bắc Âu phát xuất từ những lý do lịch sử và kinh tế cũng như lòng khát khao của Pyotr Đại đế (1672-1725) trong việc muốn mở đường biển cho nước Nga. Nga và Thụy Điển đã đối đầu với nhau trong nhiều thế kỷ để tranh giành vùng ven bờ vịnh Phần Lan. Kết quả cuối cùng là Thụy Điển chiếm được nhiều vùng đất thuộc Nga: Karelia và Ingria ở phía bắc và nam của sông Neva, thêm Hồ Ladoga và các pháo đài Nöteborg, Narva và Riga. Hòa ước Nga?"Thụy Điển năm 1664 ký kết giữa Sa hoàng Aleksei I của Nga (1629-1676) và vua Karl XI của Thụy Điển (1655-1697) tái xác nhận các vùng đất này thuộc Thụy Điển.

    Tuy thế, trong ý nghĩ của Pyotr Đại đế, đấy là những lãnh thổ của Nga, và Nga đang chịu thiệt hại đáng kể về kinh tế khi những vùng đất này nằm trong tay nước ngoài. Hàng hóa của Nga tuôn ra các cửa khẩu Riga, Reval và Narva bị Thụy Điển thu thuế quan nặng nề, trong khi Nga chỉ có duy nhất, cảng Arkhangelsk, hoạt động 6 tháng mỗi năm. Chung quy là do Nga thiếu đường biển, từ đó không thể phát triển mậu dịch quốc tế cũng như quân chủng hải quân để tạo uy thế trên chính trường quốc tế. Pyotr Đại đế cảm thấy khó cưỡng lại cơ hội gây chiến với quân vương thiếu niên của Thụy Điển qua liên minh với Ba Lan và Đan Mạch.

    Ý tưởng khởi động cuộc chiến là do vua Augustus II của Ba Lan, kiêm Quận công Frederick Augustus xứ Saxony, đề nghị với Pyotr Đại đế là Nga hợp lực với Ba Lan để cùng tấn công Thụy Điển, nhờ đó Ba Lan và Nga sẽ có lối thông ra Biển Baltic. Vua Augustus muốn lợi dụng cơ hội Karl XI qua đời, để lại ngai vàng cho con trai mới lên 15 tuổi là vua Karl XII (1682-1718).
    Sự khơi mào
    Chiến tranh có thể đã không xảy ra nếu không có người khơi mào, đó là Johann Reinhold von Patkul, nhà yêu nước vô tổ quốc. Ông thuộc giới quý tộc gốc Đức của Livonia, nhưng công quốc này đã rơi vào tay Ba Lan, rồi kế đến thuộc về Thụy Điển, bị tước mất quyền tự trị cha truyền con nối cho dù Karl XI của đã hứa công nhận quyền lợi của công quốc này. Livonia cử phái bộ đến Stockholm để kêu nài. Patkul là thành viên của phái bộ này. Ông không những bị bác bỏ, mà còn bị kết án tử hình khiếm diện.

    Khi Karl XI qua đời, Patkul nghĩ cơ hội đã đến. Ông thuyết phục Augustus II đánh Thụy Điển, sau đó ông hứa sẽ đặt Công quốc Livonia dưới sự bảo trợ của Ba Lan. Ngoài ra, Ba Lan còn có đường thông ra biển. Patkul cũng đến gặp vua Frederik IV của Đan Mạch và nhận được sự ủng hộ, vì Đan Mạch cũng muốn giành lại phần đất bị Thụy Điển chiếm. Kết quả là Đan Mạch và Ba Lan đồng ý hợp lực để đánh Thụy Điển bằng hai gọng kìm. Kế tiếp, Patkul đề nghị nên mời Nga tham gia cùng tấn công Thụy Điển. Qua nỗ lực vận động của Patkul, Pyotr ký một hiệp ước theo đó Nga cam kết sẽ tấn công Thụy Điển. Pyotr Đại đế đã cẩn thận không nêu ra ngày cụ thể, và có một điều khoản ghi rằng Nga sẽ tấn công chỉ sau khi đã ký với Ottoman hiệp định đình chiến.

    Trong khi Nga đang lo đạt hòa bình với Ottoman, hai đồng minh của Nga đã tấn công Thụy Điển như trù định. Tháng 2 năm 1700, Saxony tấn công Livonia và công hãm Riga nhưng bị Thụy Điển đánh bật lại. Tháng 2 năm 1700, Đan Mạch cũng công hãm thị trấn Tonning.

    Sau khi ký với Ottoman hiệp ước đình chiến, ngày 9 tháng 8 năm 1700, Nga tuyên cáo chiến tranh với Thụy Điển, giải thích mục đích của cuộc chiến tranh là để chiếm lại hai tỉnh Ingria và Karelia. Gộp lại với nhau, hai tỉnh này tạo một cửa ngõ đủ thoáng cho Nga thông ra Biển Baltic. Narva, một thị trấn và thành trì nằm trong Estonia kế biên giới Ingria, không phải là mục tiêu ban đầu của Nga; nó là một phần của lãnh thổ mà Patkul và Augustus đã chỉ định cho Ba Lan. Tuy nhiên, Pyotr thấy rằng cách đảm bảo nhất để chiếm đóng Ingria là kiểm soát thị trấn này. Vì vậy, ông điều quân đi đánh Narva, bắt đầu công hãm pháo đài này từ ngày 4 tháng 10 năm 1700.
    Cuộc chiến giữa Thụy Điển và Đan Mạch
    Ngày 16 tháng 4 năm 1700, Karl XII dẫn hạm đội Thụy Điển gồm 38 chiến hạm hợp lực với 25 chiến hạm của Anh và Hà Lan cùng 14.000 quân đánh thần tốc đến Đan Mạch. Trong lúc này, vua Frederik IV của Đan Mạch đang dẫn quân đi đánh lãnh thổ Thụy Điển ở miền nam, nên quân Đan Mạch như rắn mất đầu. Khi trở về, vua Frederik IV đành phải nhanh chóng nhận điều kiện đầu hàng
    Ngày 18 tháng 8 năm 1700, hai bên ký Hòa ước Travendal, theo đó Đan Mạch trả lại cho Thụy Điển xứ Holstein-Gottorp vừa chiếm và cam kết từ bỏ cuộc chiến chống Thụy Điển. Thế là chiến dịch đầu tiên của Karl đã thành công chớp nhoáng và gần như không bị đổ máu. Chỉ trong vòng hai tuần chinh chiến, Karl XII đã phục hồi lãnh thổ Thụy Điển bị chiếm và loại khỏi vòng chiến một kẻ địch
    Thụy Điển đánh Nga ở Trận Narva
    Karl XII định đánh Ba Lan, nhưng lúc đó Nga đã gửi thư tuyên chiến và Augustus II đã ngưng chiến dịch mà rút về trú đông. Karl XII quyết định dẫn quân hơn 10.000 quân giải vây cho Narva lúc đó đang bị 40.000 quân Nga công hãm.
    Ngày 20 tháng 10 năm 1700, đoàn quân đến Narva, và Karl XII ra lệnh tấn công ngay chứ không tổ chức phòng thủ hoặc thiết lập doanh trại trước. Quân Nga hoàn toàn bị bất ngờ, tan rã hàng ngũ mà trốn chạy. Quân Thụy Điển bị mất 31 sĩ quan và 646 binh sĩ, 1.205 bị thương. Bên Nga, ít nhất 8.000 tử trận hoặc bị thương, và người bị thương không có mấy hy vọng đi về đến quê nhà qua quãng đường dài đã đóng băng. Mười tướng lĩnh của Nga, 10 đại tá và 34 sĩ quan cấp thấp hơn bị bắt.
    Tin tức về trận chiến Narva gây ấn tượng mạnh toàn Tây Âu, nhưng tạo cho Karl ảo tưởng khiến cho ông xem nhẹ Pyotr Đại đế và khinh thường nước Nga.
    Cuộc chiến giữa Thụy Điển và Ba Lan
    Karl XII quyết định tập trung lực lượng để tận diệt Augustus II trước khi tiến công nước Nga. Năm này sang năm khác, Thụy Điển tiếp tục thắng trên vũng lầy Ba Lan, nhưng chiến thắng cuối cùng mới đến vào năm 1704. Vào tháng 2 năm 1704, Nghị viện Ba Lan quyết định truất phế vua Augustus II của họ. Karl chọn ứng viên lên ngai vàng là Stanis,aw Leszczy"ski, nhà quý tộc 27 tuổi, có trí thông minh khiêm tốn và trung thành kiên định với Karl XII.

    Hòa ước Altranstädt được Ba Lan và Thụy Điển ký vào ngày [13 tháng 10]] năm 1706, trong đó có một điều khoản Ba Lan phải giao cho Thụy Điển mọi "kẻ phản quốc" Thụy Điển đang ẩn náu ở Saxony. Tên của Patkul đứng đầu danh sách này, sau đó ông bị giao vào tay Thụy Điển. Đến tháng 10 năm 1707, ông đứng trước tòa án quân sự của Thụy Điển vốn đã nhận lệnh của Karl là phải xử cho thật nặng. Tòa án ngoan ngoãn tuân theo, xử tội hành hình bằng cách đánh gậy, chặt đầu rồi chặt cơ thể ra làm bốn. Sau cuộc hành hình, cái đầu của ông được bêu lên một cây cột dựng bên một con đường cái.
  2. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Nga đánh chiếm vùng Baltic của Thụy Điển
    Trong khi Thụy Điển đang sa lầy ở Ba Lan, Nga được rảnh tay đi đánh những lãnh thổ của Thụy Điển dọc bờ Biển Baltic.
    Pyotr Đại đế phái tướng Boris Petrovich Sheremetev dẫn quân đến đánh Livonia, được 7.000 quân Thụy Điển bảo vệ dưới quyền chỉ huy của tướng Wolmar Anton von Schlippenbach. Tháng 1 năm 1702, Sheremetev có một chiến thắng quan trọng, đánh đuổi quân Thụy Điển ra khỏi doanh trại mùa đông, và còn gây 1.000 thương vong theo như Thụy Điển nhìn nhận (phía Nga tuyên bố gây thương vong 3.000 và nhìn nhận bị thiệt hại 1.000). Quan trọng hơn theo ý nghĩa tượng trưng, quân Nga bắt được 350 tù binh Thụy Điển và giải họ về Moskva. Tinh thần của người Nga, đã xuống thấp từ Trận Narva, từ đó bắt đầu lên.
    Mùa hè kế tiếp, tháng 7 năm 1702, Sheremetev lại tấn công Schlippenbach ở Livonia, và lần này đội quân 5.000 người của Thụy Điển bị đánh gần như tan tành: 2.500 thương vong, 300 bị bắt cùng với pháo và cờ xí. Bên Nga bị mất 800 người. Sau trận này, quân cơ động của Schlippenbach không còn xuất hiện, và cả vùng Livonia xem như bỏ ngỏ ngoại trừ các căn cứ cố định Riga, Pärnu và Dorpat. Quân dưới quyền Sheremetev tự do tung hoành khắp nơi, đốt phá làng mạc và thị trấn của Thụy Điển.
    Trong lúc đó, Pyotr Đại đế cho đóng loại thuyền nhỏ trên hồ Ladoga, hồ lớn nhất châu Âu, để đánh đuổi hải quân Thụy Điển. Quân Nga áp dụng cùng chiến thuật trên hồ Peipus. Kế tiếp, Nga chiếm lấy pháo đài Thụy Điển ở Nöteborg, nơi ồ Ladoga chảy vào sông Neva, đổi tên của pháo đài thành Schlüsselburg, từ schlüssel trong tiếng Đức có nghĩa là "chìa khóa", cũng có ý nghĩa pháo đài là chìa khóa mở ra Biển Baltic. Sự thất thủ của Nöteborg/Schlüsselburg là thất bại nặng nề cho Thụy Điển vì họ đã mất đi bức tường chắn Nga tiến ra Neva và cả tỉnh Ingria.
    Mùa xuân năm sau, 1703, trong khi Karl XII vẫn còn ở Ba Lan, Pyotr Đại đế dứt khoát "không để mất thời giờ mà Thượng đế đã ban," tấn công trực diện để tạo dựng miền đất Nga trên bờ Biển Baltic. Cuối cùng, Nga kiểm soát toàn chiều dài sông Neva, và Pyotr Đại đế cho xây dựng thành phố Sankt-Peterburg ở cửa sông Neva.
    Năm 1704, Nga giành quyền kiểm soát hai thị trấn then chốt của Estonia là Dorpat và Narva. Việc này giúp củng cố chân đứng của Nga ở Ingria và ngăn chặn Thụy Điển tiến về Sankt-Peterburg từ phía tây. Chiến thắng Narva có tầm quan trọng về tâm lý cũng như chiến lược: không những che chắn cho Sankt-Peterburg ở mặt tây, mà còn chuộc lại nỗi nhục nhã bốn năm trước cũng chính ở Narva.
  3. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Thụy Điển xâm lăng Nga
    Việc truất phế Augustus II của Ba Lan đã loại ra bên thứ hai trong số liên minh ba bên chống Thụy Điển. Bây giờ, bị đơn độc phải đối mặt với Karl, Pyotr Đại đế tăng cường nỗ lực để dàn hòa với Karl II.
    Karl nhất quyết từ chối xem xét việc đàm phán với Nga. Trong giai đoạn Pyotr Đại đế đề xuất các điều kiện hòa bình và Karl bác bỏ các đề xuất này, có sự cách biệt giữa đôi bên không thể nào hòa giải được: Sankt-Peterburg. Pyotr có thể từ bỏ mọi thứ miễn là được giữ Sankt-Peterburg để có lối cho Nga thông ra biển. Karl không muốn từ bỏ thứ gì khi chưa đánh gục quân đội Nga. Vì thế, chiến tranh tiếp tục trên danh nghĩa Sankt-Peterburg ?" lúc này chỉ mới là một số ngôi nhà gỗ, một pháo đài xây bằng đất và một bến cảng thô sơ.
    Từ tháng 1 năm 1707, Pyotr Đại đế ra lệnh lập một vành đai tàn phá hầu tạo khó khăn cho quân Thụy Điển. Ở vùng tây Ba Lan nơi quân Thụy Điển sẽ đi qua trước khi vào Nga, kỵ binh đã nhận lệnh đi tàn phá: đốt cháy thị trấn Ba Lan, phá dỡ cầu, san thành bình địa làng mạc và thị trấn.
    Ngày 27 tháng 8 năm 1707, Karl XII kéo quân ra khỏi rời Saxony (Đức) để bắt đầu một cuộc phiêu lưu lớn lao nhất trong đời ông. Đầu năm 1708, quân Thụy Điển đặt chân lên bờ đông của sông Vistula.
    Pyotr ra lệnh tiếp tục tàn phá một vùng rộng lớn của chính đất Nga để Thụy Điển không thể thu hoạch được gì bất kể họ tiến quân theo hướng nào. Dọc mọi con đường dẫn từ doanh trại Thụy Điển hướng về bắc, đông hoặc tây, quân Nga tạo một vòng đai vườn không nhà trống dài gần 200 kílômét từ Pskov cho đến Smolensk. Trong vành đai này, mọi nhà cửa, mọi mẩu thức ăn cho người hoặc ngựa phải bị đốt trụi ngay khi Karl tiến quân.
    Karl XII tự chỉ huy có 35.000 quân. Cánh quân 12.000 người của Adam Ludwig Lewenhaupt đã được lệnh đến điểm hẹn với đại quân, còn cánh quân 14.000 người của Lybecker từ Phần Lan đã nhận lệnh di chuyển xuống Sankt-Peterburg. Nếu thành công, lực lượng này có thể chiếm Sankt-Peterburg, nếu không cũng có thể làm nghi binh để cầm chân một số quân của Pyotr.
    Lực lượng của Nga đông hơn nhiều. Tổng cộng trên đường vòng cung chặn hướng tiến của Thụy Điển, Pyotr Đại đế chỉ huy khoảng 57.500 quân. Ngoài ra, Fyodor Matveyevich Apraksin chỉ huy 24.500 quân trấn giữ Sankt-Peterburg, và tướng Bauer nắm 16.000 quân đóng ở Dorpat để ngăn chặn Lewenhaupt ở Riga. Các lực lượng này sẵn sàng đối phó với những động thái khác nhau của Thụy Điển. Một lực lượng khác gồm 12.000 quân dưới quyền Hoàng thân Mikhail Mikhailovich Golitsyn trấn đóng gần Kiev để đón đầu địch quân tiến về Ukraina.
    Nga có tổng cộng 110.000 quân so với 62.000 quân của Thụy Điển. Sự khác biệt này không có ý nghĩa nhiều ngoại trừ yếu tố là trong cuộc chiến dằng dai, bên Nga có thể thay thế dễ dàng số thương vong.
    Trong chuỗi tiến công của Thụy Điển, quân Nga luôn tạo một lá chắn giữa quân Thụy Điển và đường dẫn đến thủ đô Moskva. Các trận đánh nổi tiếng là trận Golovchin ngày 3 tháng 7 năm 1708, trận Molyatychy ngày 9 tháng 7 năm 1708, và trận Lesnaya ngày 28 tháng 9 năm 1708. Trong trận Lesnaya, mỗi bên có khoảng 12.000 quân giao chiến; Nga bị tổn thất khoảng một phần ba, nhưng Thụy Điển mất phân nửa. Sau này, Pyotr gọi là trận Lesnaya "Bà Mẹ của Trận Poltava."
    Trận đánh lớn quyết định là trận Poltava ngày 28 tháng 6 năm 1709 giữa hai đoàn quân hùng hậu. Tổng cộng, lực lượng Thụy Điển tung ra để tấn công 42.000 quân Nga chỉ có 19.000 người. Riêng trong cuộc giáp lá cà, 5.000 bộ binh Thụy Điển mệt mỏi vì đói kém và bệnh tật, không có pháo, giao chiến với 24.000 quân Nga có 70 khẩu pháo. Thụy Điển bị tổn thất 10.000, gồm 6.901 tử trận và bị thương, 2.760 bị bắt làm tù binh. Trong tổng số 42.000 quân Nga, 1.345 chết và 3.290 bị thương. Số thương vong và kết quả đều đảo ngược tất cả các trận đánh trước đó giữa Thụy Điển và Nga.
    Với sự truy kích của quân Nga, ngày 1 tháng 7 Lewenhaupt mang 14.288 người và 34 khẩu pháo ra đầu hàng mà không chống cự gì cả.
    Rồi quân Nga tiếp tục truy kích đường rút lui của Karl XII lúc ấy đang cố tẩu thoát qua Ottoman. Thêm một trận tàn sát, để rồi cuối cùng Karl XII chỉ còn có 600 quân khi đi vào Ottoman xin ẩn náu.
  4. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Nga khai thác thành quả
    Mùa xuân 1710, Nga gặt hái thành quả của chiến thắng Poltava. Không còn bị quân Thụy Điển ngáng trở, quân Nga tung hoành khắp các tỉnh vùng Baltic của Thụy Điển. Trong khi Bá tước Boris Petrovich Sheremetev công hãm Riga, Đại tướng-Đô đốc Fyodor Matveyevich Apraksin công phá Vyborg ở miền bắc. Thị trấn này là một pháo đài quan trọng và là điểm tập kết cho quân Thụy Điển để đe dọa Sankt-Peterburg.
    Ngày 13 tháng 6 năm 1710, thị trấn Vyborg rơi vào tay Apraksin. Sau đó, việc càn quét và chiếm đóng cả Eo đất Karelian đã tạo nên một vùng đệm sâu 160 kílômét cho Sankt-Peterburg, có nghĩa là thành phố này không còn sợ bị Thụy Điển tấn công bất ngờ từ phía bắc.
    Kế tiếp, mọi thành trì của Thụy Điển dọc bờ nam của Biển Baltic đều đầu hàng trong mùa hè 1710. Ngày 10 tháng 7, thành phố Riga rộng lớn rơi vào tay Sheremetev sau cuộc công hãm kéo dài 8 tháng.
    Mặc dù Nga đã ký hiệp ước với Ba Lan quy định Livonia và Riga thuộc về Ba Lan, bây giờ Pyotr Đại đế cho rằng Nga đã đổ máu để chiếm lấy tỉnh và thành phố này trong giai đoạn Augustus II không còn là vua của Ba Lan và đồng minh của Nga, vì vậy các lãnh thổ này phải thuộc về Nga.
    Ba tháng sau khi Riga thất thủ, Reval ?" thành quả cuối cùng của Poltava ?" cũng đầu hàng. Pyotr vui mừng tột độ: "Livonia và Estonia hoàn toàn vắng bóng quân thù. Nói tóm lại, quân thù bây giờ không có một tấc đất nào trên bờ trái của Biển Baltic. Bây giờ là tùy chúng ta phải cầu xin Thượng đế cho nền hòa bình ổn định."
  5. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Chiến tranh tiếp tục
    Đêm 10 tháng 11 năm 1714, Karl XII từ Otroman về đến thị trấn Stralsund. Sau 15 năm đi vắng, vua Thụy Điển đã trở về lãnh thổ thuộc Thụy Điển. Ông vẫn muốn tiếp tục chiến tranh. Vào mùa hè 1715 liên quân Phổ?"Đan Mạch?"Saxony gồm 55.000 người tấn công Stralsund. Ngày 22 tháng 12 năm 1715, Stralsund đầu hàng. Trước đó, Karl đã được đưa về chính quốc. Bốn giờ sáng ngày 24 tháng 12 năm 1715, sau 15 năm và 3 tháng vắng bóng, nhà vua Thụy Điển đặt chân trở lại trên đất nước của ông.
    Karl tạo dựng một đoàn quân mới rồi dẫn đi đánh Đan Mạch. Vì một cơn giông làm mặt băng bị vỡ, ông chuyển hướng đi đánh miền nam Na Uy, lúc này còn là một tỉnh của Đan Mạch. Ông chiếm được thành phố Kristiania (hiện nay là thủ đô Oslo của Na Uy), nhưng phải rút quân về vì thiếu hàng hậu cần.
    Mùa thu 1716, trong khi liên minh Anh, Hà Lan, Đan Mạch và Nga chuẩn bị đánh Thụy Điển bằng hải quân, Karl chia quân ra trấn giữ và củng cố các pháo đài. Nhưng ngày 17 tháng 9, Pyotr tuyên bố bãi bỏ cuộc tiến công vì cho rằng đã quá muộn, phải hoãn đến năm sau.
    Trong mùa hè 1718, hai bên Thụy Điển và Nga mở nhiều vòng đàm phán nhằm chất dứt chiến tranh, nhưng Karl không hề có ý định hòa hoãn với Nga. Đối với Karl đàm phán chỉ là để kéo dài thời gian nhằm đảm bảo Nga sẽ không tấn công chính quốc Thụy Điển, để ông rảnh tay hành quân nơi khác. Karl nhận ra rằng Nga quá mạnh, nên ông không thể trực diện đánh bật Nga ra khỏi các lãnh thổ đã bị Nga chiếm. Ông muốn đánh gục Đan Mạch trước qua ngả Na Uy, rồi sẽ tính đến Bắc Đức. Từ vị trí được củng cố này, ông định dẫn quân đi đánh Nga lần nữa.
    Trong khi đàm phán đang tiếp tục, vào đêm 30 tháng 11 năm 1718, Karl XII tử trận khi đang dẫn quân công hãm pháo đài Frederiksten ở Na Uy. Sau khi đã đi vắng khỏi chính quốc Thụy Điển trong 18 năm, cuối cùng Karl đã vĩnh viễn trở về nước.
  6. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Vương quốc Anh can dự
    Với cái chết của Karl, Anh quốc thấy một tình hình hoàn toàn mới mẻ ở vùng Baltic. Vua George I của Anh hoạch định một kế sách nhằm duy trì thế lực của Thụy Điển đủ mạnh để Nga không trở nên quá hùng mạnh ở Baltic. Phương cách của ông là thay đổi mối liên minh gồm Nga, Ba Lan, Đan Mạch, Hanover và Phổ đang chống lại Thụy Điển.
    Qua đường lối ngoại giao khôn khéo của Anh, từng đồng minh của Nga lần lượt được thuyết phục, mua chuộc hoặc chịu áp lực mà phải hòa hoãn với Thụy Điển và quay lưng với Nga:
    Hanover ký hòa ước chính thức với Thụy Điển, qua đó tiếp nhận Bremen-Verden sau khi trả cho Thụy Điển một khoản tiền.
    Sau đó, George I ký liên minh với Thụy Điển cam kết mỗi năm điều một hạm đội hỗ trợ Thụy Điển ở Biển Baltic và giúp Thụy Điển đạt một hòa ước thuận lợi với Nga.
    Vua Friedrich Wilhelm I của Phổ bị cám dỗ ?" rồi cuối cùng ngả theo ?" với lời hứa chiếm được vĩnh viễn cảng Stettin giúp mở đường thông thương cho vương quốc của ông ra biển, cộng thêm một phần đất Pomerania của Thụy Điển.
    Đan Mạch bị dẫn dụ hòa hoãn với Thụy Điển vì Thụy Điển đồng ý trả phí cho tàu của Thụy Điển đi qua hải phận Đan Mạch và thôi ủng hộ Holstein-Gottop, là vùng đất đang tranh chấp giữa hai nước.
    Kế tiếp, vua Augustus II ký hòa ước với Thụy Điển, được công nhận tước vị vua của Ba Lan.
    Phương tiện chính yếu để thực hiện sách lược chống Nga của Anh là một hạm đội hùng hậu Anh hiện diện trên Biển Baltic. Lẽ tự nhiên là Nga tỏ ra nghi ngờ và lo ngại về động thái của hạm đội Anh. Để tỏ lộ nỗi bất mãn, Sa hoàng ra lệnh hai đại sứ Anh và Hanover rời khỏi Sankt-Peterburg.
    Nga đánh phá chính quốc Thụy Điển
    Trong khi các tấn trò ngoại giao khúc mắc của Anh đang diễn ra sau lưng mình và các vòng đàm phán giữa Nga và Thụy Điển không đi đến kết quả nào, Pyotr xúc tiến việc đánh bại Thụy Điển trên chiến trường.
    Mùa hè năm 1719, hạm đội Nga đánh phá vùng bờ biển phía đông của Thụy Điển, đốt phá thị trấn, nhà máy và xưởng lọc sắt, bắt giữ một số tàu của Thụy Điển chở quặng sắt rồi mang số tàu này về Nga, tịch thu được 300 khẩu pháo. Thêm một cuộc tấn công của Nga vào Stockholm, nhưng lại bị đánh bật ra. Cùng lúc, một lực lượng khác của Nga đánh phá và gây tổn thất tương tự cho vùng bờ biển của Thụy Điển phía Bắc, phá hủy nhà máy, kho tàng, và đốt phá 3 thị trấn.
    Mùa xuân năm 1720, trong khi hạm đội Anh đang biểu dương lực lượng ngoài khơi, đội thuyền ga-lê của Apraksin đã đi vòng và một lần nữa tiến đánh bờ biển Thụy Điển. Một lực lượng gồm 8.000 quân, kể cả Cossack, đổ bộ và xâm nhập vào đất liền đến 45 kílômét mà không gặp sức kháng cự nào, thỏa sức đốt phá thị trấn và làng mạc Thụy Điển.
    Vào giữa mùa hè 1720, chính sách chống Nga của George I ở trên bờ vực thất bại. Tư lệnh hạm đội Anh chỉ huy những chiến hạm lớn không muốn chạm trán với thuyền ga-lê của Nga trong vùng biển cạn. Vì vậy, trong khi chiến hạm của Anh tuần tiễu ngời khơi Biển Baltic hoặc trú đóng trong các cảng của Thụy Điển, thuyền ga-lê của Nga vẫn chèo lên xuống dọc bờ biển Thụy Điển, đổ quân lên đốt phá và cướp bóc tùy thích.
    Cuối cùng, vào tháng 9 năm 1720, khả năng của Anh can dự mạnh mẽ về quân sự ở vùng Baltic bị tiêu tán bởi cuộc khủng hoảng kinh tế ở Anh. Sir Robert Walpole, thường được gọi là "Thủ tướng đầu tiên" của Anh, chủ trương tránh chiến tranh, khuếch trương thương mại, cho rằng cái trò nửa chiến tranh nửa hòa bình với Nga là nguy hiểm cho tương lai phồn vinh của Anh. Vua George I phiền lòng, nhưng cũng thấy rằng chính kế hoạch của mình chống Nga không đạt hiệu quả.
    Hòa ước chấm dứt chiến tranh
    Chẳng bao lâu, vua Frederik I của Thụy Điển nhận ra tình thế mới. Thất vọng vì sự hỗ trợ bất lực của George I và nhận ra rằng nếu tiếp tục tình trạng chiến tranh thì Nga sẽ tiếp tục đánh phá chính quốc Thụy Điển, Frederik I phải chấp nhận thực tế là Thụy Điển đã chiến bại. Frederik I thông báo với Sa hoàng là ông sẵn sàng mở lại cuộc đàm phán, và hai bên gặp nhau ngày 28 tháng 4 năm 1721. Nhưng vòng đàm phán đầu bị bế tắc vì tranh cãi về lãnh thổ.
    Một lần nữa Sa hoàng ra lệnh tấn công dọc bờ biển Thụy Điển. Nhiều thị trấn và hàng trăm làng mạc bị tàn phá dọc bờ biển dài hơn 600 kílômét. Dù cuộc tấn công này có mức độ nhỏ hơn năm trước, Thụy Điển không thể tiếp tục chịu đựng được nữa. Frederik I cuối cùng nhượng bộ. Hòa ước Nystad giữa Nga và Thụy Điển được chính thức ký kết ngày 14 tháng 9 năm 1721.
    Hòa ước Nystad nhượng cho Pyotr các lãnh thổ mà Pyotr Đại đế đã ước muốn từ lâu. Livonia, Ingria và Estonia được nhượng vĩnh viễn cho Nga, cùng với Karelia kéo dài đến Vyborg. Phần còn lại của Phần Lan được trả lại cho Thụy Điển. Nga đồng ý trả một khoản tiền để bồi thường cho Livonia, và Thụy Điển được mua nông sản ở Livonia mà không phải trả thuế. Mọi tù binh của hai bên đều được trả tự do. Sa hoàng cam kết không can dự vào nội bộ của Thụy Điển, do đó công nhận Frederik I là vua của Thụy Điển.
    Đánh giá
    Chiến tranh Vĩ đại miền Bắc tạo nên bước ngoặc cực kỳ quan trong cho châu Âu nói riêng và cho cả thế giới nói chung. Từ một đế quốc hùng mạnh, Thụy Điển bị giảm uy thế rất nhiều, bị mất tất cả đất đai trên lục địa châu Âu. Ngược lại, nước Nga từ vị trí dường như tụt hậu cả trăm năm so với Tây Âu, vươn mình lên hàng cường quốc.
    Chiến tranh Vĩ đại miền Bắc đã tạo cho Pyotr cơ hội xây dựng nên thành phố Sankt-Peterburg, trong 200 năm tiếp theo đó là thủ đô của Đế quốc Nga.
    Trận Poltava là trận đánh quyết định kết quả chung cuộc về sau của Chiến tranh Vĩ đại miền Bắc, và là tiếng sấm đầu tiên báo hiệu với thế giới rằng một nước Nga mới đã được khai sinh. Ngay sau Hòa ước Nystad giữa Nga và Thụy Điển được ký kết, Sa hoàng Pyotr I được chính thức tôn vinh là Pyotr Đại đế, và những quân vương Nga từ lúc đó cho đến Cách mạng Nga năm 1917 đều xưng là hoàng đế, ngang hàng với những đế quốc hùng mạnh như Trung Hoa, Ba Tư, Ottoman và Pháp.
    Trong những năm về sau, các chính khách Tây Âu ?" vốn chỉ để tâm đến những sự vụ của Sa hoàng hơn một chút so với Hoàng đế Ba Tư hoặc Đại vương Ấn Độ ?" biết rằng phải cân nhắc cẩn thận sức mạnh và quyền lợi của Đế quốc Nga. Cán cân quyền lực mới ?" được thiết lập Chiến tranh Vĩ đại miền Bắc ?" sẽ được tiếp nối và phát triển suốt các thế kỷ 18, 19 và 20.
  7. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Poltava là trận đánh lớn ngày 28 tháng 6 năm 1709 giữa hai đoàn quân hùng hậu: quân Nga do Pyotr Đại đế đích thân chỉ huy, và quân Thụy Điển do chính vua Karl XII của Thụy Điển cầm đầu. Trận đánh kết thúc với phần chiến thắng hiển hách về phía Nga, chấm dứt cuộc xâm lăng của Thụy Điển vào lãnh thổ Nga.
    Trận Poltava diễn ra trong cuộc Đại chiến Bắc Âu do liên minh các nước Nga, Đan Mạch và Ba Lan cùng chống lại Thụy Điển.
    Diễn biến khởi đầu
    Sau kỳ nghỉ đông, vào đầu tháng 4 năm 1709, Karl XII đang đàm phán với Hãn vương Tatar và Hoàng đế Ottoman, cùng lúc đang chờ viện binh của Thụy Điển và Ba Lan đến để cùng hợp lực tiến công vào Nga. Trong khi chờ đợi, Karl XII chuyển quân xuống hướng nam, đến vị trí dự kiến viện binh từ Ba Lan và Ottoman sẽ tiến đến.
    Poltava là một thị trấn nhỏ nhưng quan trọng về thương mại, cách Kiev 360 kílômét về hướng đông-nam. Một bên thị trấn là hai đỉnh của dốc đứng nhìn xuống một khu đầm lầy rộng của sông Vorskla, một nhánh quan trọng của sông Dnepr. Karl XII quyết định công hãm Poltava dưới quyền chỉ huy phòng ngự của Đại tá Kelin để kiểm soát địa điểm chiến lược này. Ngày 1 tháng 5 năm 1709, việc công hãm bắt đầu rồi kéo dài 6 tuần.
    Trong lúc ấy, dọc con sông theo bờ đông của sông Vorskla, các lực lượng của Nga cũng đang tập trung đến. bộ binh dưới quyền Nguyên soái Boris Petrovich Sheremetev, kỵ binh dưới quyền Hoàng thân Aleksandr Danilovich Menshikov, và pháo binh do Tướng Bauer chỉ huy.
    Các đội kỵ binh của Nga và Thụy Điển chạy dọc theo hai bờ đối diện của con sông, chạm trán với nhau hàng ngày. Tuy có quân số áp đảo, các tướng lĩnh Nga không biết phải làm gì. Họ được Kelin báo rằng ông chỉ có thể cầm cự đến cuối tháng 6. Menshikov và Sheremetev không muốn để mất thị trấn, nhưng không được chuẩn bị để giao chiến toàn diện. Menshikov báo tin cho Pyotr Đại đế lúc đó đang trên đường từ Azov đến.
    Ngày 4 tháng 6, Pyotr đến. Thói quen của ông là bổ nhiệm một trong những tướng lĩnh làm Tư lệnh chiến trường và chỉ nhận nhiệm vụ phó tướng, nhưng lần này ông đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Tối cao. Pyotr mang đến 8.000 quân mới được tuyển mộ để bổ sung vào hàng quân bây giờ chuẩn bị đánh lớn. Sự hiện diện của ông cũng nâng tinh thần cho binh sĩ. Pyotr thấy sách lược của ông đã thành tựu: kẻ thủ đã bị cô lập, vị mọi ngả đường dẫn đến Poltava đã có quân Nga đóng chốt.
    Pyotr và các tướng lĩnh thấy việc Poltava thất thủ chỉ còn là vấn đề thời gian. Nếu rơi vào tay Thụy Điển, thị trấn này có thể là trung tâm điểm thu hút các lực lượng mà Karl XII mong đợi ?" và Pyotr kiêng dè ?" để tiếp tay cho vua Thụy Điển và có thể mở đường cho ông dẫn quân tiến đến Moskva. Pyotr và các tướng lĩnh đi đến quyết định lịch sử: để giảm áp lực ở Poltava và ngăn chặn sự thất thủ của thị trấn này, đại quân Nga sẽ được tung vào. Nhưng quân Nga cần phải qua bên bờ tây để tham chiến. Vào đêm 14 tháng 6, đội quân đầu tiên tổ chức vượt sông bị đánh lui. Nhưng Pyotr đã quyết tâm. Đại tá Kelin ở Poltava báo cáo rằng ông khó cầm cự được lâu thêm, và Pyotr quyết định phải hành động ngay.
    Bên Thụy Điển biết rõ về việc vượt sông ở Petrovka. Trong các đêm 15-16 tháng 6, quân Thụy Điển được lệnh túc trực ứng chiến, dự định đợi khi một phần quân Nga đã sang sông thì dùng quân số áp đảo đánh lùi xuống sông. Nhưng trước khi kế hoạch tác chiến của Thụy Điển được triển khai, tai họa giáng xuống.
    Ngày 17 tháng 6 năm 1709 là sinh nhật thứ 27 của Karl XII. Sáng hôm ấy, nhà vua cưỡi ngựa đến phía nam Poltava để thị sát chiến trường thì bị một viên đạn nòng dài của Nga bắn trúng. Tin tức về việc Karl XII bị thương lan nhanh khắp các doanh trại của Thụy Điển, một cú sốc cho toàn quân. Vết thương tiếp tục nung mủ, Karl XII lên cơn sốt cao, và tình trạng viêm lan thêm. Khi nghe tin Karl XII bị thương, Nguyên soái Carl Gustaf Rehnskiöld tham khảo ý kiến các sĩ quan dưới quyền và quyết định không tấn công phía bắc như phương án đã định.
    Vào buổi chiều 17, Pyotr được tin Karl XII bị thương. Ông lập tức truyền lệnh vượt sông. Ngày 19 tháng 6, kỵ binh Nga vượt qua sông Vorskla mà không bị quấy nhiễu, và nhanh chóng lập phòng tuyến ở Semenovka. Trong các ngày 19-21 thàng 6 ?" trong khi Karl XII đang nằm như chết ?" toàn bộ quân Nga di chuyển từ đông sang bờ tây, rồi xây phòng tuyến.
    Ngày 22 tháng 6, quân Thụy Điển chỉnh đốn lại tinh thần. Karl XII vẫn còn bị bệnh nặng, nhưng đã bớt sốt và tính mạng không còn bị đe dọa. Vào thời gian này, Karl XII nhận được tin cho biết viện binh Ba Lan và Thụy Điển sẽ không đến, còn bộ tộc Tatar bị Ottoman cấm hợp tác với Thụy Điển nên cũng không thể hội quân.
    Cùng lúc, tình trạng quân Thụy Điển đang trở nên ngày một tồi tệ thêm. Đoàn quân đang bị tiêu hao dần trong các cuộc đụng độ lẻ tẻ hàng ngày mà không có người bổ sung. Thực phẩm cạn dần vì vùng chung quanh đã bị vét sạch; thuốc súng bị ẩm ướt; không có đủ đạn cho súng nòng dài. Cả đoàn quân lừ đừ và uể oải vì sức nóng mùa hè. Karl XII muốn dốc tất cả sức mạnh còn lại để tung vào trận chiến để tháo gỡ thế bế tắc. Ông dự định đánh một cú bất ngờ.
    Pyotr muốn lợi dụng quân số áp đảo để buộc Thụy Điển phải tấn công một phòng tuyến vững chắc của Nga, nên ông chuẩn bị cho tình huống như thế. Đêm 26 tháng 6, quân Nga từ trại Semenovka di chuyển về hướng nam và lập một doanh trại mới chỉ cách thành Poltava 6 kílômét về phía bắc. Ở đây, binh sĩ Nga làm việc cật lực ngày đêm, lập nên một tường thành bằng đất nện hình vuông.
    Pyotr có thêm một số biện pháp phòng vệ. Mũi tiến công của Thụy Điển sẽ phải xuất phát theo con đường từ Poltava đi lên. Cách doanh trại gần 2 km về phía nam, khu đất bằng phẳng thu hẹp lại và con đường đi qua giữa rừng và vực núi phía đông và đầm lầy phía tây. Ngang khoảng giữa này, Pyotr cho đắp 6 tiền đồn nhỏ bằng đất nện, mỗi tiền đồn có 700 quân trú phòng cùng với 2 đại bác. Phía sau 6 tiền đồn này, Pyotr bố trí 7 trung đoàn kỵ binh với 13 khẩu pháo ngựa kéo, do Menshikov, tướng kỵ binh Carl Evald Ronne người Đức và Bauer chỉ huy. Toàn lực lượng trú phòng trong tiền đồn và kỵ binh này sẽ báo động và tạo phòng tuyến thứ nhất đế tiếp chiến bất kỹ mũi tiến công nào của Thụy Điển hướng ra khu đất bằng phẳng.
    Ngày 26 tháng 6, Pyotr tuyên cáo với toàn quân:
    "Hỡi binh sĩ: giờ khắc đã điểm khi số phận của tổ quốc ta nằm trong tay các người. Nước Nga hoặc sẽ tiêu tán hoặc sẽ hồi sinh trong huy hoàng hơn. Binh sĩ không nên nghĩ mình chiến đấu cho Pyotr, mà cho chế độ của Sa hoàng được nhân dân giao phó cho Pyotr? Phải biết rằng ông ấy không quý trọng sự sống của mình, nhưng nên hiểu rằng nước Nga phải trường tồn trong tình hiếu thảo, thanh danh và phồn thịnh."
    Chiều ngày Chủ nhật 27 tháng 6 năm 1709, Karl XII triệu các tướng lĩnh và đại tá đến để truyền lệnh về kế hoạch cho trận đánh ngày hôm sau. Ông tuyên bố rằng Pyotr có quân số đông hơn, nhưng có thể khắc phục điểm này nếu áp dụng chiến thuật táo bạo. Có khả năng đánh bại quân Nga và còn có thể tóm được một chiến lợi phẩm vĩ đại: Pyotr Đại đế.
    Thụy Điển bây giờ chỉ còn 25.000 quân, hơn phân nửa quân số so với lúc tiến vào đất Nga hai năm trước. Nhiều binh sĩ đã giảm sức chiến đấu do chiến thương và hoại tử mùa đông vừa qua. Bá tước Đại tướng Adam Ludwig Lewenhaupt, người sẽ chỉ huy bộ binh, muốn tung toàn bộ lực lượng vào trận chiến, nhưng Karl XII bác bỏ. Cần phải duy trì 2.000 quân công hãm Poltava để ngăn chặn quân phòng ngự xông ra trợ chiến bên Nga. Còn phải cắt cử 2.500 kỵ binh để bảo vệ hàng hậu cần. Thêm một lực lượng gồm 1.500 quân được phân tán rải rác dọc theo sông Vorskla phía dưới thị trấn để tuần tiễu đề phòng quân Nga vượt sông ở vùng này. Đội quân Cossack gồm 6.000 người không được phân nhiệm vụ tác chiến, vì nhà vua thấy rằng tính vô kỷ luật của họ sẽ chỉ làm rối loạn hàng ngũ của binh sĩ Thụy Điển đã được huấn luyện thành thục. Tổng cộng, lực lượng Thụy Điển tung ra để tấn công 42.000 quân Nga chỉ có 19.000 người.
    Khi Karl XII trở thành một thương binh, chức vụ tư lệnh mặt trận đương nhiên được giao cho Nguyên soái Rehnskiöld, có địa vị cao nhất dưới Karl XII. Rehnskiöld là con người nóng tính, bị than phiền là cao ngạo và thô lỗ. Đặc biệt, Rehnskiöld không ưa thích Lewenhaupt nên không màng nói cho Lewenhaupt biết cần phải làm gì.
    Phương án tác chiến mà Karl XII và Rehnskiöld vạch ra là mở cuộc tấn công thần tốc trước bình minh khiến cho quân Nga bị bất ngờ, rồi đi nhanh qua các tiền đồn, phó mặc hỏa lực của quân phòng ngự. Sau đó, quân Thụy Điển sẽ rẽ sang trái và tiến đến khu đất bằng phẳng phía trước doanh trại của đại quân Nga. Bộ binh sẽ đi dọc bờ tây của đồng bằng đến vị trí tây bắc của quân Nga, trong khi kỵ binh Thụy Điển sẽ quét sạch kỵ binh của Pyotr. Khi đã đi đến vị trí giữa quân Nga và vùng nước cạn ở Petrovka, cả quân Thụy Điển sẽ di chuyển về bên phải và lập đội hình cho trận đánh lớn. Nếu kế hoạch này thành công, quân Nga sẽ bị ép lưng vào bờ sông dốc đứng và quân Thụy Điển trong tư thế sẵn sàng chiến đấu sẽ chặn đường rút lui ở Petrovka. Nếu quân Nga không muốn giáp chiến, họ cứ việc cố thủ mà chết đói.
    Trong số 30 khẩu pháo còn sử dụng được, phần lớn sẽ được để lại. Đây một phần là do quyết định của Rehnskiöld. Ông có tâm lý thường thấy ở kỵ binh là không thích sử dụng pháo, và tin rằng kéo pháo qua các tiền đồn chỉ làm chậm bước tiến nhanh mà ông đòi hỏi. Hơn nữa, sẽ không có thời giờ để đặt vị trí pháo mà khai hỏa; và cũng vì phần lớn thuốc súng đã bị hư hỏng do thời tiết ẩm ướt trong mùa đông vừa qua. Do vậy, quân Thụy Điển chỉ mang theo 4 khẩu pháo.
    Lúc nửa đêm, binh sĩ Thụy Điển thành lập đội hình. Cũng trong đêm này, quân Nga đang cật lực đào đất để xây một dãy bốn tiền đồn mới nằm thẳng góc với 6 tiền đồn trước. Các tiền đồn mới này hướng thẳng theo con đường đi xuống Poltava về phía doanh trại Thụy Điển, và sẽ phân mũi tấn công của Thụy Điển ra làm hai nhánh hai bên dãy tiền đồn, hướng hỏa lực vào bên sườn quân Thụy Điển đi ngang qua họ.
    Yếu tố bất ngờ cho Thụy Điển đã mất. Thời gian còn lại rất ít. Rehnskiöld muốn chớp thời cơ mà ra lệnh tấn công như đã dự trù; nếu không sẽ phải bãi bỏ cả phương án tác chiến. Karl XII đồng ý, và mệnh lệnh được ban hành nhanh chóng để chỉnh sửa phương án tác chiến ban đầu. Các tiểu đoàn bộ binh giờ được chia ra năm cánh quân, trong đó bốn cánh quân tiến nhanh qua các tiền đồn mặc cho hỏa lực của địch, rồi tập họp lại ở khu đất bằng phẳng theo như kế hoạch ban đầu. Cánh quân thứ năm, gồm 4 tiểu đoàn, được lệnh tấn công 4 tiền đồn mới. Vì thế, mũi tiến công tiền phong của Thụy Điển sẽ bị dãy tiền đồn phân làm hai nhánh giống như nước chảy giữa các tảng đá phải chia làm hai dòng, và đội theo sau phải đánh phá và nếu được, tràn ngập các tiền đồn này.
    Khi bộ binh Thụy Điển vẫn còn đang lập đội hình thì đại pháo Nga trong các tiền đồn phía trước đã khai hỏa, giết chết một đại úy và sáu binh sĩ. Nhất thiết phải tiến quân ngay. Lúc 4 giờ sáng, khi mặt trời vừa ló dạng trên ngọn cây, việc điều quân đã xong, Rehnskiöld ra lệnh tiến quân.
  8. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Poltava bắt đầu
    Bộ binh Thụy Điển tiến về hướng các tiền đồn của Nga, sau họ là kỵ binh đi chậm để không vượt qua bộ binh. Phần lớn đều không để ý đến các tiền đồn, nhưng khi cánh quân trung tâm tiến đến tiền đồn đầu tiên, quân Thụy Điển tràn lên các công sự bằng đất nện chưa hoàn tất, dùng lưỡi lê chiến đấu giáp lá cà với quân phòng ngự. Hai tiền đồn đầu thất thủ. Vài đại đội sau khi đã chiếm được hai tiền đồn đầu tiên gia nhập vào hàng quân tiến qua bên trái, trong khi những người khác chuẩn bị hỗ trợ tấn công tiền đồn thứ ba đang bị hai tiểu đoàn dưới quyền Trung tướng Carl Gustaf Roos công hãm. Chính trong cuộc tấn công tiền đồn thứ ba và thứ tư mà vấn đề nguy hiểm phát sinh. Quân trú phòng tiền đồn thứ ba chống trả một cách kiên cường, đẩy lui đợt tấn công thứ nhất. Quân Thụy Điển kéo đến thêm, và cuối cùng 6 tiểu đoàn tụ tập trước chướng ngại vật này.
    Vấn đề nằm ở chỗ Rehnskiöld đã giữ kín phương án tác chiến chứ không phổ biến cho người dưới quyền. Roos không hề hiểu rằng mục tiêu chính của mình chỉ là cầm chân hỏa lực của các tiền đồn trong khi các cánh quân khác tìm cách vượt qua. Điều ông đáng lẽ phải làm khi bị đánh bật lại là rút lui rồi di chuyển đến điểm hẹn ở khu đất bằng phẳng phía sau các tiền đồn. Thay vào đó, ông chỉnh đốn hàng ngũ rồi tấn công đợt nữa. Bị đánh bật lần thứ hai, ông kiên quyết điều thêm quân để rồi 6 tiểu đoàn ?" 2.600 quân ?" của lực lượng bộ binh quý giá bị vướng vào chướng ngại vật không quan trọng này. Roos chỉ nhìn thấy mục đích duy nhất là chiếm lấy tiền đồn mà không hề biết những gì đang xảy ra với đoàn quân còn lại hoặc họ đang ở đâu. Vì thế, trong giai đoạn đầu của cuộc tấn công, ông đã phạm lỗi lầm căn bản.
    Khi giao tranh đang xảy ra quanh các tiền đồn, hai cánh kỵ binh Nga dưới quyền Menshikov thình lình xông ra từ các tiền đồn để đuổi đánh bộ binh Thụy Điển. Kỵ binh Thụy Điển tiến đến tiếp chiến, và 20.000 quân hai bên hỗn chiến giữa các tiền đồn Nga. Menshikov gửi tin khuyên Pyotr nên lập tức điều toàn quân ra ứng chiến dọc theo các tiền đồn. Pyotr vẫn còn e ngại sức mạnh của Thụy Điển và không mấy tin quân của Menshikov có thể chiến đấu giỏi đến thế, nên hai lần ra lệnh cho vị tướng cứng đầu của ông phải rút lui. Cuối cùng, Menshikov đành phải tuân hành, chuyển kỵ binh về hướng bắc, giao phần lớn cho Bauer về sườn bên phải của doanh trại Nga (Ronne đã bị thương), còn ông dẫn một cánh quân nhỏ hơn lui về sườn bên trái. Từ bên trong doanh trại, đại pháo Nga bắn ra tạo thành bức màn che chở kỵ binh Nga và ngăn chặn kỵ binh Thụy Điển đuổi theo.
    Cùng lúc, việc Rehnskiöld không thông báo kế hoạch tác chiến cho sĩ quan dưới quyền đang tạo nên hoang mang nơi khác. Sáu tiểu đoàn bộ binh bên cánh phải dưới quyền Lewenhaupt, có mục đích chỉ đi qua các tiền đồn để tụ họp với đại quân ở khu đất bằng phẳng, trở nên rối loạn vì màn khói và bụi mù do trận giao tranh kỵ binh tạo ra, cùng lúc hứng chịu hỏa lực từ các tiền đồn. Để bảo toàn lực lượng, Lewenhaupt di chuyển đội hình xa hơn về bên phải, tránh xa khỏi màn bụi khói và tầm bắn của Nga. Do việc di chuyển này, ông đã tạo ra một lỗ hỗng lớn trong hàng ngũ Thụy Điển. Thật ra, vì không được thông báo và cũng không quan tâm đến mục đích tổng thể của Rehnskiöld, Lewenhaupt chỉ muốn dẫn quân của mình tiến về phía trước để giao chiến với đại quân của địch. Sau khi qua khỏi tiền đồn, ông dẫn quân đi xa về bên phải vì thấy địa hình bên này có vẻ bằng phẳng hơn. Với mỗi bước đi, ông và sáu tiểu đoàn càng đi xa khỏi đội hình chính.
    Lewenhaupt tiến thẳng đến doanh trại chính của Nga được bố phòng vững chãi. Lúc này cả doanh trại đã chuẩn bị sẵn sàng, và khi đội quân của Lewenhaupt tiến đến, đại pháo Nga bắn về phía họ. Nhưng Lewenhaupt, mãn nguyện vì được tác chiến độc lập, không hề sợ hãi mà xua 6 tiểu đoàn tấn công lên theo như sách vở chỉ dạy. Nhưng khi tiến đến tầm đạn súng nòng dài, ông thấy có một khe núi ngăn cản hướng tiến của mình. Không hề nhụt chí, ông điều động quân đi vòng quanh chướng ngại vật này, vẫn phấn khích chuẩn bị cầm đầu 2.400 người đánh vào 30.000 quân Nga.
    Trong lúc đó, bên trái của các tiền đồn và ở về phía xa, chủ lực quân của Thụy Điển chỉ có ba sư đoàn đã tiến theo kế hoạch ban đầu, vì do chính Rehnskiöld chỉ huy. Họ tiến nhanh qua các tiền đồn, hứng chịu tổn thất nhưng nhanh chóng tập họp lại ở khu đất bằng phẳng. Các sĩ quan đi với Rehnskiöld tỏ ra hồ hởi: mọi việc đều diễn ra như kế hoạch ban đầu.
    Không may là, khi Rehnskiöld nhìn quanh để tìm kiếm các cánh quân còn lại, ông không thấy ai cả. Mười hai tiểu đoàn ?" lực lượng dưới quyền Lewenhaupt và Roos ?" đã mất tích. Trong chốc lát, vị trí 6 tiểu đoàn của Lewenhaupt được tìm ra: xa về phía trước và ở bên phải, đã hứng chịu hỏa lực quá mạnh và phải đi vòng quanh khe núi ở góc tây-nam của doanh trại Nga. Rehnskiöld vội gửi liên lạc viên ra lệnh cho Lewenhaupt lập tức quay về hợp lực với đại quân. Khi nhận được lệnh, Lewenhaupt nổi giận nhưng đành phải bất mãn mà dẫn quân quay về.
    Bây giờ là 6 giờ sáng. Đối với Thụy Điển, họ có một khoảng thời gian yên ắng trong trận đánh. Đại quân ?" với Rehnskiöld, nhà vua, kỵ binh và một phần ba của bộ binh ?" đã di chuyển về hướng tây-bắc, ngang qua doanh trại Nga đến một vị trí đã định trước, để từ đây họ có thể tấn công hoặc doanh trại Nga hoặc điểm vượt sông ở Petrovka. Cộng thêm 6 tiểu đoàn của Lewenhaupt, Rehnskiöld có 12 trong số 18 tiểu đoàn bộ binh.
    Riêng 6 tiểu đoàn kia vẫn còn đang cố chiếm cho được tiền đồn thứ ba và thứ tư trong số 4 tiền đồn nằm thẳng góc. Ba lần Roos xua quân tấn công, ba lần quân của ông bị đánh bật lại. Cuối cùng, khi thương vong đã lên đến 40 phần trăm, ông quyết định rút lui. Ông định gia nhập đại quân, nhưng không biết đại quân hiện đang ở đâu. Vì cần có thời gian để chỉnh đốn lại hàng ngũ, ông dẫn quân đi về khu rừng phía đông. Nhiều người bị thương cố bò lết để theo ông.
    Trong lúc ấy, Pyotr Đại đế đang đứng quan sát trên bờ thành phía tây, thấy có một khoảng trống trải dài từ doanh trại của ông đến các tiền đồn đã kháng cự Roos. Lập tức, ông truyền lệnh cho Menshikov dẫn một lực lượng hùng hậu, tất cả gồm 6.000, đi tìm Roos trong khu rừng, tấn công và tiêu diệt toán quân này. Lực lượng này cũng sẽ tiếp viện cho Poltava, mà con đường dẫn đến thị trấn này đã được bỏ ngỏ.
    Khi toán quân đầu tiên của Menshikov kéo tới, quân của Roos trông nhầm ra là quân Thụy Điển. Ngay trước khi họ nhận ra sự nhầm lẫn thì quân Nga đã đến sát bên. Dưới hỏa lực của Nga và bị Nga truy kích ráo riết bằng quân số áp đảo, Roos không còn cách nào khác hơn là đầu hàng. Trước khi trận Poltava nổ ra, 6 tiểu đoàn ?" một phần ba lực lượng bộ binh Thụy Điển ?" bị tiêu diệt mà không đạt được mục đích gì.
    Trách nhiệm về thảm họa này có thể quy cho Roos vì đã dằng co quá lâu với các tiền đồn, hoặc quy cho Rehnskiöld vì đã không tin cậy các sĩ quan dưới quyền mà thông báo cho họ đầy đủ chi tiết trước khi xuất quân. Nhưng lỗi lầm chính ở chỗ bộ óc của quân đội Thụy Điển không còn làm việc nữa. Cái đầu óc sáng suốt, trầm tĩnh và uy quyền mà mọi người Thụy Điển luôn tuân phục tuyệt đối đã không suy nghĩ được ở trận đánh Poltava.
    Ngay khi Rehnskiöld phát hiện lực lượng của Roos bị mất tích, ông gửi liên lạc viên đi trở lại để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Liên lạc viên trở về báo cáo rằng Roos vẫn còn đang tấn công các tiền đồn đầu tiên và gặp khó khăn. Rehnskiöld vội phái 2 trung đoàn kỵ binh và 2 tiểu đoàn bộ binh để tăng viện cho Roos. Trong khi đó, đại quân Thụy Điển chỉ phải chờ đợi. Họ đang đứng trong tầm đạn pháo của Nga, cách góc tây bắc của doanh trại chính không đến 2 kílômét, ở vị trí hoàn toàn trống trải. Điều không tránh khỏi là pháo của Nga hướng nòng súng về phía họ. Đạn pháo gây thương vong cho quân Thụy Điển, hai binh sĩ Vệ binh đứng gần nhà vua bị tử thương, vài đội bộ binh rút về khu rừng hướng nam để tìm chỗ ẩn náu. Chính ở thời điểm này mà Lewenhaupt và những sĩ quan khác đều tiếc rẻ cho quyết định đã để phần lớn pháo lưu lại doanh trại. Bên Thụy Điển chỉ có 4 khẩu pháo để đáp lại 70 khẩu pháo bắn từ doanh trại chính của Nga. Rồi quân tăng viện cho Roos trở về báo cáo rằng không thể đánh xuyên qua lực lượng Nga đông hơn đang bao vậy Roos.
    Rehnskiöld giờ ở trong tình trạng càng lúc càng nguy hiểm. Trong hai tiếng đồng hồ, đại quân án binh bất động để chờ đợi hai sư đoàn bộ binh đi lang thang của Lewenhaupt và Roos đến điểm hẹn. Quân của Lewenhaupt đã đến, nhưng quân của Roos vẫn còn mất hút. Để lấp vào chỗ trống, Rehnskiöld phái liên lạc viên trở về đội quân Thụy Điển đang công hãm Poltava, ra lệnh cho quân trừ bị đang bảo vệ xe hậu cần đến tăng viện ngay, mang theo đại pháo. Nhưng các liên lạc viên không thể đi đến nơi. Không có tăng viện cho bộ binh hoặc cho 4 khẩu pháo.
  9. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Cuộc xáp chiến giữa hai đại quân
    Đã gần 9 giờ sáng, và Rehnskiöld phải đi đến quyết định. Đại quân không thể cứ đứng yên mãi ở đây, mà phải hành động. Ông ra lệnh rút lui. Lực lượng của ông quá yếu và rủi ro quá cao. Ông định kéo quân trở lại các tiền đồn Nga, tăng viện cho Roos để vượt qua các tiền đồn, rồi khi trở về điểm xuất phát hồi rạng sáng, ông sẽ triệu tập các tiểu đoàn đang canh gác xe goòng hậu cần và đang tuần tiễu dọc bờ sông phía dưới thị trấn. Lúc đó, với đại quân 24 tiểu đoàn thay vì 12 như bây giờ, ông có thể quyết định sẽ đánh Sa hoàng ở đâu.
    Nhưng khi binh sĩ của Rehnskiöld đang chuẩn bị giải tán đội hình chiến đấu mà sắp xếp hàng ngũ để di chuyển, một chuyện đáng kinh ngạc xảy ra: cả đoàn quân Nga dường như chuyển động. Các cổng đều mở toang, các cây cầu được hạ xuống, và bộ binh Nga tiến ra rồi lập đội hình để chiến đấu trước mặt doanh trại. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, đại quân Nga đang chuẩn bị giao chiến với đại quân Thụy Điển với sự hiện diện của cả Sa hoàng và vua Thụy Điển.
    Bên cánh phải quân Nga là Bauer chỉ huy 18 trung đoàn kỵ binh. Ở đầu cánh cung đối diện là Menshikov chỉ huy 6 trung đoàn kỵ binh. Ở giữa là các tiểu đoàn bộ binh dưới quyền của Sheremetev và Hoàng thân Anikita Ivanovich Repnin. Tướng Bruce, tư lệnh pháo binh, đã bố trí một số khẩu pháo trên bức tường thành đất nện để bắn qua đầu quân Nga, một số khác ở phía trước bộ binh để chặn đón quân Thụy Điển bằng những loạt đạn bắn thẳng.
    Vị trí mới của quân Nga khiến cho Rehnskiöld bị thêm vấn đề tiến thoái lưỡng nan. Nếu ông cho họ di chuyển và nếu Pyotr tấn công, đây sẽ là cuộc tàn sát. Rehnskiöld nhanh chóng ngưng cuộc rút lui, một lần nữa ra lệnh bộ binh sắp xếp lại hàng ngũ để chuẩn bị giao tranh với quân Nga.
    Lúc 10 giờ sáng, quân Thụy Điển đã dàn lại thành đội hình chiến đấu. Kỵ binh Thụy Điển được đặt ở phía sau bộ binh, không phải ở hai cánh như kỵ binh của Pyotr. Bộ binh của Lewenhaupt giờ chỉ có 12 tiểu đoàn, chưa đến 5.000 quân. Đối diện ông là hai hàng bộ binh Nga tổng cộng có 24.000 quân với 70 khẩu pháo. Hy vọng duy nhất của Lewenhaupt là xuyên thủng phòng tuyến địch ở một điểm, tạo tình thế hoang mang rồi dồn lực lượng đông hơn dạt qua hai bên.
    Lúc này, mâu thuẩn giữa hai vị tư lệnh chính của Thụy Điển đến hồi chấm dứt. Rehnskiöld phi ngựa đến Lewenhaupt, người sẽ chỉ huy đợt tiến công gần như vô vọng. Cầm lấy tay vị tướng bộ binh, vị Nguyên soái nói: "Bá tước Lewenhaupt, ông phải xuất quân tấn công kẻ địch. Xin ông hãy đảm nhận danh dự phục vụ cho Hoàng thượng." Lewenhaupt ra hiệu cho quân tiến công. Lực lượng nhỏ bé một cách thảm thương: 12 tiểu đoàn tiến thành một hàng mỏng, cố gắng dàn rộng đội hình nên tạo ra nhiều khoảng trống.
    Khi bộ binh Thụy Điển tiến đến, pháo Nga gia tăng cường độ, rót đạn xuống đội hình Thụy Điển, nhưng quân Thụy Điển vẫn tiến bước mà không bắn trả phát nào. Do lực lượng Vệ binh dẫn đầu, các tiểu đoàn cánh phải tiến đến tấn công hàng bộ binh đầu tiên của Nga bằng gươm và lưỡi lê. Họ đánh quân Nga trước mặt dạt ra, bắt được các khẩu pháo đã bắn vào họ khi họ tiến đến. Trong vòng ít phút, các khẩu pháo này quay nòng về phía quân Nga giờ bắt đầu thối lui.
    Lúc này, sau khi đã đạt được mục tiêu đầu tiên và chọc thủng được một phần phòng tuyến của địch, Lewenhaupt nhìn quanh tìm kỵ binh đáng lẽ phải tiến nhanh để yểm trợ cho quân ông. Nhưng không thấy kỵ binh Thụy Điển nào cả. Thay vào đó, Lewenhaupt thấy các tiểu đoàn cánh trái đang bị khó khăn nghiêm trọng vì bị đại pháo của Nga hạ nòng bắn thẳng vào họ. Hỏa lực pháo hùng hậu đến nỗi hàng ngũ Thụy Điển bị bắn tan nát; trên phân nửa bị đốn ngã trước khi tiếp cận được bộ binh Nga. Giữa cánh trái đang khốn đốn và cánh phải đang dồn lên để là một khoảng hở. Và khi cánh phải Thụy Điển càng tiến lên, khoảng hở càng rộng ra.
    Pyotr cũng nhìn thấy những gì đang xảy ra, và phái một đội kỵ binh hùng hậu đánh vào khoảng trống này.
    Chiến trận xảy ra đúng như Pyotr đã hy vọng và Lewenhaupt đã e sợ. Không còn bị kỵ binh Thụy Điển ngăn trở, kỵ binh Nga đánh phủ lên bộ binh Thụy Điển ở cánh phải. Đà tiến công nhanh nhẹn của Thụy Điển thực ra giúp cho chiến thuật của Pyotr được thành công hơn: họ càng tiến sâu thì càng bị vây chặt hơn trong biển người của Nga.
    Kỵ binh Thụy Điển cuối cùng đã đến, nhưng không phải toàn bộ lực lượng của Rehnskiöld. Chỉ có 50 kỵ binh xuất trận vào giữa hàng ngũ bộ binh Nga, chẳng bao lâu đều bị trúng đạn, bị giáo đâm, hoặc bị kéo xuống khỏi yên ngựa. Bị tràn ngập và áp đảo, quân Thụy Điển cố rút lui, ban đầu với tính kỷ luật kiên cường, nhưng rồi khi hốt hoảng tràn lan, họ trở nên rối loạn. Sau khi hầu hết sĩ quan của ông bị thương vong, Lewenhaupt chạy tới lui giữa hàng quân đã rệu rã, cố kêu gọi binh sĩ trụ lại mà chiến đấu, nhưng chỉ hoài công.
    Trong suốt giai đoạn này của trận đánh, vóc người của Pyotr vươn cao hẳn giữa hàng quân của ông. Dù khổ người cao của ông tạo ra đích nhắm rõ ràng, ông không để ý gì đến hiểm nguy và luôn ra sức kêu gọi và động viên quân của ông. Việc ông không bị thương là điều đáng lấy làm ngạc nhiên, vì ông bị bắn ba lần trong trận đánh. Một viên đạn súng nòng dài bắn rơi chiếc mũ của ông, một viên đạn khác ghim vào yên ngựa, và viên thứ ba bắn trúng ngực ông nhưng chạm vào và dội ra từ một biểu tượng cổ bằng bạc mà ông mang trên sợi dây chuyền vòng quanh cổ.
    Cuộc tấn công của Thụy Điển đã tiêu tán, tuy vài đơn vị rời rạc còn tiếp tục giao chiến. Lực lượng Vệ binh Thụy Điển vẫn kiên cường như bao giờ, rồi ngã xuống nơi họ chiến đấu. Từng đại đội Thụy Điển bị bao vây rồi cùng ngã xuống khi quân Nga đổ xô đến, dùng giáo, gươm và lưỡi lê đâm chém và để họ nằm thành từng đống.
    Kỵ binh Thụy Điển ở đâu? Một lần nữa, có lẽ vì họ không còn ở dưới sự điều động trực tiếp của vị tư lệnh cũ, Rehnskiöld, giờ đang cố gắng chỉ huy toàn quân. Bên cánh phải, kỵ binh bị chậm trễ khi huy động và bộ binh của Lewenhaupt đã tiến công mà kỵ binh chưa sẵn sàng để tiến theo. Khi kỵ binh có thể tiến công thì họ bị trở ngại do địa hình khó khăn. Bên cánh trái, kỵ binh Thụy Điển được phái ngăn chặn kỵ binh Nga đang quy tụ ở phía bắc. Khi vài trung đoàn kỵ binh phi đến cứu nguy cho bộ binh, họ thấy rằng thay vì cứu quân bạn, họ cần phải tự cứu mình trước: chính họ cũng bị pháo Nga bắn tan tác.
    Và cuộc giao tranh tiếp diễn thêm nửa giờ đồng hồ như thế ?" vinh quang cho Pyotr, thảm họa cho Karl XII. Phần lớn bộ binh Thụy Điển xông vào đội hình của Nga đều bị hạ gục. Rehnskiöld nhìn thấy tất cả những gì đang xảy ra, thét lên với Bá tước Carl Piper: "Mất hết cả rồi!" Rồi ông xông vào giữa trận tuyến, và chẳng bao lâu bị bắt làm tù binh.
    Chính Karl XII cũng ở giữa trận chiến. Nhà vua cố gắng lớn tiếng hô hào động viên binh sĩ đang bấn loạn, nhưng không ai để ý nghe ông. Trong số 24 người được cắt cử khiêng cáng cho nhà vua, 21 người bị đốn ngã, riêng chiếc cáng bị rách xác xơ. Trong một khoảnh khắc, không có người khiêng cáng, có vẻ như nhà vua sẽ bị bắt. Thế rồi, một sĩ quan xuống ngựa và nâng Karl XII ngồi lên yên. Bông băng trên vết thương ông bị sút, máu rỉ ra. Con ngựa ông đang cưỡi bị bắn, và ông được đưa lên một con ngựa khác. Nhà vua bám lấy cổ ngựa, phi trở lại hàng quân Thụy Điển với vết thương chảy máu ròng ròng. Ông hỏi Lewenhaupt: "Bây giờ chúng ta phải làm gì?" Vị tướng trả lời: "Không còn làm được gì ngoại trừ thu thập tàn quân lại." Dưới sự che chở của kỵ binh lúc này vẫn còn khá nguyên vẹn, ông điều động những bộ binh rút về phía nam qua các tiền đồn Nga đến doanh trại ở Pushkarivka lúc đó tạm thời vẫn còn an toàn. Khi đoàn quân rút lui, các trung đoàn dự bị, pháo binh cũng như quân Cossack được bố trí phòng ngự chung quanh doanh trại để chống lại sự truy kích của quân Nga. Vào lúc giữa trưa, phần lớn tàn quân đã về đến và có thể nghỉ ngơi.
    Về hướng bắc, chiến địa đã trở nên yên ắng. Pyotr sướng thỏa cử hành lễ tạ ơn trên bãi chiến trường. Trận Poltava đã kết thúc.
    Bắt đầu trận đánh với 19.000 người, quân Thụy Điển bị tổn thất 10.000, gồm 6.901 tử trận và bị thương, 2.760 bị bắt làm tù binh. Trong số sĩ quan, 300 tử trận và 260 bị bắt; số bị bắt gồm cả Nguyên soái Rehnskiöld, một hoàng thân Max xứ Württemberg, bốn trung tướng và năm đại tá. Bá tước Piper đi bên nhà vua suốt ngày, cuối cùng bị lẫn lộn trong đám người hỗn loạn, lang thang trên bãi chiến trường cùng với hai thư ký và cuối cùng đi đến cổng thành Poltava để đầu hàng.
    Tổn thất bên Nga tương đối nhẹ ?" không phải là điều đáng ngạc nhiên vì phần lớn họ chiến đấu từ vị trí phòng ngự trong khi pháo của họ gầm rú trên đầu địch quân. Trong tổng số 42.000 quân, 1.345 chết và 3.290 bị thương. Số thương vong và kết quả đều đảo ngược tất cả các trận đánh trước đó giữa Pyotr và Karl XII.
  10. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Pyotr Đại đế ăn mừng
    Khi quân Thụy Điển rút về Pushkarivka, quân Nga không đuổi theo. Đỉnh điểm của trận đánh là khi hai bên giáp lá cà, vì thế lúc chấm dứt hàng ngũ hai bên đều bị xáo trộn. Không hoàn toàn tin là mình đã chiến thắng, bên Nga muốn cẩn trọng. Tuy nhiên, quan trọng hơn, là Pyotr muốn tổ chức ăn mừng. Sau nhiều lần nâng cốc, ông cho triệu các tướng lĩnh và đại tá Thụy Điển bị bắt và mời họ ngồi quanh mình.
    Đây là thời khắc tuyệt vời trong đời của Pyotr. Chín năm gian khổ và âu lo đã qua, và nỗi tuyệt vong khi nhìn đối thủ liên tục tiến công đã hết. Tuy thế, trong sự phấn khích, Pyotr không tỏ ra hống hách. Ông có thái độ ý tứ, ngay cả tử tế, đối với tù binh, đặc biệt là Rehnskiöld. Khi Bá tước Piper bị giải đến, ông này cũng được mời ngồi kế Sa hoàng. Pyotr luôn nhìn ra chung quanh, chờ đợi bất kỳ lúc nào đó nhà vua Thụy Điển cũng sẽ bị giải vào. Ông hỏi đi hỏi lại: "Người em Karl XII của tôi đâu?" Với vẻ tôn trọng, ông hỏi Rehnskiöld làm thế nào ông này dám dẫn một dúm quân như thế để xâm lăng một đất nước bao la. Vị tướng trả lời rằng nhà vua đã ra lệnh như thế, và nhiệm vụ đầu tiên của một thuộc hạ trung thành là phải tuân thủ quân vương của mình. Pyotr nói: "Ông là người trung thực, và vì sự trung thành của ông, ta trả lại ông thanh gươm." Rồi khi đại bác trên trường thành bắn thêm một loạt đạn chào mừng, Pyotr đứng dậy, cầm ly rượu và đề nghị chúc mừng những vị thầy của mình trong nghệ thuật chiến tranh. Rehnskiöld hỏi: "Thầy của ngài là những ai?" Pyotr đáp: "Chính là các ông đấy." Vị Nguyên soái châm biếm: "Thế thì, các học trò nên cảm ơn thầy của họ."
    Pyotr vẫn nói chuyện một cách khích động với các tù binh của ông và ăn mừng chiến thắng cho đến 5 giờ chiều, rồi có người mới nghĩ đến việc truy kích quân Thụy Điển. Lúc ấy, Sa hoàng ra lệnh cho Hoàng thân Mikhail Mikhailovich Golitsyn dẫn lực lượng Cảnh vệ và Tướng Bauer dẫn kỵ binh đuổi theo Karl XII về phía nam. Sáng hôm sau, Menshikov dẫn thêm kỵ binh tham gia cuộc truy kích
    Tiếp tục truy kích
    Với sự truy kích của quân Nga, Lewenhaupt mang 14.288 người và 34 khẩu pháo ra đầu hàng mà không chống cự gì cả.
    Rồi quân Nga tiếp tục truy kích đường rút lui của Karl XII lúc ấy đang cố tẩu thoát qua Ottoman. Thêm một trận tàn sát, để rồi cuối cùng Karl XII chỉ còn có 600 quân khi đi vào Ottoman.
    Tác động của Trận Poltava
    Thế là, chỉ trong một buổi sáng, Trận Poltava đã chấm dứt cuộc xâm lăng của Thụy Điển vào đất Nga và vĩnh viễn thay đổi cục diện chính trị châu Âu. Trước ngày này, chính khách ở mỗi quốc gia đều trông chờ đón nhận tin Karl XII chiến thắng lần nữa, quân Thụy Điển tiến vào Moskva, Pyotr được thay thế và có lẽ đã bị giết trong cuộc chiến. Một Sa hoàng mới sẽ được tấn phong và trở nên bù nhìn giống như Stanis,aw Leszczy"ski. Thụy Điển, vốn đã là Bà chủ phương Bắc, sẽ trở thành Nữ hoàng phương Bắc, nắm quyền phán xử mọi việc vùng Bắc và Đông Âu. Nước Nga sẽ bị thu nhỏ lại vì người Thụy Điển, Ba Lan, Cossack, và có lẽ cả Ottoman, Tatar và Trung Hoa chia nhau xâu xé những phần đất béo bở. Sankt-Peterburg sẽ bị xóa khỏi bản đồ, bờ Biển Baltic sẽ bị phong tỏa, và người dân Nga vừa được Pyotr khai sáng sẽ bị chặn lại trên đường cải tổ, bị đưa trở lại vào bóng tối của nước Nga thời xa xưa.
    Poltava là tiếng sấm đầu tiên báo hiệu với thế giới rằng một nước Nga mới đã được khai sinh. Trong những năm về sau, các chính khách Tây Âu ?" vốn chỉ để tâm đến những sự vụ của Sa hoàng hơn một chút so với Hoàng đế Ba Tư hoặc Đại vương Ấn Độ ?" biết rằng phải cân nhắc cẩn thận sức mạnh và quyền lợi của nước Nga. Cán cân quyền lực mới ?" được thiết lập trong buổi sáng này do quân đội dưới quyền Tư lệnh chiến trường của Pyotr Đại đế ?" sẽ được tiếp nối và phát triển suốt các thế kỷ 18, 19 và 20.

Chia sẻ trang này