1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đại danh y Tuệ Tĩnh và ước muốn được trở về quê cha đất tổ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi offline_message, 13/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. offline_message

    offline_message Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/01/2006
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Đại danh y Tuệ Tĩnh và ước muốn được trở về quê cha đất tổ

    Ngày âm lịch của ngày hôm nay 13-3-2006 theo dân gian là ngày giỗ của Tuệ Tĩnh - vị thầy thuốc vĩ đại của dân tộc tại quê hương ông. Nói đến ông chúng ta cùng nhau ôn lại những nét chính về cuộc đời ông cũng như những phát minh Y học và đóng góp cho cuộc sống nhân dân như một phút tưởng nhớ đến con người tài năng này.

    Tuệ Tĩnh chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, biệt hiệu là Hồng Nghĩa, pháp hiệu (theo tên gọi của nhà chùa) là Tuệ Tĩnh. Ông sinh ra ở làng Nghĩa Phú (tục gọi là làng Xưa), thuộc tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng (gần Kẻ Sặt), phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương - nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Vì sinh ở làng Nghĩa Phú, phủ Thượng Hồng, nên Tuệ Tĩnh đặt biệt hiệu là Hồng Nghĩa. Vì thế mà sau này ông có tác phẩm "Hồng Nghĩa giác tư y thư", và cuốn "Nam Dược Thần Hiệu", là hai tác phẩm quý giá còn để lại cho chúng ta đến hôm nay.
    Về năm sinh của Tuệ Tĩnh cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Về thanh danh của Tuệ Tĩnh, các tài liệu cũng chưa thống nhất. Tương truyền, Tuệ Tĩnh là một nhà sư thông minh lỗi lạc, thi đậu Ðệ nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp, và lại giỏi thuốc trị bệnh nên bị bắt đi cống cho nhà Minh. Ở Trung Quốc, Tuệ Tĩnh đã chữa cho Tống Vương Phi (vợ vua Minh) khỏi bệnh sản hậu nên được phong là "Ðại Y Thiền Sư". Hiện nay ở các đền thờ ông, có các câu đối ngụ ý về các sự tích đó. Thí dụ ở đền bia làng Văn Thai có câu:

    Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa,
    Thánh sư diệu dược trấn Nam Bang.

    Ðược tạm dịch như sau:

    Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng Trung Quốc
    Chữa bệnh thần diệu tài quán Nam Bang.


    Nhưng theo cuốn: "Hải Dương phong vật chí" (A.882 Fo 76b của Thư viện khoa học) chép: "Tuệ Tĩnh tiên sinh, thầy thuốc danh tiếng ở xã Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, chuyên dùng thuốc nam chữa bệnh rất công hiệu, có chép các tập dược tính chỉ nam và 13 phương gia giảm truyền lại đời sau".

    Sử sách còn chép lại rằng: Lúc Tuệ Tĩnh lên sáu tuổi thì cha mẹ đều mất, vì mồ côi nên ông được một hòa thượng chùa Hải Triều ở Yên Trang (sau này gọi là chùa Nghiêm Quang, tức chùa Giám, thuộc xã Tân Sơn, huyện Cẩm Bình) đem về nuôi dạy. Năm lên 10 tuổi, ông đã được sư cụ chùa Giao Thủy, ở Sơn Nam (Nam Ðịnh) đưa về cho học với các nhà sư trong chùa Dũng Nhuệ. Ở chùa này, ông có pháp danh là Tiểu Huệ, biệt danh là Tuệ Tĩnh. Ông được nhà chùa cho học chữ và học nghề thuốc để giúp việc chữa bệnh cho dân nghèo trong xã, huyện. Năm 22 tuổi, Tuệ Tĩnh đi thi Hương và đỗ nhất bảng, nhưng ông không ra làm quan mà vẫn ở lại chùa tiếp tục việc chữa bệnh, lấy pháp hiệu Tuệ Tĩnh cũng từ đó. Năm 30 tuổi, Tuệ Tĩnh trở về chùa Yên Trang làm sư trụ trì, tu sửa lại chùa và nhiều chùa khác trong huyện. Năm 45 tuổi, Tuệ Tĩnh đi thi Ðình và đỗ Hoàng giáp. Năm 55 tuổi, ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc, được Minh triều giữ lại làm việc ở Viện thái y, rồi mất tại tỉnh Giang Nam (không rõ tại huyện, xã nào ở tỉnh này?).

    Sự nghiệp trước tác: về phật học, ông đã giải nghĩa bằng chữ nôm 3 sách Thiền tông khóa hư lục của vua Trần Thái Tông soạn mà theo học giả Đào Duy Anh nói ở lời đầu sách dịch Thiền tông khóa hư lục, thì vZn vần chữ nôm xưa nhất là mấy bài phú đời Trần. Về vZn xuôi thì sách giải nghĩa Thiền tông khóa hư lục của Tuệ Tĩnh cuối thời Trần là xưa nhất.

    Về sự nghiệp y học của Tuệ Tĩnh, ông đã soạn các sách "Dược tính chỉ nam" và "Thập tam phương gia giảm"... những bản nguyên tác của ông nay không còn trọn vẹn, do vào cuối thế kỷ 14, giặc ngoại xâm sang xâm chiếm nước ta, chúng đã phá hủy nhiều thư tịch lớn. Những bản hiện còn do người đời sau ghi chép qua truyền khẩu dân gian như: "Nam Dược Thần Hiệu" do Hòa thượng Bản Lai chùa Hồng Phúc (ở Hòe Nhai,Hàng Than, Hà Nội) biên tập, bổ sung vào năm Tân Tỵ cách đây đúng 245 năm (1761-2006).
    "Nam dược chính bản", do triều đình Lê Dụ Tông biên tập (sau đổi tên sách là "Hồng Nghĩa giác tư y thư") và được in vào năm Ất Dậu (1717) gồm: "Quyển thượng và quyển hạ".
    Trong cuốn "Hồng Nghĩa giác tư y thư", nhà xuất bản y học, Hà Nội - 1978, lại chép: sách "Hồng Nghĩa giác tư y thư" do Y viện triều Lê Dụ Tông xuất bản năm Quý Mão (1723).

    Quyển Thượng: "Nam Dược Quốc Ngữ Phú" gồm 590 tên vị thuốc nam và "Trực giải chỉ nam dược tính phú" gồm đặc tính của 220 vị thuốc nam. Quyển Hạ: "Y luận", là sách viết về các lý luận từ âm dương ngũ hành sinh hóa vào con người trong tiết khí bốn mùa, sự ảnh hưởng vào bệnh tật, cách điều trị lâm sàng. Và "Thập tam phương gia giảm" phụ "Bổ âm đơn và dược tính phú" bằng chữ Hán. Là sách hướng dẫn gia, giảm khi dùng thuốc chữa bệnh.

    Cuốn "Nam Dược Thần Hiệu" của Tuệ Tĩnh, được nhà xuất bản Y học, in lần thứ hai vào năm 1972. Bộ này gồm 11 quyển: Quyển đầu nói về dược tính của 119 vị thuốc nam. Mười quyển sau, mỗi quyển nói về một khoa trị bệnh...
    Còn cuốn: "Hồng Nghĩa giác tư y thư" của ông, được nhà xuất bản Y học, Hà Nội, in năm 1978 gồm chín phần lớn (chưa kể lời giới thiệu của nhà xuất bản và lời tựa của các quân y Viện triều Lê Dụ Tông, dày 319 trang). Cả hai bộ sách này của Tuệ Tĩnh đều có ảnh hưởng rất sâu rộng trong y gia Việt Nam, mà cho đến hôm nay, vấn đề lý luận và thực tiễn vẫn luôn được thừa kế phát triển và phổ biến. Nhất là cuốn "Nam Dược Thần Hiệu" của ông, nhiều thầy thuốc từ trước đến giờ, vẫn theo phương pháp trị liệu của Tuệ Tĩnh để chữa bệnh rất hiệu quả, mà Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác - là một bậc Ðại y tôn, cũng chịu ảnh hưởng của Tuệ Tĩnh trong công việc biên soạn quyển "Lĩnh Nam Bản Thảo"... (thế kỷ XVIII) đã thừa kế 496 bài thơ dược tính của Nam dược thần hiệu chép vào sách Lĩnh nam bản thảo, với nhiều phương thuốc nam của Tuệ Tinh chép vào các tập Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng. Đường hướng dưỡng sinh của Tuệ Tỉnh về giữ gìn tinh khí thần để sống lâu cũng được Lãn Ông phụ họa thêm ở thiên Khởi cư của tập "Vệ sinh yếu quyệt ".


    Tuệ Tĩnh đã xây dựng nền móng của y học nước nhà với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam, theo phương châm "Thuốc nam Việt chữa người Nam Việt ". Ông đã gây phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn đền chùa và thu trữ thuốc theo thời vụ để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời. Truyền thống của Tuệ Tĩnh đã được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triến y học dân tộc.
    Hoàng Đôn Hòa, Lương dược hầu dưới triều Lê Thế Tông, quê ở Đa Sĩ (xã Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây) đã chữa bệnh rộng rãi và cứu cho nhân dân qua khỏi vụ dịch nZm 1533 với thuốc nam trồng kiếm tại địa phương, và chữa cho quân đội triều Lê khỏi dịch sốt rét và thồ tả ở Thái Nguyên nZm 1574 với thuốc Tam hoàng hoàn gồm Hoàng nàn, Hoàng lực do Tuệ Tĩnh đã phát hiện ở Nam dược thần hiệu và Hùng hoàng đã được dùng chống khí độc lam chướng ở Thập tam phương gia giảm. Đường lối dưỡng sinh của Tuệ Tĩnh nói ở Bổ âm đơn về phòng bệnh hư lao, đã được Hoàng Đôn Hòa cụ thể bằng thuyết "Thanh tâm tiết dục" với phép "Tịnh công hô hấp" ở sách Hoạt nhân toát yếu.

    Đặc biệt truyền thống thuốc nam của Tuệ Tĩnh đã để lại tập quán trong nhân dân: trồng một số cây ở vườn đền chùa vừa làm cảnh vừa làm thuốc, và ở gia đình, mọi người ít nhiều đều biết dùng một số cây gia vị, rau quả hay các vị thuốc thường có quanh mình, cùng các phép xông hơ, chườm nóng, xoa bóp... để chữa một số bệnh ban đầu, khi mới xảy ra, rất tiện lợi.

    Truyền thống y học của Tuệ Tĩnh đã phục vụ đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ông đã giữ một vị tri trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam. Vì vậy, nhân dân ta đã lập đền thờ ông: Đền Thánh thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn VZn Thai, xã Cẩm VZn, miếu Nghè ở chùa Giám, xã Tân Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành hoàng ở xã Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng (có sắc phong là Thượng thượng dẳng phúc thần nZm 1572, theo thần phả do Nguyễn .Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn).

    Ngày nay, các di tích nói trên đã được Bộ VZn hóa xếp hạng là di tích lịch sử để tưởng nhớ công đức của vị Đại danh y Tuệ Tĩnh đối với sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của dân tộc ta.
  2. offline_message

    offline_message Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/01/2006
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Sự nghiệp Y học và văn học của Ông lẫy lừng như thế mà cho đến giờ ước mơ của ông " Ai về nước Nam cho tôi về với" vẫn chưa thực hiện được. Chúng ta đều biết do có tài năng y học lớn nên ông đã được vua nhà Minh - Trung quốc mời vào chữa bệnh cho hoàng hậu. Bệnh này lúc đó cả ban y học của Triều đình nhà Minh lúc đó không ai chữa nổi. Lúc này, cũng đúng vào dịp ông đang ở Tàu và chuẩn bị về nước do chuyến đi sứ. Triều đình TQ mới nghĩ đến ông vì vốn đã nghe tiếng của ông là vị thánh thuốc Nam. Đứng trước tình thế này, vốn thông minh nên cũng đã xác định rằng nếu ông ra tay chữa khỏi bệnh cho vợ vua Minh thì rất có khả năng ông sẽ bị giữ lại luôn và mãi mãi không được về quê hương nữa. Do khả năng này nên ông đã do dự định không chữa nữa. Tuy vậy, do bệnh tình của hoàng hậu Tàu lúc đó đã ngày càng trầm trọng và với y đức của mình, ông không nỡ bỏ rơi một con bệnh. Và ông đã chữa khỏi bệnh của vợ vua bằng những vị thuốc Nam dân gian. Và đương nhiên điều gì đến đã phải đến. Vì tài năng xuất chúng của mình nên ông đã bị nhà Minh giữ lại làm việc trong ban Y học của Triều đình để phục vụ lâu dài cho hoàng cung.
    Mãi về sau cho đến khi mất ông đã không được nhìn lại quê hương Việt của mình một lần nữa. Nỗi niềm day dứt của ông không nguôi đến mức ông đã viết lại câu: " Sau này ai về nước Nam cho tôi về với"./ Về sau người đời sau là Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho người cùng quê đi qua có thấy đã nhìn thấy câu này trên văn bia mộ của ông ở vùng Giang Nam và vì không lấy được bia về nên ông đã cho người khắc lại nội dung tấm bia đó trên một bia đá mang về Việt Nam. Nhưng cũng thật không may, sắp về đến quê thì con thuyền của Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho và tấm bia đá ấy bị một con sóng to cuộn lên làm thuyền đắm. Cho đến bây giờ chỉ có một sự thật là nỗi khắc khoải trước khi mất của ông là được trở về quê hương của ông vẫn chưa được thực hiện.
    Hài cốt của ông vẫn ở bên Tàu và chưa được về Việt Nam.
    Người đời sau vẫn chưa làm được việc đó và người đời nay là chính thế hệ chúng ta cũng vẫn chưa làm được việc đó.
    Nghe nói chính quyền quê hương ông - UBND tỉnh Hải Dương cũng đã từng tổ chức một đoàn đi sang Trung quốc để tìm và mang hài cốt của ông về Việt Nam. Tuy nhiên, không biết vì lí do gì mà hiện nay vẫn chưa thực hiện được.
    Chúng ta có vô tâm không trước một tài năng, một người con ưu tú của dân tộc?
    Các ban ngành chính quyền không biết vì lí do gì mà vẫn chưa quy tập được mộ của ông về Việt Nam theo ý nguyện của ông trước khi mất nhỉ? Vì thiếu tiền, vì không có thời gian hay vì nguyên nhân nào khác?
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Bác cho em hỏi chính xác hiện tại là mộ Tuệ Tĩnh ở đâu? Có ai từng sang TQ có biết về thông tin mộ Tuệ Tĩnh không?
  4. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Bài báo này có đăng trên Báo Sức khoẻ và đời sống hay là Cây thuốc quý gì đấy. Tuy nhiên bài báo cũng chỉ nêu lại sử liệu là tiến sĩ Nguyễn Danh Nho có dập bia Lương y mang về chứ ko nói gì đến địa điểm chính xác của mộ. Sau chừng ấy thời gian thì ko biết là mộ của lương y có còn ko.
  5. offline_message

    offline_message Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/01/2006
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Theo sách vở thì mộ ông ở Giang nam - TQ. Cái này chỉ có những cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết thôi chứ như anh em ta có biết thì phải đi du lịch
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Câu này nghe ai oán quá, không cầm được nước mắt .
  7. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Vâng,
    Thôi đi thắp cho Ông Cụ nén hương,
    Hy vọng lúc này hương hồn Cụ đã về đến quê nhà, không còn bị thể xác ràng buộc nữa.
    Tôi đi thắp hương đây, CoDep có ké không?
  8. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Bài này tôi được đọc trên báo An ninh thế giới rồi....nghĩ mà buồn. Các bác làm công tác văn hoá ở VN chỉ nói phét là giỏi, chảng làm được gì ra hồn cả...chán bỏ xừ.....Ngay mộ vua Hàm Nghi ở Pháp cũng chẳng đưa ông về với quê cha đất tổ gì cả, rồi cụ Tuệ Tiĩnh nữa và còn nhiều nhân vật chống Phpá bị đầy ở Tân Đảo, Phi châu, và cả tận Haiti như Kỳ Đồng nữa...linh hồn họ vẫn phải ở nơi đất khách quê người
  9. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Vua Hàm Nghi không để lại di chúc ước nguyện trở về VN .
    Vua Bảo Đại chôn có vợ con ở Pháp chăm sóc mộ .
    Chúng ta không có quyền xâm phạm mồ người chết mà không
    biết di chúc ước nguyện của họ. Tội đó nặng lắm đấy.

Chia sẻ trang này