1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đại chiến Bắc Âu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 27/03/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Fyodor Matveyevich Apraksin
    Fyodor Matveyevich Apraksin (tiếng Nga: Ф'до? oа,вееви? Ап?аксин), dưới triều Pyotr Đại đế là Đại tướng, Đô đốc Hải quân người Nga đầu tiên, Tổng đốc Azov, Hiệp sĩ Huân chương Sankt-Andrew, Bá tước, Ủy viên Hội đồng Cơ mật, Thượng Nghị sĩ; và dưới triều Nữ hoàng Ekaterina I là Ủy viên Hội đồng Cơ mật Tối cao.
    Cá tính
    Apraksin là người chân chất, hăng hái, rất hãnh diện, không thích bị ai kể cả Sa hoàng sỉ nhục. Apraksin phục vụ Pyotr Đại đế qua nhiều cương vị, nhưng ông thích nhất là phục vụ trong hải quân ?" một điều hiếm thấy trong số quần thần của Pyotr. Apraksin luôn giữ mối quan hệ với Pyotr dựa trên sự pha trộn giữa tự trọng và cẩn thận. Trong triều đình, một khi đã xác định điều gì là đúng, ông vẫn tiếp tục biện luận chống lại Sa hoàng cho đến khi quân vương cất tiếng đe dọa ông mới thôi. Nhưng trên mặt biển, Apraksin không muốn nhân nhượng Pyotr, luôn làm trái lời đến mức trêu tức quân vương, tuy sau cùng ông thưa bẩm với Pyotr: ?oTrong khi với tư cách Đô đốc mà biện luận với Hoàng thượng về sự hiểu biết của một tư lệnh hạm đội, tôi sẽ không nhân nhượng; nhưng nếu Ngài lấy tư cách Sa hoàng để sai khiến thì tôi sẽ biết nhiệm vụ của mình.?
    Có lúc Sa hoàng hạ lệnh đưa một nhóm tu sĩ trẻ ở Moskva vào Học viện Hải quân ở Sankt-Peterburg, rồi bắt họ đi đóng cọc trong công cuộc đào Kênh Moika. Apraksin cảm thấy bất mãn vì danh dự của giới quý tộc bị xúc phạm, đi đến Moika, cởi ra bộ quân phục đô đốc cùng với Huân chương St Andrew treo lên một cái cột, rồi làm việc đóng cọc cùng với nhóm trai trẻ. Pyotr Đại đế đi đến và ngạc nhiên hỏi: ?oLàm thế nào mà một đại tướng-đô đốc như ông lại đi đóng cọc?? Apraksin trả lời: ?oThưa Hoàng thượng, những lao công này là cháu họ, cháu nội ngoại của tôi. Thế thì tôi là ai và tôi có quyền gì mà được hưởng đặc ân??
    Chiến công
    Khi vua Thụy Điển Karl XII dẫn quân bắt đầu tiến công vào đất Nga trong Đại chiến Bắc Âu, Apraksin chỉ huy 24.500 quân trấn giữ Thành phố Sankt-Peterburg. Tướng Lybecker của Thụy Điển mang quân vượt qua Sông Neva phía thượng nguồn của Sankt-Peterburg định uy hiếp thành phố này. Tuy nhiên, ở đây ông này nhận được tin sai lạc do Apraksin gài vào rằng Sankt-Peterburg được bố phòng quá chắc chắn, nên thay vì tấn công thành phố, ông dẫn quân đi một đường vòng về phía nam và tây qua vùng đồng ruộng của Ingria. Nga áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến, khiến cho chẳng bao lâu quân Thụy Điển cạn lương thực, và họ phải giết ngựa để ăn thịt. Không có đại pháo, Lybecker không thể công hãm các thành phố, và sau khi lang thang khắp tỉnh Ingria mà không làm được việc gì, cuối cùng ông dẫn quân đến bờ biển gần Narva, nơi có một đội thuyền Thụy Điển có thể tiếp nhận người nhưng không đủ sức chở ngựa. Sáu ngàn con ngựa bị giết hoặc bị cắt gân chân để không cho quân Nga sử dụng, và đoàn thuyền Thụy Điển về đến Vyborg ở Phần Lan. Lực lượng của Lybecker đã đi một vòng quanh thành phố Sankt-Peterburg mà không đạt được gì, còn bị mất 3.000 quân. Đó là nhờ công của Apraksin.
    Mùa xuân 1710, sau chiến thắng vang dội của Nga ở trận Poltava. Apraksin được phái dẫn 18.000 quân công phá Vyborg. Thị trấn này là một pháo đài quan trọng và là điểm tập kết cho quân Thụy Điển để đe dọa Sankt-Peterburg. Ngày 13/6/1710, thị trấn Vyborg với 154 sĩ quan và 3.726 quân trú phòng Thụy Điển rơi vào tay Apraksin.
    Mùa xuân 1713, Apraksin được cử làm Tư lệnh chiến dịch ở Biển Baltic, dẫn đến chiến thắng quan trọng đầu tiên của hải quân Nga trong trận hải chiến Hangö.
    Với đội thuyền ga-lê đổ bộ binh sĩ từ điểm này sang điểm khác, quân Nga tuần tự tiến công dọc bờ biển Phần Lan hướng về phía tây. Mỗi khi Tướng Thụy Điển Lybecker dàn lực lượng của ông ở một vị trí phòng thủ cẩn mật nào đó, thuyền ga-lê Nga chi việc đi vòng qua ông, chèo vào một bến cảng ở nơi khác rồi đổ lên đội quân còn sung sức vì không phải đi bộ, cùng với pháo và hàng hậu cần. Lybecker không thể làm gì khác hơn là phải rút lui.
    Đầu tháng 5, hàng chục tàu Nga chở đầy binh sĩ xuất hiện ngoài khơi Helsingfors (hiện nay là Helsinki, thủ đô của Phần Lan). Đối mặt với hàng ngàn quân Nga thình lình tiến vào từ ngoài biển, quân trú phòng chỉ có thể đốt rụi hàng hậu cần của họ mà rút lui. Đến mùa hè 1713, quân Nga đã chinh phục toàn miền nam Phần Lan.
    Nhưng trên mặt biển, Thụy Điển vẫn giữ ưu thế: chiến hạm của họ có thể trụ lại và sẵn sàng sử dụng đại pháo bắn tan tác thuyền ga-lê của Nga. Thuyền ga-lê chỉ có cơ hội nếu dụ chiến hạm Thụy Điển vào gần bờ rồi xông ra đánh khi lặng gió. Đây là trường hợp mà Pyotr lợi dụng trong trận hải chiến Hangö vào tháng 8/1714.
    Khi chuẩn bị cho chiến dịch hải quân năm 1714, Pyotr Đại đế đã gia tăng gần gấp đôi hạm đội Baltic. Tháng Năm, 20 chiến hạm và gần 200 thuyền ga-lê đã sẵn sàng. Ngày 22/6/1714, 100 thuyền ga-lê dưới quyền chỉ huy của người Venice và Hy Lạp có kinh nghiệm ở Biển Địa trung hải, chèo đi Phần Lan với Apraksin làm tư lệnh và Pyotr làm tư lệnh phó. Trong nhiều tuần, hạm đội Nga không dám tiến quá Mũi Hangö kẻo chạm trán với hạm đội Thụy Điển gồm 16 chiến hạm, 5 tàu khu trục và một số thuyền nhỏ hơn dưới quyền Đô đốc Wattrang, lãnh nhiệm vụ ngăn chặn sự xâm nhập đến Đảo Aland và bờ biển Thụy Điển.
    Trong nhiều tuần, hai bên đều ở vào thế bế tắc. Wattrang không muốn giao chiến gần bờ, và thuyền ga-lê của Nga không muốn hứng chịu đạn pháo của Wattrang ngoài khơi, nên neo lại cách Hangö 10 kí-lô-mét về hướng đông. Cuối cùng, ngày 4/8, chiến hạm của Wattrang tiến đến, và khi thấy đông đảo thuyền Nga, trở ra biển khơi. Thuyền ga-lê của Nga vội đuổi theo, hy vọng bắt kịp vài chiến hạm địch khi gió ngưng thổi. Nhưng phần lớn chiến hạm Thụy Điển chạy thoát được.
    Sáng hôm sau, điều mà phía Nga chờ đợi cuối cùng đã đến: gió ngừng thổi, biển lặng, và trên mặt nước phẳng lì như gương là một phân đội chiến hạm Thụy Điển dưới quyền của Đô đốc Ehrenskjold. Lúc bình minh, 20 thuyền ga-lê Nga vội rời vùng biển cạn dọc bờ, tiến đến đội chiến hạm Thụy Điển đang bất động. Tối hôm ấy, lực lượng của Apraksin gồm trên 60 thuyền ga-lê luồn vào giữa hạm đội Thụy Điển và bờ biển rồi tiến ra khơi giữa hai phân đội của Wattrang và Ehrenskjold. Để ẩn náu, Ehrenskjold rút phân đội của ông vào một vịnh hẹp, các chiến hạm nối đuôi nhau dàn thành hàng ngang từ bờ này sang bờ kia. Ngày hôm sau, với chiến hạm Thụy Điển bị cô lập, Apraksin sẵn sàng tấn công. Đầu tiên, ông phái người lên soái hạm của Thụy Điển để ra điều kiện cho Ehrenskjold đầu hàng trong danh dự. Ehrenskjold từ chối, và cuộc chiến bắt đầu.
    Đấy là cuộc chiến kỳ lạ giữa loại tàu chiến cổ xưa và loại hiện đại. Thụy Điển vượt trội về hỏa lực đại pháo và kinh nghiệm chiến trường của thủy thủ đoàn, nhưng Nga chiếm ưu thế về số lượng tàu và quân số. Thuyền ga-lê có tính cơ động hơn, trên boong đầy lính bộ binh, đổ xô đến, lúc đầu hứng chịu tổn thất vì đạn pháo, áp sát rồi đổ quân qua chiến hạm Thụy Điển. Thật ra, Apraksin chỉ huy giống như tướng lục quân hơn là đô đốc hải quân. Hai giờ chiều 6/8/1714, ông phát động đợt đầu tiên gồm 35 thuyền ga-lê. Bên Thụy Điển chờ cho họ đến gần rồi khai hỏa đạn pháo khiến cho thuyền Nga phải lui về. Đợt tấn công thứ hai gồm 85 thuyền ga-lê cũng bị đẩy lui. Rồi Apraksin ra lệnh toàn hạm đội 95 thuyền Nga đánh tổng lực vào bên trái của hàng các chiến hạm nối đuôi nhau của Thụy Điển; quân Nga tràn lên, một chiến hạm Thụy Điển bị lật vì lượng người quá lớn trên boong. Khi hàng chiến hạm Thụy Điển đã bị một lổ hỗng, thuyền Nga chèo qua rồi rẽ qua tấn công hai bên, lần lượt đánh hạ từ chiến hạm này qua chiến hạm khác. Cuộc chiến kéo dài ba giờ đồng hồ với tổn thất nặng cho mỗi bên. Cuối cùng, hạm đội Thụy Điển bị khuất phục, 361 người tử trận và trên 900 bị bắt làm tù binh. Ehrenskjold cũng bị bắt, cùng với soái hạm của ông và 9 thuyền nhỏ khác.
    Hangö là trận thắng đầu tiên của hải quân Nga, và Pyotr luôn xem đấy là sự kiện đã minh chứng cho những năm gian khổ gây dựng nên hạm đội, và là chiến thắng có tầm quan trọng ngang với Trận Poltava.
    Năm 1719, Nga mở chiến dịch tấn công chính quốc Thụy Điển để thúc ép đàm phán chấm dứt chiến tranh. Chiến thuật cũng giống như khi đánh Phần Lan lúc trước: sử dụng thuyền ga-lê chở bộ binh đến vùng biển cạn, nơi mà chiến hạm không thể đến được. Apraksin là tư lệnh của hạm đội Nga gồm 180 thuyền ga-lê và 300 thuyền đáy bằng, được 28 chiến hạm hộ tống.
    Mùa hè năm ấy, hạm đội Nga đạt thắng lợi. Ngày 4/6, 7 chiến hạm của Nga chận đánh 3 tàu nhỏ hơn của Thụy Điển và bắt giữ cả 3 tàu này. Dù có sự hiện diện của hạm đội Anh gồm 16 chiến hạm, Pyotr dẫn một số chiến hạm lớn nhất của Nga hợp cùng hạm đội của Apraksin với 30.000 quân đánh phá vùng bờ biển phía đông của Thụy Điển trong 5 tuần. Apraksin phái một lực lượng Cossack tiến đánh Stockholm, nhưng họ bị chặn lại. Một lực lượng hải quân Thụy Điển gồm 4 chiến hạm và 9 tàu khu trục trú đóng trong cảng Stockholm khiến thuyền ga-lê của Nga không thể tiến vào. Apraksin chia lực lượng tàu Nga thành từng nhóm nhỏ đánh phá dọc bờ biển phía Nam, đốt phá thị trấn, nhà máy và xưởng lọc sắt, và bắt giữ một số tàu của Thụy Điển chở quặng sắt rồi mang số tàu này về Nga. Trong một xưởng đúc đại bác, quân Nga tịch thu được 300 khẩu pháo chưa kịp gửi đi cho quân đội Thụy Điển. Thêm một cuộc tấn công của Nga vào Stockholm, nhưng lại bị đánh bật ra.
    Cùng lúc, một lực lượng khác của Nga đánh phá và gây tổn thất tương tự cho vùng bờ biển của Thụy Điển phía Bắc, phá hủy nhà máy, kho tàng, và đốt phá 3 thị trấn. Quân Nga tịch thu và mang về một lượng lớn quặng sắt và nông sản, và ném xuống biển hoặc đốt phần không thể mang theo.
    Mùa hè 1720, trong khi hạm đội Anh được phái đến với danh nghĩa dàn xếp hòa bình đang biểu dương lực lượng ngoài khơi, thuyền ga-lê của Apraksin đi vòng và một lần nữa tiến đánh bờ biển Thụy Điển. Một lực lượng gồm 8.000 quân kể cả Cossack đổ bộ và xâm nhập vào đất liền đến 45 kí-lô-mét mà không gặp sức kháng cự nào, thỏa sức đốt phá thị trấn và làng mạc Thụy Điển. Một phân đội gồm 2 chiến hạm và 4 tàu khu trục của Thụy Điển cố đuổi kịp 61 thuyền ga-lê của Nga, nhưng cuối cùng cả 4 tàu khu trục đều vướng đá ngầm và bị bắt.
    Đầu năm 1715, có thư nặc danh tố cáo một số cận thần của Pyotr Đại đế kể cả Apraksin liên can đến tham nhũng, và một cuộc điều tra rộng lớn được thực hiện. Apraksin không bị trừng phạt do công trạng trong quá khứ và cũng vì lý lẽ biện hộ là ông thường đi chinh chiến xa nên không biết gì về những việc làm của thuộc hạ.
    Đến năm 1719, Apraksin cùng với Aleksandr Danilovich Menshikov bị kết tội biển thủ, bị xử tịch thu mọi đất phong và tước vị, nhận lệnh phải trả lại thanh gươm và bị quản thúc tại gia để chờ Pyotr phê duyệt bản án. Pyotr thoạt đầu ký duyệt, rồi ngày sau trong sự ngạc nhiên của nhiều người, hủy bỏ bản án vì xét công trạng trong quá khứ. Cả hai được phục hồi mọi tước vị và tài sản, chỉ phải trả tiền phạt nặng. Sa hoàng không thể cai trị mà thiếu hai người.
    Đưa Ekaterina lên ngôi
    Ngày 23 tháng 1 năm 1725, khi bệnh tình trở nặng và Pyotr Đại đế nhận Phép thánh Cuối cùng, Apraksin là một trong số 3 cận thần được tin tưởng nhất được triệu đến giường bệnh để nhận những lời dặn dò cuối cùng của Pyotr.
    Trong khi Pyotr Đại đế đang hấp hối, các cận thần của ông chuẩn bị chọn người lên kế vị. Nhóm cận thần gốc gác là dân thường đi lên cảm thấy sẽ bị mất mát nhiều nếu giới quý tộc cũ nắm quyền trở lại, nên họ cùng nhau quyết định ủng hộ Ekaterina. Biết rõ rằng các lữ đoàn Cảnh vệ sẽ có tiếng nói cuối cùng, họ đã điều các lữ đoàn này vào đóng quanh hoàng cung. Nơi đây, Cảnh vệ được nhắc nhở rằng Ekaterina đã đi theo họ và người chồng trong các chiến dịch quân sự. Mọi khoản tiền lương còn thiếu Cảnh vệ được thanh toán nhanh chóng trên danh nghĩa Nữ Hoàng đế. Các lữ đoàn Cảnh vệ đều trung thành với Pyotr Đại đế, và Ekaterina được họ yêu mến, vì thế với những lời dẫn dụ và cách đãi ngộ họ sẵn lòng ủng hộ.
    Ngay cả với những bước thận trọng như thế, việc lên ngôi của Ekaterina vốn trước đó là một cô gái quê gốc Litva, người tình và cuối cùng người vợ thứ hai của Pyotr, không phải là chắc chắn. Một ứng viên khác là Đại Công tước Pyotr Alekseevich, con trai của Hoàng thái tử Aleksei. Theo truyền thống của Nga, với tư cách là cháu nội của quân vương tạ thế, anh này có quyền trực tiếp thừa kế ngai vàng, và đa số trong giới quý tộc, tăng lữ cùng dân thường đều xem anh là người kế vị hợp pháp.
    Cuộc chạm trán xảy ra vào đêm 27 ngày 1 năm 1725, chỉ vài giờ trước khi Pyotr Đại đế qua đời, khi Thượng viện và những nhà lãnh đạo cấp cao của đất nước nhóm họp để quyết định việc kế vị. Trong khi họ đang thảo luận, một số sĩ quan của hai Lữ đoàn Cảnh vệ Preobrazhenskoe và Semyonovsky, trước đó đã lẻn vào phòng họp, lên tiếng ủng hộ Ekaterina. Cùng lúc, một hồi trống nổi lên phía dưới khiến các chính khách bước ra cửa sổ để nhìn xuống. Họ thấy các đội ngũ của Cảnh vệ đang dàn chung quanh hoàng cung. Hoàng thân Buturlin, chỉ huy doanh trại Sankt-Peterburg và là một thành viên của phe quý tộc, trở nên giận dữ và hỏi tại sao quân sĩ tụ tập ở đây mà không có lệnh của ông.
    Vị tư lệnh Cảnh vệ cứng cỏi đáp: ?oThưa Ngài, chúng tôi làm theo mệnh lệnh của phu nhân quân vương, nữ hoàng Ekaterina, mà Ngài, tôi và tất cả thần dân trung thành đều phải tuân lệnh lập tức và vô điều kiện.? Các binh sĩ, nhiều người đẫm nước mắt, hô lên: ?oCha chúng ta đã chết, nhưng mẹ chúng ta vẫn còn sống.? Trong hoàn cảnh như thế, Apraksin cất lời đề nghị tôn Ekaterina là Quân vương chuyên chế với mọi quyền hạn như vị Hoàng đế phu quân. Lời đề nghị được chấp thuận nhanh chóng.
    Sáng ngày sau, Ekaterina bước vào. Bà vừa cất tiếng nức nở rằng mình bây giờ là ?oquả phụ và kẻ mồ côi?, thì Apraksin quỳ xuống trước mặt bà và tuyên cáo quyết định của Thượng viện. Mọi người trong gian phòng đều tung hô, và binh sĩ Cảnh vệ bên ngoài phụ họa theo. Một bản tuyên cáo ngày hôm đó thông báo cho đế quốc Nga và cả thế giới biết rằng vị quân vương mới là một phụ nữ, Nữ hoàng Ekaterina I .
    Một năm sau khi Pyotr Đại đế qua đời, Hội đồng Cơ mật Tối cao được thành lập gồm sáu thành viên (trong đó có Apraksin), có quyền lực gần như là quân vương, kể cả quyền ban hành nghị định.
  2. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Boris Petrovich Sheremetev
    Bá tước Boris Petrovich Sheremetev (tiếng Nga: 'о?ис Yе,?ови? Ше?еме́,ев hoặc Ше?е́ме,Oев, 1652?"1719), là một Nguyên soái của Nga, cũng có tước hiệu boyar. Ông là một trong những nhà chỉ huy quân sự tận tụy và đắc lực nhất cho Pyotr Đại đế. Ông lớn hơn Pyotr Đại đế hai mươi tuổi, là hậu duệ của một trong những dòng họ lâu đời nhất, nhưng từ thời trai trẻ Sheremetev đã là người chống lại cung cách Nga xưa cũ.
    Sheremetev là một trong những người đầu tiên được trao tặng Huân chương St Andrew, huân chương cao quý nhất của vương triều Nga do Pyotr Đại đế thiết lập, qua đó người được thưởng huân chương cũng được phong làm Hiệp sĩ của Nga.
    Công trạng ban đầu
    Trong cuộc phản loạn của Cấm vệ năm 1682, có lẽ nhờ tư cách cá nhân Sheremetev được cử tiếp xúc và đán phán với Cấm vệ, tuy cuối cùng đổ máu vẫn xảy ra.
    Trong chiến dịch đánh Azov lần thứ nhất năm 1689 dưới chế độ Phụ chính của Công chúa Sophia Alekseyevna, Sheremetev chỉ huy một cánh quân bị quân Tatar tấn công, và chịu cùng thất bại của chiến dịch này. Nhưng ông vẫn được cử giữ chức vụ Tư lệnh Quân khu miền Nam để ngăn chặn sự xâm nhập và cướp phá của quân Tatar từ Hãn quốc Crimea. Sau khi Sophia bị lật đổ, Pyotr vẫn trọng dụng ông, và cho ông tiếp tục giữ chức vụ đó.
    Trong chiến dịch đánh Azov năm 1695 dưới triều Pyotr Đại đế, Sheremetev chỉ huy một cánh quân gồm 120.000 binh sĩ, phần lớn là nông dân được động viên theo cách truyền thống mỗi mùa hè. Mục đích của cánh quân này là để ngăn chặn kỵ binh Tatar tấn công cánh quân của Pyotr Đại đế trước mặt Azov, và cắt đứt sự liên lạc giữa Crimea và các tỉnh của Đế chế Ottoman về phía tây, do đó sẽ ngăn chặn kỵ binh Tatar bắt tay với quân Ottoman ở vùng Balkans. Chiến dịch Azov này thất bại, nhưng cánh quân của Sheremetev, hoàn toàn do sĩ quan Nga chỉ huy, đã thành công đáng kể dọc sông Dnepr. Cùng với kỵ binh Cossack của Ivan Stepanovych Mazepa, đội quân của Sheremetev đã tràn ngập hai pháo đài của quân Thổ, khiến quân Thổ trong hai pháo đài khác cũng phải rút lui. Điều này giúp Nga kiểm soát được một vùng rộng từ sông Dnepr xuống gần đến Biển Đen. Nhưng thành công của Sheremetev không thể cứu vãn thất bại của Pyotr, vì cánh quân "kiểu phương Tây" bị thiệt hại nặng nề.
    Trong chiến tranh với Thụy Điển
    Trong trận Narva, Sheremetev dẫn 5.000 kỵ binh phi tuần tiễu ở hướng tây để dọ thám sự xuất hiện của quân cứu viện Thụy Điển. Khi quân Thụy Điển tấn công chiến hào của quân Nga, Sheremetev không thể điều động kỵ binh dưới quyền chống trả. Những kỵ binh này phần lớn là giới quý tộc Nga và dân Cossack thiếu kỷ luật, trở nên hoảng hốt ngay cả trước khi bị tấn công. Nhìn thấy quân Thụy Điển hùng hổ xông đến, quân Nga quay đầu chạy, cố tìm đường tẩu thoát.
    Sau trận thua nhục nhà nãy của Nga, Pyotr Đại đế cố vực dậy tinh thần của quân Nga. Ông viết cho Sheremetev: "Chúng ta không nên mất tinh thần vì phận rủi của chúng ta. Ta ra lệnh phải tiếp tục những gì chúng ta đang làm. Chúng ta không thiếu người; các con sông và đầm lầy đã đóng băng. Ta không muốn nghe lý do bào chữa nào."
    Sau trận Narva, Pyotr Đại đế phong Sheremetev làm Tổng Tư lệnh mới của Quân đội Nga được tập trung lại và tái trang bị. Trong hai năm, 1695 và 1696, khi Pyotr dẫn quân tấn công Azov, Sheremetev thực hiện chiến dịch khuấy rối nghi binh ở hướng tây, chiếm được các pháo đài của Tatar ở hạ lưu sông Dnepr.
    Sheremetev dẫn quân đến đánh xứ Livonia, được 7.000 quân Thụy Điển bảo vệ dưới quyền chỉ huy của Wolmar Anton von Schlippenbach, và vào tháng 1 năm 1702, giành được một chiến thắng quan trọng. Quân Thụy Điển đã rút vào khu trú đông khi Sheremetev xuất hiện với 8.000 bộ binh và kỵ binh trong trang phục mùa đông được 15 khẩu pháo yểm trợ. Trong trận chiến kéo dài 4 giờ, bên Nga không những đã đuổi quân Thụy Điển ra khỏi doanh trại mùa đông, mà còn gây 1.000 thương vong theo như Thụy Điển nhìn nhận (phía Nga tuyên bố gây thương vong 3.000 và nhìn nhận bị thiệt hại 1.000).
    Quan trọng hơn theo ý nghĩa tượng trưng, quân Nga bắt được 350 tù binh Thụy Điển và giải họ về Moskva. Khi nhận được tin, Pyotr Đại đế vô cùng sướng thỏa, thốt lên: "Cảm ơn Thượng đế! Cuối cùng chúng ta đã có thể thắng Thụy Điển." Ông thăng Sheremetev lên nguyên soái (người thứ nhất được phong nguyên hàm này trong quân đội Nga). Ở Moskva, chuông nhà thờ đổ dồn, đại bác bắn chào mừng. Pyotr tổ chức yến tiệc lớn trên Quảng trường Đỏ và ra lệnh bắn pháo bông. Khi tù binh Thụy Điển đến, Pyotr tổ chức đoàn diễu hành để dẫn họ đi vào thành phố. Tinh thần của người Nga, đã xuống thấp từ trận Narva, bây giờ bắt đầu lên.
    Mùa hè kế tiếp, tháng 7 năm 1702, Sheremetev lại tấn công Schlippenbach ở Livonia, và lần này đội quân 5.000 người của Thụy Điển bị đánh gần như tan tành: 2.500 thương vong, 300 bị bắt cùng với pháo và cờ xí. Bên Nga bị mất 800 người.
    Sau trận này, quân cơ động của Schlippenbach không còn xuất hiện, và cả vùng Livonia xem như bỏ ngỏ ngoại trừ các căn cứ cố định Riga, Pärnu và Dorpat. Quân dưới quyền của Sheremetev tự do tung hoành khắp nơi, đốt phá làng mạc và thị trấn, bắt đi hàng ngàn dân thường.
    Mùa thu năm 1702, Pyotr Đại đế ra lệnh cho Sheremetev và Fyodor Matveyevich Apraksin hội quân với ông và quân Cảnh vệ nhằm kiểm soát toàn diện hồ Ladoga bằng cách chiếm lấy pháo đài Thụy Điển ở Nöteborg, nơi hồ Ladoga chảy vào sông Neva.
    Nöteborg là một pháo đài kiên cố, khởi đầu được xây vào thế kỷ 14. Bằng cách khống chế cửa sông, nó kiểm soát mọi con đường thương mại từ Biển Baltic đi lên hồ Ladoga và qua hệ thống sông ngòi để vào trong đất liền. Bên nào kiểm soát Nöteborg sẽ kiểm soát con đường thương mại kéo dài đến phương Đông. Khi bị Thụy Điển chiếm vào năm 1611, nó là rào chắn giữa đất Nga và Biển Baltic. Bây giờ, bức tường thành dầy và sáu tháp công sự của nó được trang bị với 142 khẩu đại bác. Đội quân trấn giữ chỉ có 450 người, nhưng dòng nước chảy xiết khiến cho tàu thuyền khó tiếp cận ngay cả khi không có đạn pháo rơi lên đầu.
    Cuối cùng, quân Nga chiếm được Nöteborg. Pyotr Đại đế vô cùng vui sướng với việc đội quân mới và những khẩu pháo mới làm từ chuông nhà thờ Nga chiếm pháo đài quan trọng đầu tiên từ tay Thụy Điển. Ông đón nhận chiếc chìa khóa từ tay vị chỉ huy Thụy Điển đầu hàng rồi gắn nó lên lô cốt phía tây của pháo đài, và đổi tên của pháo đài thành Schlüsselburg, từ schlüssel trong tiếng Đức có nghĩa là "chìa khóa", cũng có ý nghĩa pháo đài là chìa khóa mở ra Biển Baltic. Sự thất thủ của Nöteborg/Schlüsselburg là thất bại nặng nề cho Thụy Điển vì họ đã mất đi bức tường chắn Nga tiến ra Neva và cả tỉnh Ingria.
    Mùa xuân năm sau, 1703, Pyotr dứt khoát "không để mất thời giờ mà Thượng đế đã ban," tấn công trực diện để tạo dựng miền đất Nga trên bờ Biển Baltic. Sheremetev dẫn một cánh quân 20.000 người từ Schlüsselburg xuyên qua khu rừng dọc bờ bắc của con sông Neva để tiến ra biển. Sau chiến thắng của quân Nga ở đây, Pyotr đạt được mục đích ?" ít nhất là tạm thời ?" theo đó ông đã tuyên chiến. Ông đã chiếm được trọn chiều dài của sông Neva và lấy lại đường thông ra Biển Baltic. Tỉnh Ingria đã về lại tay người Nga. Trong cuộc diễu hành chiến thắng đi vào Moskva, có một biểu ngữ vẽ bản đồ của Ingria với câu chú thích: "Chúng ta không lấy đất của người khác, mà nhận thừa kế từ tổ tiên ta." Pyotr Đại đế quyết định xây dựng lên thành phố Sankt-Peterburg ở cửa sông Neva.
    Ngày 13 tháng 7 năm 1704, Sheremetev chỉ huy 23.000 quân chiếm được Dorpat. Sự thất thủ Dorpat đánh dấu số phận của Narva. Pyotr vội dẫn quân của Sheremetev để tạo nên một đoàn quân gồm 45.000 binh sĩ, trở lại đánh phá và chiếm được Narva ngày 9 tháng 8.
    Trong cuộc xâm lăng của Thụy Điển dưới quyền vua Karl XII, Sheremetev được chính thức ghi công cho chiến thắng ở trận Poltava, trận đánh tạo khúc ngoặt cho sự xuống dốc của Thụy Điển và bước đi lên của nước Nga trên thế giới. Đã là nguyên soái, Sheremetev không thể nhận quân hàm nào cao hơn, nên ông nhận nhiều đất làm phần thưởng.
    Đây là thời gian để gặt hái thêm chiến công. Sheremetev dẫn tất cả bộ binh và một phần kỵ binh đã đánh Karl XII theo hướng bắc đến Baltic để đánh chiếm pháo đài cảng Riga. Ngày 10 tháng 7 năm 1710, thành phố Riga rộng lớn với 4.500 quân trú phòng rơi vào tay Sheremetev sau cuộc công hãm kéo dài 8 tháng.
    Trong cuộc chiến năm 1711 đánh Ottoman, Sheremetev dẫn 22 trung đoàn bộ binh từ vùng Baltic xuống Ukraina để tham gia chiến dịch. Nga bị thất bại nặng nề vì nhiều lý do. Pyotr Đại đế đã từ bỏ chiến lược thận trọng thường thấy lúc trước đã được áp dụng thành công đối với Karl XII. Thay vào đó, ông đã thủ vai trò của Karl mà hung hăng dẫn quân vào Đế chế Ottoman, dựa vào sự hỗ trợ và tiếp việc của một đồng minh không đáng tin cậy. Ông đã nghe thông tin sai lạc về sức mạnh của quân Ottoman, và đã tính toán sai lầm về tốc độ hành quân của họ
    Trấn áp nổi loạn
    Khi cuộc nổi loạn ở Astrakhan bùng nổ vào mùa hè 1705, Pyotr Đại đế ra lệnh Sheremetev dẫn vài trung đoàn bộ binh và kỵ binh vượt cả 1.600 kílômét đến Astrakhan để trấn áp. Đối với bên phản loạn, Pyotr tỏ thái độ khoan hồng. Nhưng vào thời này, sự khoan hồng bị xem là nhu nhược, và cư dân Astrakhan tự chúc mừng: họ đã thách thức Sa hoàng và đã thắng. Khi Sheremetev gửi liên lạc viên đến cho biết đoàn quân của ông sẽ tiến vào thị trấn và ông sẽ không tha thứ cho những người cầm đầu, ngọn lửa nổi loạn lại bùng lên. Họ ngược đãi anh liên lạc viên và đáp trả bằng lời xúc phạm Sa hoàng và đe dọa năm sau sẽ tiến đánh Khu Ngoại ô Đức.
    Nhưng đám nổi loạn đã không tự lượng sức mình, và không có ai đến gia nhập hàng ngũ của họ. Dân Cossack trả lời rằng họ không bị Sa hoàng áp bức. Astrakhan bị cô lập. Thế mà khi quân Sheremetev tiến vào vẫn bị họ tấn công. Sheremetev đánh bại họ một cách dễ dàng, kỵ binh của ông chạy giữa những hàng người nằm mọp trên đất xin tha mạng. Ông giải những kẻ cầm đầu về Moskva. Vui mừng tột độ, Pyotr tăng lương cho Sheremetev và ban cho ông một vùng đất lớn
    Vị thế trong triều đinh
    Trong cuộc cải tổ hành chính của Pyotr Đại đế, Thượng viện được thành lập nhưng còn mang tính chất nô bộc. Sheremetev cùng với các cận thần thân tín khác của Pyotr ?" Aleksandr Danilovich Menshikov, Fyodor Matveyevich Apraksin, Gavrila Ivanovich Golovkin ?" đều không nằm trong Thượng viện. Các "siêu đại thần" này có thể gửi chỉ thị cho Thượng viện "qua lệnh của Hoàng thượng." Tuy nhiên, trong những cuộc cải cách hành chính bắt đầu từ đầu thập kỷ 1710, có lẽ vì vẫn mang tư cách một chiến binh chuyên nghiệp và tuổi đã khá cao (trên dưới 60), nên Sheremetev không tạo dấu ấn đáng kể trong hệ thống chính quyền.
    Đánh giá
    Khi chỉ huy, Sheremetev có năng lực nhưng thận trọng. Pyotr Đại đế có thể tin tưởng vị tướng tuân thủ mệnh lệnh của ông là không bao giờ gây rủi ro cho đội quân trừ khi có ưu thế vượt trội.
    Có lẽ vì lớn hơn Pyotr Đại đế đến 20 tuổi, Sheremetev không gần gũi với Pyotr so với những cận thần khác "cùng trang lứa" với Pyotr. Cũng có thể nhờ tuổi tác, Sheremetev ít bị tai tiếng về chuyện ăn nhậu hoặc quậy phá, và không mấy liên quan đến những vụ việc tham nhũng của những đại thần khác trong triều đình. Pyotr Đại đế trông cậy vào ông như là con người tận tụy, chỉ cố làm xong nhiệm vụ được giao phó, nhưng không màng kề cận quân vương một cách thân tình.
    Theo nghĩa đó, có thể so sánh Sheremetev đối với Pyotr Đại đế như là Triệu Vân đối với Lưu Bị: toàn tâm toàn lực, nhưng không phải trong vòng thân thiết của anh em kết nghĩa!
  3. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Aleksandr Danilovich Menshikov
    Aleksandr Danilovich Menshikov (1673-1729) là Hoàng thân, Nguyên soái, phó vương đắc lực nhất của Đế quốc Nga dưới triều đại của Pyotr Đại đế. Ông cũng kiêm nhiệm Tổng đốc Sankt-Peterburg, Thượng Nghị sĩ Thứ Nhất, Hiệp sĩ nhận Huân chương St Andrew, Hoàng thân của Thánh chế La Mã, và còn mang tước vị của Ba Lan, Đan Mạch và Phổ. Ông là đại thần tâm đắc nhất của Pyotr Đại đế, người mà Pyotr Đại đế yêu mến nhất chỉ sau Ekaterina I, là người duy nhất có thể tuyệt đối "nói thay Sa hoàng."
    Dòng dõi
    Tên tuổi và sự nghiệp của Aleksandr Danilovich Menshikov gắn kết mật thiết với cuộc đời của Pyotr Đại đế, nhưng gốc gác của người phò tá nổi danh lại ẩn chìm trong huyền thoại. Vài người nói cha ông là nông dân người Litva, đã cho ông đi học nghề làm bánh ở Moskva. Họ kể rằng một ngày, ông đang đi dọc đường phố rao bán bánh ông làm thì Francis Lefort trông thấy ông, tỏ ra mến thích và đưa cậu bé vào làm gia nhân cho ông. Sau đó, dù thất học, nhờ tính nhanh nhẹn, tươi vui và dạn dĩ Menshikov thu hút sự chú ý của Sa hoàng. Ông được chuyển qua làm gia nhân cho Pyotr Đại đế. Với vị thế này, tuy chức vụ nhỏ nhưng nhờ được kề cận quân vương, Menshikov vận dụng khả năng làm mê hoặc lòng người và những mánh lới khác nhau để dần dà trở nên một trong những người giàu nhất và có quyền lực nhất châu Âu vào thế kỷ 18. Ông luôn tỏ ra liều lĩnh, đến mức biển thủ quá đáng số tiền được giao cho ông quản lý, và đến mức giúp ông ngăn chặn được cơn cuồng nộ của quân vương. Cuối cùng, Pyotr Đại đế đe dọa trả ông về đi bán bánh trên đường phố Moskva. Tối hôm ấy, Menshikov xuất hiện trước mặt Pyotr Đại đế mang tấm tạp dề và cầm một cái khay đựng bánh đeo qua vai, rao lên: "Bánh nóng! Bánh nóng! Bánh mới làm đây!" Pyotr Đại đế lắc đầu, phá lên cười và lại tha thứ cho ông.
    Chuyện thực sự về ông có lẽ chỉ kém lý thú hơn một chút. Điều gần như chắc chắn là cha của Menshikov là binh sĩ phục vụ Sa hoàng Aleksei I rồi trở thành hạ sĩ văn phòng ở Preobrazhenskoe. Gốc gác của gia tộc có lẽ là Litva. Một nhà ngoại giao ?" người đã giúp Menshikov trở thành Hoàng thân của Thánh chế La Mã ?" tuyên bố rằng ông là hậu duệ của một gia đình quý tộc ngày xưa. Có lẽ các từ ngữ "quý tộc" và "ngày xưa" được thêm vào hầu Hoàng đế Hapsburg vốn bảo thủ cứng nhắc dễ chấp nhận ông hơn, nhưng có bằng chứng cho thấy thân nhân của Menshikov sinh sống ở Minsk, lúc ấy thuộc về Litva.
    Thời tuổi trẻ
    Ông sinh năm 1673, kém Pyotr Đại đế một tuổi rưỡi, lúc còn nhỏ phụ giúp trong chuồng ngựa ở Preobrazhenskoe. Hiểu rõ lợi ích của việc kề cận Sa hoàng, ông xin làm binh sĩ trong đại đội thiếu niên. Năm 1693, ông là binh sĩ pháo binh ?" binh chủng ưa thích nhất của Pyotr Đại đế ?" trong Lữ đoàn Preobrazhenskoe. Mang quân hàm trung sĩ, ông đứng kế bên Sa hoàng dưới bức tường thành Azov, và khi Pyotr Đại đế lập Đại Phái bộ Sứ thần, Menshikov là một trong những người tình nguyện đầu tiên và được chọn. Vào lúc này, ông đang là một trong những thị thần của Sa hoàng. Nhiệm vụ của thị thần là đêm ngày chăm sóc quân vương, thay phiên nhau ngủ trong phòng bên cạnh hoặc, khi Sa hoàng đang vi hành, ngủ ở chân giường quân vương. Menshikov làm việc bên cạnh Pyotr Đại đế ở xưởng đóng tàu của Amsterdam và Deptford. Trong nghề mộc xây tàu ông giỏi ngang với Pyotr Đại đế, và là duy nhất có tay nghề thật sự thời bấy giờ. Ông tháp tùng Sa hoàng trong các chuyến viếng thăm cơ xưởng và phòng thí nghiệm, học nói tiếng Hà Lan và tiếng Đức, và học cách giao tế xã hội. Tuy dễ thích nghi và lãnh hội nhanh, ông vẫn giữ bản chất Nga và, vì thế, gần như là mẫu người mà Pyotr Đại đế muốn tạo dựng cho nước Nga. Ở ông, ít nhất có một người sẵn sàng đoạn tuyệt với tập tục Nga xưa cũ, không những thông minh và tài giỏi, mà còn thực sự thiết tha muốn phục vụ.
    Điều không tránh khỏi là việc thăng tiến nhanh khiến người khác xầm xì sau lưng về gốc gác gia tộc không rõ ràng và thiếu học thức. Tuy thế, ông vẫn tiếp tục đi lên. Ông là con người đặc biệt ở tính khôn khéo, lạc quan, khả năng thông hiểu kỳ lạ, gần như đoán trước được mọi mệnh lệnh và tâm tư cá nhân của Pyotr Đại đế, và tính nhẫn nhục chịu đựng cơn giận dữ và ngay cả hành vi bạo lực của Sa hoàng. Vài lần ông bị Pyotr Đại đế đấm, có lúc phải nằm dài trên đất. Menshikov chấp nhận không chỉ qua nhịn nhục, mà còn bằng tố chất vui vẻ. Dần dà, khả năng thông hiểu tính khí của Pyotr Đại đế và sẵn sàng đón nhận bất kỳ thứ gì Pyotr Đại đế ban ?" dù cho ân huệ hoặc bạo lực ?" đã khiến Pyotr Đại đế thấy không thể thiếu ông được. Ông không còn là thị thần nữa, mà đã trở thành một người bạn.
    Thăng tiến sự nghiệp
    Năm 1700, lúc chiến tranh mới bắt đầu, Menshikov vẫn còn làm việc nhà cho Pyotr Đại đế. Nhưng khi chiến tranh đã xảy ra, Menshikov lao vào trận tuyến, cho thấy cũng tài giỏi về mặt chỉ huy quân sự ngang bằng những mặt khác. Ông kề cận Pyotr Đại đế ở Narva và ra đi cùng với Sa hoàng trước khi trận đại bại xảy ra. Trong chiến dịch mà Pyotr Đại đế thân hành chỉ huy ở [Ingria]] năm 1701, Menshikov tỏ ra là sĩ quan trợ lý xuất chúng. Sau khi công hãm và chiếm được Nöteborg (bây giờ là Schlüsselburg), Menshikov nhận chức tổng trấn pháo đài này. Ông tham gia vào các cuộc hành quân tiếp theo, rồi trong việc xây dựng Pháo đài Pyotr và Paul, nhận công tác giám sát thi công một trong sáu công sự, sau đó mang tên ông. Năm 1703, ông làm tổng đốc các tỉnh Karelia, Ingria và Estonia. Cùng năm, để làm vui lòng Sa hoàng, Pyotr Golitsyn, đại sứ Nga ở Wien, dàn xếp để Menshikov nhận tước hiệu Bá tước của Hungary. Năm 1705, Hoàng đế Joseph phong ông làm Hoàng thân của Thánh chế La Mã. Hai năm sau, nhờ chiến công đánh bại quân Thụy Điển ở Kalisz bên Ba Lan, Sa hoàng ban cho ông tước hiệu Hoàng thân Xứ Izhora, với một mảnh đất phong rộng lớn.
    Quan trọng hơn tước phong hoặc của cải là tình bạn với Pyotr Đại đế ?" vì mọi tước phong và của cải đều tùy thuộc vào đây. Cái chết của Lefort năm 1699 khiến cho Sa hoàng không còn người thân cận nào để tâm sự về những tầm nhìn, hy vọng và thất vọng. Menshikov lấp vào chỗ trống, và trong những năm đầu của cuộc chiến, tình bạn với Pyotr Đại đế nảy nở thân thiết hơn. Ông tháp tùng Sa hoàng mọi nơi và nhúng tay vào mọi việc Sa hoàng ra lệnh. Ông có thể cùng Pyotr Đại đế nhậu nhẹt, là người lắng nghe tâm tư của quân vương, là nhà chỉ huy đội kỵ binh của quân vương, và là bộ trưởng trong chính phủ của quân vương ?" trong mọi cương vị ông đều tỏ ra tận tụy và có kỹ năng. Sa hoàng dần dần xưng hô với ông một cách thân mật hơn.
    Với sự nghiệp thăng tiến, tiếp tục được ban phát danh dự và tưởng thưởng, kẻ thù của ông càng nhiều. Dưới mắt họ, ông có vẻ xun xoe, nhiều tham vọng và, khi có quyền lực, trở nên chuyên quyền. Ông có thể tỏ ra khe khắt và tàn nhẫn, và không bao giờ quên khi bị chơi xấu. Nhược điểm lớn nhất của ông, đôi lúc gần khiến cho ông tuột dốc, là thói keo kiệt. Bản thân lớn lên trong cảnh nghèo túng và rồi bị bao quanh với những cơ hội thu tóm của cải, ông nắm bắt bất cứ thứ gì có thể được. Khi ông đã lớn tuổi, tính chất này càng lộ rõ ?" hoặc ít nhất khó che đậy hơn. Đã biết rõ ông sử dụng quyền hành để làm giàu thêm và thường trực tiếp biển thủ công quỹ, vài lần Pyotr Đại đế cố gắng ngăn chặn. Ông bị đưa ra xét xử trước tòa án, bị cách chức, bị phạt tiền, ngay cả bị Sa hoàng nổi giận đánh đấm. Nhưng lúc nào cũng thế: tình chiến hữu trong 30 năm can dự vào, Pyotr Đại đế nguôi giận, và Menshikov được phục hồi.
    Thực ra, Menshikov không phải chỉ là con người tinh ranh hoặc nịnh nọt để tham lam. Ông tỏ ra là một người bạn mà Pyotr Đại đế không thể thiếu. Ông đã trở thành giống như con người của Pyotr Đại đế: vì ông hiểu quá rõ Sa hoàng sẽ hành động như thế nào trong mỗi tình huống mà mọi người xem mệnh lệnh của ông cũng là vương lệnh của Sa hoàng. Có lần, Pyotr Đại đế nói: "Ông ấy hành xử theo ý của mình mà không hỏi ý kiến của ta. Nhưng phần ta chưa hề quyết định việc gì mà không hỏi ý kiến của ông ấy." Dù là theo chiều hướng gì đi nữa, Menshikov đã giúp Pyotr Đại đế tạo dựng nên nước Nga mới.
  4. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Hết sức xin chinook cho mi?nh copy ba?i na?y cu?a bạn sang nuocnga.net
  5. YoutaMoutechi

    YoutaMoutechi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    967
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn kiến thức mới và nhiệt tình dịch thuật của bác chinoock ! hi vọng các chiến sĩ có thể bớt đào bới chính trị và cũng cấp được những thứ như thế này.
  6. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    bạn ơi các này mình ko chỉ copy lại bên wikipedia.org thôi . Nếu bạn muốn thì mình cứ hỏi tác giả bên wikipedia.org
  7. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    em xin tiếp về các tướng của Pyotr mà bên wikipedia.org
    Tham nhũng
    Có lời nhận xét rằng khi ông di chuyển xuyên nước Nga từ Biển Baltic cực bắc xuống đến Biển Caspian cực nam, mỗi tối ông đều có thể nghỉ đêm trên đất phong của mình. Ông có một dinh thự đồ sộ ở Sankt-Peterburg có thể dọn 200 món ăn đựng trên đĩa bằng vàng. Dù Sa hoàng đã yêu mến ban cho ông nhiều bổng lộc, ông không hề cảm thấy đủ. Khi không có đủ tiền hối lộ và quà cáp, ông tìm cách biển thủ công quỹ. Dù Sa hoàng đã ra những mức tiền phạt khổng lồ, ông vẫn luôn giàu có, và sau một thời gian bị thất sủng ông lại vươn lên.
    Pyotr thường nhắm mắt làm ngơ cho ông, nhưng có lúc vượt mức chịu đựng. Một lần, khi Pyotr tạm thời phong tỏa đất phong bao la của ông ở Ukraina và đòi ông phải trả một khoản tiền phạt lớn, Menshikov trả đũa bằng cách cho mang đi mọi rèm cửa, màn che và đồ nội thất trong cung điện của ông. Khi Pyotr đến thăm, ông thấy tòa nhà hầu như trống không. Ông hỏi "Việc này có nghĩa là gì vậy?" Menshikov trả lời: "Than ôi, thưa Hoàng thượng, tôi bắt buộc phải đem bán mọi thứ để thanh toán tiền cho Kho bạc." Pyotr nhìn chăm bẳm ông một lúc rồi nói: "Ta biết rồi. Đừng làm trò với ta. Nếu 24 giờ sau ta trở lại, ngôi nhà của ông không được trang bị cho xứng với một Hoàng thân và Tổng đốc Sankt-Peterburg, số tiền phạt sẽ gấp đôi!" Khi Pyotr quay lại, tòa cung điện được trang hoàng còn lộng lẫy hơn trước.
    Menshikov bị Pyotr cảnh cáo nhiều lần, bị tố giác và phạt tiền nhiều lần, nhưng đều thoát trọng tội. Đến năm 1719, ông và Fyodor Matveyevich Apraksin bị kết tội biển thủ, bị xử tịch thu mọi đất phong và tước vị, nhận lệnh phải trả lại thanh gươm và bị quản thúc tại gia để chờ Pyotr phê duyệt bản án. Pyotr thoạt đầu ký duyệt, rồi ngày sau trong sự ngạc nhiên của nhiều người, hủy bỏ bản án vì xét công trạng trong quá khứ. Cả hai được phục hồi mọi tước vị và tài sản, chỉ phải trả tiền phạt nặng. Sa hoàng không thể cai trị mà thiếu hai người.
    Đúng như lời tiên đoán của Pyotr rằng "Menshikov luôn luôn là Menshikov", đến năm 1723, Menshikov lại bị bắt và đưa ra xét xử cũng vì tội biển thủ. Cuộc điều tra đang tiếp diễn thì Pyotr qua đời, và sau đó Nữ hoàng Ekaterina I ra lệnh chấm dứt điều tra. Nhưng Menshikov bị mất chức Bộ trưởng Chiến tranh.
    Năm 1725, khi Pyotr Đại đế đnng hấp hối trên giương bệnh, Ekaterina nói với Pyotr rằng, để ông được hưởng an bình với Thượng đế, bà xin ông tha thứ cho Menshikov. Pyotr Đại đế đồng ý, và vị Hoàng thân bước vào để được quân vương đang tha thứ lần cuối.
    Dưới triều Nữ hoàng đế Ekaterina I
    Sau khi Ekaterina lên ngôi Nữ hoàng, nhân vật nắm quyền cai trị thật sự là Menshikov. Một năm sau khi Pyotr Đại đế qua đời, ông thiết lập Hội đồng Cơ mật Tối cao để "giảm gánh nặng quản trị nhà nước của Lệnh Bà." Sáu thành viên ban đầu của Hội đồng gồm ?" cả Menshikov ?" có quyền lực gần như là quân vương, kể cả quyền ban hành nghị định. Menshikov chi phối Hội đồng giống như ông đã chi phối Thượng Nghị viện vốn giờ đây đã bị cắt bớt quyền hạn. Mỗi khi có sự chống đối trong khi họp Hội đồng, ông chỉ việc đứng lên và tuyên bố rằng ý kiến mà ông phát biểu chính là ý của Nữ hoàng.
    Menshikov tỏ ra thận trọng khi đề ra chính sách. Ông hiểu rằng nông dân đang chịu gánh nặng của thuế khóa, nên ông nói với Nữ hoàng: "Nông dân và quân đội giống như linh hồn và cơ thể; ta không thể mất cái này mà được cái kia." Theo đó, Ekaterina đồng ý giảm một phần ba thuế thân, cùng lúc cắt giảm một phần ba lực lượng quân sự. Hơn nữa, triều đình xóa nợ cho mọi khoản thuế còn tồn đọng. Nhưng Menshikov không nắm quyền tuyệt đối. Quận công Karl Friedrich của Holstein-Gottorp, con rể của Ekaterina, được bổ nhiệm vào Hội đồng Cơ mật Tối cao dù bị Menshikov chống đối.
    Ekaterina qua đời vì bệnh 2 năm 3 tháng sau khi lên ngôi. Khi sắp qua đời, bà chỉ định cháu nội của Pyotr Đại đế, Đại Công tước Pyotr Alekseevich, là người kế vị, với toàn thể Hội đồng Cơ mật Tối cao làm phụ chính. Hai công chúa Anna lúc này lên 17 và Yelizaveta lên 16 cũng được cử làm phụ chính.
    Điều nghịch lý ở chỗ Alexeevich, niềm hy vọng của gới quý tộc cũ và phe bảo thủ, được lên ngôi tức Hoàng đế Pyotr II của Nga là do Menshikov sắp đặt. Dĩ nhiên, động lực của ông chỉ đơn thuần là do ích kỷ. Trong khi Ekaterina còn sống, Menshikov tính toán cơ may của hai cô con gái của bà, Anna và Yelizaveta so với cơ may của Pyotr II, rồi đi đến kết luận là cậu hoàng tử này có triển vọng nhất. Vì thế, ông quay sang ủng hộ Pyotr II và vận dụng uy quyền của mình để thuyết phục Ekaterina nghe theo ý của ông: chỉ định Pyotr II lên ngôi, cử hai công chúa làm phụ chính. Và Menshikov cũng không quên gia đình mình. Trước đó, ông đã xin Ekaterina đồng ý cho hoàng đế tương lai 11 tuổi cưới con gái Maria của ông 16 tuổi.
    Việc Menshikov thình lình quay sang ủng hộ Pyotr II khiến các đại thần cũ khác của Pyotr Đại đế kinh ngạc và lo âu. Nhất là Pyotr Andreyevich Tolstoy: ông này hiểu rõ rằng Hoàng đế Pyotr II sẽ tìm cách làm hại ông để báo thù cho việc ông đẫ dẫn dụ người cha từ Napoli về để nhận cái chết. Tolstoy kêu gọi đến các thành viên khác của Hội đồng Cơ mật Tối cao, nhưng không được ủng hộ mấy, vì nhiều người muốn chờ để nghe ngóng tình hình. Chỉ có Anthony Devier, em rể của Menshikov, và Tướng Ivan Buturlin, Tư lệnh Cảnh vệ, là chống đối Menshikov. Nhưng đã quá muộn. Ekaterina đang hấp hối, và Menshikov đã điều người thân tín của mình làm việc chung quanh bà khiến cho những người khác không thể tiếp xúc với bà. Rồi ông trả đũa: Devier bị đánh roi rồi đày đi Siberia, Tolstoy bị điều đến một hòn đảo trên Biển Bắc và sống ở đây cho đến khi qua đời năm 1729, hưởng thọ 84 tuổi.
    Một khi Ekaterina đã qua đời và cậu hoàng đế trẻ Pyotr II được tấn phong, Menshikov hành động nhanh chóng để gặt hái thành quả. Một tuần sau lễ tấn phong, Pyotr II bị bắt buộc phải rời Cung điện Mùa đông để đến sống trong dinh thự của Menshikov. Hai tuần sau, Pyotr II cử hành hôn lễ với Maria. Những người cùng phe với Menshikov, thuộc hai dòng họ quý tộc mới Dolgoruky và Golitsyn, được cử vào Hội đồng Cơ mật Tối cao.
    Andrei Ivanovich Osterman bây giờ nhận thêm trách nhiệm là gia sư của Hoàng đế. Cậu học trò không chú ý đến sách vở mà chỉ thích cưỡi ngựa và săn bắn. Khi Osterman tỏ ý trách móc, cậu hoàng đế 11 tuổi đã tỏ tư cách cứng cỏi: "Ông Andrei Ivanovich thân yêu, ta mến ông, và với chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao ông là người thiết yếu, nhưng ta phải yêu cầu ông trong tương lai đừng chen vào thú tiêu khiển của ta." Thân cận với Pyotr II gồm có 3 người: chị gái Natalia lớn hơn 1 tuổi, dì Yelizaveta 18 tuổi chỉ thích vui chơi mà không màng đến việc nước, và Hoàng thân Ivan Dolgoruky 18 tuổi.
    Trong mùa hè 1727, một mình Menshikov ngự trên đỉnh cao quyền lực; có lẽ còn chuyên chế hơn ngay cả Pyotr Đại đế. Ông là nhà cai trị của nước Nga mà không ai dám chống đối, cộng thêm địa vị là cha vợ của Hoàng đế: mọi quân vương của Nga trong tương lai sẽ mang một phần dòng máu của ông. Nhận thấy địa vị của mình dã được vững chắc, Menshikov trở nên táo tợn: ban hành mệnh lệnh một cách kiêu ngạo, ngăn chặn khoản tiền được chuyển đến cho Hoàng đế và khiển trách cậu bé, lấy đi cái đĩa bạc mà Pyotr II đã tặng cô chị Natalia. Cảm thấy cay cú, cậu bé nói với Menshikov một cách đe dọa: "Chúng ta sẽ xem ai là hoàng đế: ông hay là tôi."
    Xuống dốc
    Tháng 7 năm 1727, Menshikov ngã bệnh, phải ngưng tham gia việc triều chính. Trong thời gian ông không thể nắm quyền lực, Pyotr II cùng Natalia và Yelizaveta dời đến cư ngụ và làm việc ở Cung điện Peterhof. Quan chức triều đình có nhận xét là việc nước vẫn trôi chảy dù cho Menshikov không hiện diện. Khi khỏi bệnh, Menshikov xuất hiện ở Peterhof, nhưng ông kinh ngạc thấy Pyotr II quay lưng lại với ông. Những người chung quanh cũng kinh ngạc khi nghe Hoàng đế nói với họ: "Các ông thấy đó, cuối cùng tôi đã học được cách khuất phục ông ta." Tháng 9 năm 1727, Menshikov bị tước mọi chức vụ và bị thu hồi mọi huân chương; cả gia đình ông ?" kể cả con gái Maria ?" bị dời đến cư ngụ trên một vùng đất phong ở Ukraina. Họ rời Sankt-Peterburg với 4 cỗ xe có sáu ngựa kéo và 60 hòm hành lý.
    Bây giờ, Pyotr II chịu ảnh hưởng của dòng họ Dolgoruky. Hoàng thân Alexis Dolgoruky, cha của bạn Hoàng đế là Ivan, và Hoàng thân Vasiliy Lukich Dolgorukov được cử vào Hội đồng Cơ mật Tối cao. Dòng họ Dolgoruky chấm dứt hẳn sự nghiệp của Menshikov: tháng 4 năm 1728 ông bị kết tội phản quốc vì đã tiếp xúc với Thụy Điển, cả gia tài vĩ đại của ông bị tịch thu. Cả gia đình bị đày đến một làng hẻo lánh trên vùng thảo nguyên ở bắc Siberia. Ông qua đời ở đây vào tháng 11 năm 1729, thọ 56 tuổi, và ít tuần sau Maria cũng qua đời.
  8. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Patrick Gordon (1635-1699) là một tướng nổi tiếng của Quân đội Hoàng gia Nga và người bạn thân của Pyotr I
    Gốc gác
    Patrick Gordon thuộc một gia đình tiếng tăm người Scotland và sùng bái đạo Tin Lành. Cuộc Nội chiến Anh khiến cho thời tuổi trẻ của ông bị rối rắm. Gia đình ông ủng hộ nhiệt thành hoàng gia, nhưng khi vua Charles I bị tử hình, tài sản gia đình bị tịch thu, ông không thể vào đại học hoặc quân ngũ. Ông đi ra nước ngoài để lập nghiệp ở tuổi 16. Ông được quân đội Thụy Điển tuyển dụng, lập nhiều chiến công, nhưng khi bị Ba Lan bắt làm tù binh, ông không ngần ngại phục vụ Ba Lan. Chạy sang hàng ngũ bên địch là chuyện bình thường đối với lính đánh thuê thời ấy ?" thỉnh thoảng thay đổi chủ nhân không phải là chuyện đáng xấu hổ. Vài tháng sau, ông bị Thụy Điển bắt, lại đổi chủ, rồi bị Ba Lan bắt, lại đổi chủ. Trước khi lên 25, ông đã đổi chủ 4 lần.
    Phục vụ cho nước Nga
    Một nhà ngoại giao Nga đã gặp ông ở Thụy Điển và mời ông phục vụ quân đội Nga trong thời gian 3 năm, khởi đầu với quân hàm thiếu tá. Gordon chấp nhận và rồi, khi đến Moskva, mới biết thời gian quy định trong hợp đồng không có nghĩa lý gì cả: vì là sĩ quan, ông không được phép ra đi. Khi ông xin đi, bên Nga dọa sẽ kết án ông làm gián điệp cho Ba Lan và có thể đày ông đi Siberia. Sau thời gian tạm thời chấp nhận số phận của mình, ông hòa nhập vào cuộc sống tại Moskva. Nhanh chóng hiểu ra rằng cơ hội tốt nhất để thăng tiến là cưới một phụ nữ Nga, ông tìm được một người, rồi tạo dựng một gia đình.
    Nhiều năm trôi qua, ông đã phục vụ Sa hoàng Aleksei I (cha của Pyotr), Sa hoàng Fyodor III (anh cùng cha khác mẹ của Pyotr) và Phụ chính Sofia Alekseyevna (chị cùng cha khác mẹ của Pyotr). Ông tham gia vào các trận chiến chống Ba Lan, các sắc tộc Thổ, Tatar và Bashkir. Ông được thăng lên cấp tướng và đã về thăm Anh và Scotland hai lần, sau khi người Nga đảm bảo nhân vật sáng giá này sẽ trở lại bằng cách giữ vợ con ông ở lại Moskva.
    Năm 1686, vua James II của Anh đích thân yêu cầu Sofia chấm dứt nhiệm vụ của ông ở Nga để ông có thể về nước; Sofia từ chối, và trong một thời gian có thêm lời nói bóng gió về việc tiêu tan sự nghiệp và Siberia. Rồi James II gửi công văn thông báo muốn bổ nhiệm Gordon làm đại sứ ở Moskva; việc đề cử lại bị từ chối vì ông vẫn còn ở trong quân ngũ và sắp lên đường đi chinh chiến chống Tatar. Thế là, vào năm 1689, ở tuổi 54, được mọi người kính trọng, Gordon trở nên cực kỳ giàu có (lương 1000 rúp mỗi năm, trong khi lương của giáo sĩ Lutheran chỉ có 60), và là một nhân vật nổi danh ở Khu Ngoại ô Đức.
    Bạn của Pyotr Đại đế
    Trong thời gian Pyotr Đại đế còn là thanh niên trẻ, Gordon mến thích Pyotr và thường giúp đỡ vị thanh niên trẻ này trong trò chơi tập trận giả.
    Khi Pyotr tìm cách lật đổ người chị cùng cha khác mẹ của ông, Công chúa Sofia lúc đó đang làm Phụ chính, Gordon đang cầm đầu các sĩ quan nước ngoài phục vụ cho chế độ Phụ chính. Nhưng ông dẫn các sĩ quan nước ngoài gia nhập hàng ngũ của Pyotr, và đó là một trong những yếu tố dẫn đến sự thoái vị của Sofia. Từ đó, giữa Pyotr và Gordon nảy nở thêm mối quan hệ mật thiết.
    Lẽ tự nhiên là Gordon ?" con người dũng cảm, đã đi qua nhiều nước, dày dạn kinh nghiệm chiến trường, trung thành và thận trọng ?" có thể thu hút Pyotr. Điều đáng ngạc nhiên là chàng thanh niên Pyotr ở tuổi 18 lại thu hút Gordon. Pyotr là Sa hoàng, chắc chắn rồi, nhưng Gordon đã phục vụ những Sa hoàng khác chỉ theo quan hệ bằng hữu. Tuy nhiên, trong con người của Pyotr, vị tướng già tìm thấy một anh học trò tinh thông và ngưỡng mộ ông. Với tư cách huấn luyện viên quân sự bán chính thức, ông dạy cho Pyotr mọi khía cạnh của chiến tranh. Trong 5 năm sau khi Sofia bị lật đổ, Gordon trở nên không chỉ là một tướng lĩnh đánh thuê, mà còn là một người bạn của Pyotr. Đối với Gordon, tình bạn với Pyotr là yếu tố quyết định. Bây giờ, vừa là bạn thân vừa là cố vấn cho vị quân vương trẻ, ông từ bỏ giấc mơ trở về quê nhà để sống những năm cuối đời.
    Ở Arkhangelsk
    Vào năm 1694, khi Pyotr Đại đế đi Arkhangelsk lần thứ hai, Patrick Gordon được phong quân hàm đề đốc. Ông đi trêm một trong ba chiếc tàu của Pyotr hộ tống một đoàn thương thuyền đến nơi Biển Trắng mở rộng ra Bắc băng Dương. Đó là lần đầu tiên nước Nga có một hạm đội vượt đại dương, khởi đi từ cảng của Nga và trở về cảng của Nga, do tướng lĩnh hải quân Nga chỉ huy (Gordon là người nước ngoài nhưng mang quân hàm Nga và lĩnh lương của Nga).
    Chiến dịch đánh Azov 1695
    Khi Pyotr Đại đế dẫn quân đi đánh Azov của Đế chế Ottoman năm 1695, Gordon là một trong ba sư đoàn trưởng; hai người kia là Francis Lefort và Fyodor Alekseyevich Golovin. Không ai được cử làm tư lệnh cả chiến dịch. Điều này gây ra sự chia rẽ trong cấp chỉ huy ?" càng ngày càng trầm trọng. Cả Lefort và Golovin đều bực bội với Gordon và liên kết với nhau để bác lại ý kiến của Gordon dù ông có nhiều kinh nghiệm chiến trường hơn. Pyotr cũng mất kiên nhẫn, cùng với Lefort và Golovin quyết định mở cuộc tấn công nhằm tràn ngập thị trấn địch, nhưng Gordon cho rằng cần phải đào đường hào đến gần tường thành hơn để bảo vệ binh lính trước cuộc tấn công. Ý kiến của ông bị gạt ra một bên, và cuộc tấn công thất bại như đã được dự báo. Trong số 4 trung đoàn, 1.500 binh sĩ tử trận cùng một số sĩ quan.
    Gordon lại tham gia chiến dịch đánh Azov năm sau, và lần này quân Nga thắng trận, chiếm được Azov.
    Trấn áp Cấm vệ nổi loạn
    Gordon góp công lớn trong việc trấn áp đám Cấm vệ nổi loạn năm 1697. Hai Lữ đoàn Cảnh vệ Hoàng gia Preobrazhenskoe và Semyonovsky nhận lệnh lên đường trong vòng một tiếng đồng hồ. Để ngăn chặn mọi mầm mống phản loạn có thể phát tán đến họ, lệnh truyền ra là kẻ nào từ chối đối đầu với quân tạo phản sẽ bị coi là tạo phản như nhau. Gordon đi giữa hàng quân, kêu gọi và khích lệ họ rằng không có gì vinh quang hơn khi chiến đấu chống lại bọn phản loạn để bảo vệ quân vương và đất nước. Thế là 4.000 quân trung thành lên đường ra khỏi thành phố đi về hướng tây, dẫn đầu là Aleksei Shein và Gordon, lúc này mang quân hàm đại tướng. Đại tá De Grage, sĩ quan pháo binh người Áo, điều động 25 khẩu pháo đi theo.
    Cuộc đối đầu xảy ra cách Moskva gần 50 kílômét về hướng tây-bắc, gần tu viện nổi tiếng New Jerusalem của Giáo chủ Nikon. Hai bên giáp mặt nhau ngoài đồng trống. Có một dòng sông nhỏ chảy gần tu viện. Shein và Gordon bố trí quân dọc bờ đông, chặn đường tiến về Moskva. Chắng bao lâu, những hàng dài Cấm vệ xuất hiện, và toán tiên phong sửa soạn vượt sông. Để tìm hiểu xem có cơ hội nào chấm dứt cuộc phản loạn một cách êm thấm hay không, Gordon đi xuống bờ sông để nói chuyện với binh sĩ phản loạn. Khi những Cấm vệ đầu tiên bước từ dưới nước lên, ông lấy tư cách là người lính già để khuyến dụ họ rằng trời đã gần tối và đường về Moskva còn xa, họ nên cắm trại bên kia bờ sông vì bên ấy có nhiều khoảng trống hơn. Họ có thể nghỉ qua đêm, rồi sáng hôm sau sẽ quyết định làm gì tiếp.
    Nhóm Cấm vệ đã mỏi mệt và phân vân, không chuẩn bị tinh thần là sẽ chiến đấu trước khi về đến thủ đô, vì thế họ chấp nhận lời khuyên của Gordon mà hạ trại. Trong lúc Gordon đang tiếp xúc với Cấm vệ, binh sĩ của Shein lặng lẽ đào công sự bố phòng trên những vị trí cao bên bờ đông và De Grage bố trí các khẩu đại pháo từ trên cao, hướng nòng súng qua con sông, nhắm đến các vị trí của Cấm vệ ở bờ bên kia.
    Bình minh ngày kế, sau khi an tâm thấy vị trí đội quân của ông đã được củng cố vững chắc theo cách có thể được, Gordon lại đi xuống bờ sông để nói chuyện với Cấm vệ. Lần này, họ đòi hỏi phải đọc các thỉnh nguyện của họ cho đội quân trung thành nghe. Gordon từ chối: nội dung thỉnh nguyện như thế thật ra là lời kêu gọi chống lại Sa hoàng bằng vũ lực và lời kết tội những bạn thân của Sa hoàng, đặc biệt là Lefort. Thay vào đó, Gordon giải thích về lòng khoan dung của Sa hoàng. Ông kêu gọi Cấm vệ quay bước một cách êm thấm, trở về với nhiệm vụ trấn giữ tiền đồn của họ, bởi vì hành động phản loạn sẽ không mang lại lợi ích gì cả. Ông hứa rằng nếu họ trình thỉnh nguyện một cách ôn hòa kèm với lời cam kết trung thành với Sa hoàng, ông sẽ đảm bảo thư thỉnh nguyện được đáp ứng và những hành động cho đến lúc này sẽ được tha thứ. Gordon đã thất bại. Ông dùng mọi ngôn từ hay nhất để thuyết phục, nhưng không thành công. Phe Cấm vệ trả lời rằng họ chỉ quay lại căn cứ của họ sau khi đã được thăm gia đình và lãnh phần lương còn thiếu.
    Gordon báo cáo tự sự với Shein, rồi đi thuyết phục lần thứ ba với đề nghị sẽ trả lương và ân xá cho họ. Tuy nhiên, đến lúc này phe Cấm vệ đã trở nên mất kiên nhẫn và bồn chồn. Họ cảnh cáo Gordon ?" chỉ huy cũ của họ và cũng là người nước ngoài ?" rằng ông nên tránh ra nếu không sẽ ăn đạn. Họ hét lên rằng họ sẽ không nghe theo mệnh lệnh của ai hết, và nếu họ bị cản trở, họ sẽ mở đường bằng vũ lực. Giận dữ, Gordon báo cáo tự sự với Shein, và lực lượng trung thành chuẩn bị tác chiến.
    Loạt đạn đầu là theo hiệu lệnh của Shein. Với tiếng gầm rít, những cuộn khói bốc lên từ các họng súng đại bác, nhưng không gây thiệt hại gì. Đại bác của De Grage chỉ bắn thuốc súng mà không bắn đạn thật; Shein đã hy vọng việc biểu dương hỏa lực như thế có thể khiến Cấm vệ hoảng sợ mà đầu hàng. Thay vào đó, loạt đại bác đầu tiên có tác dụng ngược lại. Nghe tiếng nổ của đạn pháo nhưng không thấy bên mình bị thiệt hại gì, Cấm vệ trở nên bạo dạn thêm vì nghĩ họ có thế mạnh hơn. Thế là, vừa đánh trống vừa giương cao cờ xí, họ kéo nhau vượt sông. Thấy tình hình như thế, Shein và Gordon ra lệnh cho De Grage khai hỏa thực sự. Đại bác lại gầm rít, lần này bắn đạn thật vào hàng ngũ của Cấm vệ. Tiếp tục từng loạt này qua loạt khác, 25 khẩu pháo của De Grage hướng nòng về phía đối diện, đạn pháo thi nhau rơi xuống hàng ngũ quân phản loạn. Trong vòng một giờ, trận chiến chấm dứt.
    Sau khi nghe lời cung khai, Shein ông ra lệnh cho đao phủ thủ thi hành nhiệm vụ. Gordon phản đối lệnh xử tử, không phải để cứu lấy sinh mạng của người bị kết án, mà để muốn khai thác họ thêm sau này. Ông van nài với Shein vì đoán ý Pyotr Đại đế sẽ muốn đào sâu vào sự thực trong vụ việc. Nhưng Shein là người chỉ huy và nhất quyết cho rằng cần thi hành án tử hình để gây ấn tượng đúng mức với những binh sĩ Cấm vệ khác ?" và với cả đất nước ?" để mọi người đều biết số phận của kẻ phản loạn là như thế nào. Kết quả là 130 người bị hành quyết tại chỗ và số còn lại, gần 1.900, bị giải về Moskva trong xiềng xích.
    Qua đời
    Gordon qua đời năm 1699. Tang lễ của ông được tổ chức theo nghi thức cấp nhà nước và được tất cả nhân vật quan trọng ở Moskva tham dự. Người Nga tự nguyện đến dự, vì sự tận tâm và công trạng của người lính già đối với ba Sa hoàng đều được mọi người đánh giá cao. Khi Gordon qua đời, Pyotr Đại đế có mặt bên giường bệnh, đẫm lệ mà vuốt mắt cho ông.
    Chẳng bao lâu, Pyotr nhận ra sự mất mát cả về mặt chuyên nghiệp lẫn cá nhân sau cái chết của vị tướng già. Gordon là vị tướng tài ba nhất ở Nga, với kinh nghiệm dày dặn qua nhiều chiến dịch. Trong cuộc chiến sắp đến với Thụy Điển, ông đáng lẽ là tư lệnh và cố vấn đắc lực. Nếu ông còn sống, trận đại bại của quân Nga ở Narva ?" chỉ 12 tháng sau khi ông chết ?" hẳn sẽ không bao giờ xảy ra.
    hân với Pyotr Đại đế.
  9. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Franz Lefort (23 tháng 12, 1655 - 2 tháng 3, 1699) là một đô đốc của Nga dưới thời của Pyotr Đại đế.
    Gốc gác
    Franz Lefort là con của một thương nhân Thụy Sĩ giàu có. Tính thích hưởng thụ cuộc đời vui tươi đã nhanh chóng dập tắt mọi ý tưởng về buôn bán như người cha, nên ông gia nhập quân đội Hà Lan để chống Pháp, rồi năm lên 19 đi đến Nga nhưng không tìm được việc làm trong hai năm đầu. Dần dần ông nhận quân hàm đại úy, dưới chế độ phụ chính của Sofia Alekseyevna được Hoàng thân Vasily Vasilievich Golitsyn chú ý, tham gia hai chiến dịch đánh Azov ở Crimea. Khi Patrick Gordon dẫn đoàn sĩ quan nước ngoài rời Sofia để gia nhập với Pyotr Đại đế ở Troitsky, Lefort cũng đi theo. Ít lâu sau khi Sofia bị lật đổ, Lefort được thăng thiếu tướng năm 34 tuổi
    Bạn của Pyotr Đại đế
    Lefort có tính nhiệt náo, thích phiêu lưu và kết giao. Trong nhiều năm sau, Lefort trở thành người đồng hành đắc lực và bạn thân thiết của Pyotr Đại đế. Pyotr bị mê mẩn bởi con người của thế giới có sức quyến rũ mạnh mẽ. Lefort không được sâu sắc, nhưng đầu óc của ông làm việc nhạy bén và ông thích chuyện trò, hay nói về phương Tây: đời sống, phong cách và công nghệ. Ông tỏ ra nổi bật trong các dạ tiệc và buổi khiêu vũ. Bắt đầu từ 1690, Lefort luôn ở bên cạnh Pyotr; họ ăn tối với nhau hai hoặc ba lần mỗi tuần và gặp nhau hàng ngày. Càng ngày Lefort càng được yêu mến nhờ tính thẳng thắn, cởi mở và hào phóng. Trong khi tướng Patrick Gordon, một tướng lĩnh gốc Scotland cũng phục vụ trong quân đội Nga, đem đến sự cố vấn chính chắn và tham mưu nhậy cảm, Lefort mang lại không khí vui nhộn, tình bằng hữu, sự cảm thông và thấu hiểu. Pyotr Đại đế được thư giãn với Lefort, và khi Pyotr thình lình giận dữ với người nào hoặc việc nào, la mắng tất cả mọi người chung quanh, chỉ một mình Lefort có thể đi đến, nắm chặt hai tay của Pyotr cho đến khi ông bình tĩnh trở lại.
    Lefort được thành công phần lớn là do tính hào phóng. Mặc dù thích xa hoa, ông không bao giờ màng đến chắt móp cho tương lai ?" tính chất mà Pyotr mến thích, nên vị quân vương luôn cung ứng mọi thứ mà Lefort cần đến: trả nợ cho Lefort, cấp cho ông một biệt thự và ngân khoản để sống. Ông được nhanh chóng phong làm đại tướng, đô đốc và đại sứ. Điều quan trọng nhất đối với Pyotr là Lefort thực sự yêu thích cuộc sống ở Nga. Ông nhận nước Nga làm quê hương của mình, không bao giờ nghĩ đến việc trở về sống luôn ở quê nhà.
    Đối với Pyotr, bước vào nhà của Lefort giống như đi vào một thế giới khác. Ở đây, Pyotr tìm được không khí dí dỏm, cuốn hút, hiếu khách, giải trí, thư giãn và thường có phụ nữ hấp dẫn hiện diện. Pyotr vốn chỉ quen biết phụ nữ hoàng gia khô cứng sống trong biệt cung, giờ cảm thấy vui thích đi vào thế giới này. Qua hướng dẫn của Lefort, chẳng bao lâu Pyotr thấy mình ngồi một cách thỏa nguyện trong bầu khói thuốc lá, một cốc bia trên bàn, một ống píp trên môi và cánh tay quàng qua eo một phụ nữ đang cười khúc khích. Lời quở trách của bà mẹ, câu răn dạy của Giáo chủ, giọt nước mắt của cô vợ ?" tất cả đều chìm vào quên lãng.
    Ít lâu sau, Pyotr chú ý đến một phụ nữ ở đây. Cô người Hà Lan này tên là Anna Mons, con gái một thương nhân. Cô đã qua tay Lefort, nhưng khi thấy Pyotr để ý đến cô gái tóc vàng với tiếng cười dạn dĩ và đôi mắt long lanh, Lefort sẵn sàng nhường cô cho anh. Giai nhân có tính phóng khoáng này chính là người Pyotr mong muốn: cô có thể cụng ly với anh và chia sẻ chuyện tiếu lâm với anh. Anna Mons trở thành người tình của Pyotr.
    Ở Arkhangelsk
    Vào năm 1693, khi Pyotr Đại đế đi Arkhangelsk lần thứ nhất, Lefort tháp tùng. Ông giúp Pyotr đặt mua một tàu khu trục ở Amsterdam. Ông cũng được giao đúng việc mà ông luôn làm tốt: tổ chức tiếp tân và tiệc tùng khi Pyotr chào đón đón thương nhân nước ngoài ghé cảng Arkhangelsk.
    Chiến dịch đánh Azov 1695
    Khi Pyotr Đại đế dẫn quân đi đánh Azov của Đế chế Ottoman năm 1695, Francis Lefort là một trong ba sư đoàn trưởng; hai người kia là Patrick Gordon và Fyodor Alekseyevich Golovin. Không ai được cử làm tư lệnh cả chiến dịch. Điều này gây ra sự chia rẽ trong cấp chỉ huy ?" càng ngày càng trầm trọng. Cả Lefort và Golovin đều bực bội với Gordon và liên kết với nhau để bác lại ý kiến của Gordon dù ông này có nhiều kinh nghiệm chiến trường hơn. Pyotr cũng mất kiên nhẫn, cùng với Lefort và Golovin quyết định mở cuộc tấn công nhằm tràn ngập thị trấn địch, nhưng Gordon cho rằng cần phải đào đường hào đến gần tường thành hơn để bảo vệ binh lính trước cuộc tấn công. Ý kiến của ông bị gạt ra một bên, và cuộc tấn công thất bại như đã được dự báo. Trong số 4 trung đoàn, 1.500 binh sĩ tử trận cùng một số sĩ quan.
    Lefort lại tham gia chiến dịch đánh Azov năm sau, và lần này được phong làm Đô đốc Tư lệnh Hạm đội, dù ông không phải là sĩ quan hải quân. Nga thắng trận, chiếm được Azov.
    Đại Phái bộ Sứ thần
    Pyotr Đại đế cử các Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền: Đại tướng?"Đô đốc Francis Lefort (làm Đại sứ Thứ Nhất), Đại tướng Fyodor Golovin và Ủy viên Hội đồng Cơ mật Prokopy Voznitsyn cầm đầu Đại Phái bộ Sứ thần đi viếng thăm chính thức Tây Âu. Có thể nói Lefort là người "chủ mưu" việc này: ông luôn thúc dục Pyotr nên đi để thỏa mãn ý muốn khát khao học hỏi từ Tây Âu.
    Ở Hà Lan, Lefort đưa Pyotr Đại đế đến hội kiến với vua William III của Anh và làm thông dịch trong buổi hội đàm này. Ông cũng làm thông dịch khi William III mời Pyotr đến dự khán một phiên họp của Nghị viện Anh ở London.
    Ở Áo, khi các đại thần Áo nhất quyết cho rằng Hoàng đế của họ không thể công khai đón tiếp một Sa hoàng giấu tung tích, Lefort kiên trì giúp đạt đến thỏa thuận cho một cuộc hội kiến riêng. Lefort làm thông dịch trong buổi hội đàm giữa Pyotr Đại đế và Hoàng đế Áo.
    Qua đời
    Tháng 3 năm 1699, Pyotr Đại đế nhận một tin gây đau đớn cho cá nhân ông: Francis Lefort qua đời. Cả hai lần khi Pyotr làm việc ở Voronezh, Lefort ở lại Moskva. Vào tuổi 43, xem ra ông vẫn còn sức khỏe và tinh thần nồng nhiệt, vẫn lộ vẻ vui tươi và phấn khởi khi tiễn Pyotr đi Voronezh giám sát công cuộc đóng tàu. Ông ngã bệnh sau một bữa tiệc rồi đi ra ngoài uống rượu trong gió đông mà không mặc đủ áo ấm. Ông nằm trên giường bệnh trong một tuần, với một ban nhạc giúp an ủi. Trong những ngày cuối, vợ ông xin ông tha thứ nếu bà có lỗi gì với ông, và nghe câu trả lời: "Tôi không có gì để phiền trách bà; tôi luôn tôn trọng và yêu bà."
    Khi Pyotr Đại đế nhận được hung tin, ông buông rơi cái búa trên tay, ngồi trên một súc gỗ và, giấu mặt trong hai bàn tay, ông khóc. Trong giọng khàn khàn pha lẫn tiếng nấc, ông nói: "Bây giờ tôi cô đơn một mình, không có người đáng tin cậy. Chỉ có ông ấy là trung thực với tôi. Bây giờ, tôi biết tâm sự cùng ai?"
    Pyotr Đại đế lập tức trở về Moskva, và tang lễ được cử hành ngày 21 tháng 3. Pyotr đích thân lo sắp xếp: tang lễ cấp nhà nước của vị đại tướng và đô đốc người Thụy Sĩ sẽ trang trọng hơn bất cứ tang lễ nào ở Nga trừ nghi thức dành cho Sa hoàng và Hoàng hậu. Các đại sứ nước ngoài được mời, và các boyar được lệnh phải tham dự.
    Lúc chuẩn bị di chuyển quan tài ra khỏi nhà của Lefort, vẻ đau đớn và thương cảm của Sa hoàng và vài người khác hiển hiện rõ đối với mọi người. Pyotr Đại đế rơi nước mắt, và đặt một nụ hôn cuối cùng lên người đã chết. Sau khi hành lễ ở nhà thờ, quan tài Lefort được mang đến nghĩa trang. Trên đường đi, các boyar và những người Nga khác chen lấn lên phía trước, đi kế sau quan tài trong khi các đại sứ nước ngoài vì lịch sự nhường chỗ cho họ. Khi gần đến, Pyotr Đại đế nhận thấy thứ tự của đoàn đưa tiễn bị xáo trộn, gọi người cháu của Lefort đến hỏi nguyên nhân. Khi người cháu trả lời rằng chính người Nga đã không tôn trọng nghi lễ, ông nổi giận nói: "Họ là đồ chó, không phải là boyar của ta."
    Cái chết của người bạn phương Tây để lại một khoảng trống lớn trong đời sống cá nhân của Pyotr Đại đế. Con người vui tươi gốc Thụy Sĩ đã lèo lái người bạn trẻ và chủ nhân của ông qua những năm đầu tiên, tập cho chàng thanh niên uống rượu, khiêu vũ, bắn cung; tìm cho anh một người tình và tạo ra mọi trò đùa nghịch cho anh vui thú. Ông đã đi theo Sa hoàng trong những cuộc chinh chiến đầu tiên ở Azov. Ông đã thuyết phục Pyotr đi Tây Âu rồi đứng ra cầm đầu Đại Phái bộ Sứ thần, và chuyến đi dài ngày đã thúc đẩy những nỗ lực của Sa hoàng trong việc mang về cho nước Nga công nghệ và cung cách của Tây Âu. Và rồi, hầu như ngay trước ngày Pyotr đối diện với một thách thức lớn nhất ?" cuộc chiến 20 năm với Thụy Điển ?" Lefort qua đời. Pyotr thấm thía sự mất mát lớn như thế nào. Cả đời ông, chung quanh ông toàn là người lợi dụng chức vụ và quyền hạn để trục lợi cho riêng mình. Lefort thì khác. Dù cho việc kề cận với Sa hoàng đã tạo cơ hội cho ông làm giàu bằng cách nhũng lạm nếu muốn, Lefort qua đời trong cảnh nghèo túng.
  10. Bonmua

    Bonmua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/04/2002
    Bài viết:
    1.885
    Đã được thích:
    350

    Dù sao vẫn phải rất cảm ơn bạn. Hồi nhỏ, tôi xem phim " Nước Nga trẻ" , vẫn thắc mắc về cuộc chiến này.
    Cái xứ Livonia có phải là Latvia hay Litva bây giờ ko?
    Nếu có điều kiện, mong bạn cho biết thêm về cuộc chiến Nga-Ottoman, và cái xứ Crưm nữa.
    Cảm ơn rất nhiều.

Chia sẻ trang này