1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đài Loan đưa quân ra quần đảo Trường Sa

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi kakalothd, 17/12/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    A. Trịnh Hòa và bảy lần viễn du
    Trịnh Hòa vốn tên là Ma He, là con một người Hồi tên là Mohammed Hajji đã theo đoàn quân viễn chinh Mông Cổ xuống sống ở miền Nam nước ChiNo (thế kỷ thứ 13). Khi con thứ của vua Hồng Võ (tức Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương) là Chu Lệ được giao cho việc đem quân bình Vân Nam có bắt được một số lớn binh sĩ Mông Cổ và các dân tộc thiểu số người Mèo, người Dao. Ðàn ông bị giết hết, đàn bà đem về làm tì thiếp còn trẻ em và thanh thiếu niên bị thiến để làm hoạn quan hầu hạ trong cung. Một trong những đứa trẻ đó sau được ban Hán tính là Trịnh, Hán danh là Hòa. Khi Chu Lệ cướp được ngôi vua (tức vua Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc chính là người sai Trương Phụ sang chiếm nước ta), Trịnh Hòa được sai đi sứ hải ngoại để tuyên dương oai đức nhà Minh.[8]
    Trịnh Hòa đóng một đoàn chiến thuyền lớn để đi xạ Chiếc thuyền lớn nhất được đặt tên là "bảo thuyền", dài 130 thước (tây), cột buồm cao 54 thước. Các thuyền khác trung bình dài 110 thước, cột buồm khoảng 45 thước. Trong chuyến hải hành đầu tiên của Trịnh Hòa, cả thảy gồm 63 chiếc thuyền và 2,780 người.[9]
    Có nhiều lý do đưa ra để giải thích về những chuyến đi này. Những sử gia ChiNo gần đây coi là những cuộc hải trình nhằm chứng tỏ cho những dân tộc khác thấy được sự cường thịnh và huy hoàng của triều đại nhà Minh. Với quan điểm dùng lịch sử để giải thích một số tiền đề, ChiNo lục địa (ChiNo) đã hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của viên thái giám gốc Hồi. Gần đây, một viện nghiên cứu có tên là Viện Nghiên Cứu Trịnh Hòa được thành lập tại Nam Kinh. Những tài liệu họ đưa ra luôn luôn chủ quan, được vận dụng để chứng minh rằng ChiNo đã thám hiểm và chinh phục được nhiều vùng đất xa xôi từ thời Trung Cổ.[10] Tuy nhiên, theo những tài liệu, kể cả những văn kiện viết từ thời đó, Trịnh Hòa tuy có đến được nhiều nơi như Mã Lai, Indonesia và có lần sang tận Tích Lan, Ấn Ðộ, Phi Châu nhưng lại không viết gì về các đảo ngoài khơi Nam Cực.[11] Có lẽ trong thời kỳ đó, không ai quan tâm đến một vùng biển đầy sóng gió, hiểm nguy để thám hiểm một khu vực toàn đảo san hô ở giữa đại dương như thế. Trịnh Hòa có đi dọc theo bờ biển Nam Cực, Chiêm Thành, Chân Lạp để trao đổi trầm hương, ngà voi, sừng tê, gỗ mun đem về ChiNo, và tặng lại cho thổ dân đồ sứ và tơ lụa.[12] Nếu gặp kháng cự, Trịnh Hòa đem quân bắt vua các tiểu quốc đem về như trường hợp Palembang và Tích Lan. Mỗi khi đổ bộ, Trịnh Hòa xác định ông ta là sứ giả của Hoàng đế ChiNo, chúa tể một quốc gia trung tâm mọi nền văn minh và ChiNo không tới để chiếm thuộc địa hay ép buộc phải mở cửa giao thương mà chỉ yêu cầu triều cống tỏ ý thần phục.[13]
    Một lý do thứ hai có thể đáng tin hơn là vua Thành Tổ sai Trịnh Hòa đi lùng tìm vua Huệ Ðế (tức cháu gọi ông bằng chú, người lên kế vị Chu Nguyên Chương và đã bị ông cướp ngôi) nghe đồn là đã giả dạng làm sư trốn ra nước ngoài.[14] John King Fairbank, học giả lừng danh về ChiNo đã nêu ra ba đặc điểm về các cuộc viễn du của Trịnh Hòa:
    · Thứ nhất, đây không phải là những cuộc thám hiểm những vùng đất mới mà chỉ là những chuyến viễn hành chính thức do nhà vua sai đi. Trịnh Hòa đi theo những thủy lộ mà thương nhân Ả Rập và ChiNo đã đi qua.
    · Thứ hai, những chuyến đi đó có tính chất ngoại giao chứ không nhằm mục tiêu thương mại, lại càng không phải đi chinh phục thuộc địa. Họ trao đổi hàng hóa và mang về các đặc sản (trong đó có cả con hươu cao cổ mà họ tưởng rằng một loại kỳ lân) của những vùng xa xôi.
    · Thứ ba, sau khi các chuyến du hành chấm dứt vào năm 1433 thì không bao giờ tiếp tục những chuyến đi khác nữa. Ngay cả các tài liệu ghi chép về những chuyến đi này cũng bị viên Binh Bộ Thị Lang hủy đi (vào khoảng 1479) và nhà Minh cấm ngặt người ChiNo buôn bán với bên ngoài.[15]
    B. Trịnh Thành Công và đảo Ðài Loan
    Trước thế kỷ thứ 17, Ðài Loan chưa được công nhận như một phần đất của ChiNo. Cho đến cuối đời Minh, Ðài Loan vẫn là một vùng đất không mấy ai biết đến. Bão tố, sóng cả, muỗi mòng ngăn cách thổ dân với đại lục. Cư dân trên đảo lại dữ dằn nên không mấy khi ChiNo bè dám ghé vào. Chỉ một số ít lái buôn dạn dĩ mới dám dong thuyền sang trao đổi sừng hươu, da thú đem về bán lấy lời. Ngoài thổ dân chỉ có hải khấu mới dám ở. Trước đó người Bồ Ðào Nha đã ghé qua và đặt cho hòn đảo cái tên ******* có nghĩa là đẹp đẽ nhưng cũng không dám ở mà chỉ trú ngụ tại Macao, lấy nơi đây làm cơ sở chính ở Ðông Á.[16] Cũng nên nói thêm, theo nghiên cứu của nhóm học giả bản địa Ðài Loan thì thổ dân tại đây vốn thuộc giống Mã Lai đã sống trên hòn đảo này từ nhiều ngàn năm trước. Những di chỉ đào được trên đảo Ðài Loan gần với những di chỉ tìm thấy trong vùng Ðông Nam Á châu và Nam Cực, là những cư dân giỏi đường thủy chiếm cứ vùng biển Nam Á từ xưa.
    Ðến năm 1624 thì người Hòa Lan đem quân chiếm hòn đảo và cai trị trong 37 năm. Người Tây Ban Nha chiếm mỏm cực bắc năm 1626 nhưng bị người Hòa Lan đánh bại năm 1642. Năm 1661, một người ChiNo lai Nhật là Trịnh Thành Công đánh đuổi được người Hòa Lan. Cha của Trịnh Thành Công là Trịnh Chi Long lưu lạc sang Nhật, lập gia đình với một người đàn bà Nhật ở bên đó. Chi Long làm nghề cướp biển nhưng sau được Minh triều thu phục, phong cho một chức quan. Khi về cộng tác với triều đình, họ Trịnh được chỉ huy một đội hải thuyền, nhưng y vẫn tiếp tục đi ăn cướp nhưng không còn sợ quan quân truy lùng như trước nữa.
    Khi quân Thanh tràn vào chiếm trung nguyên, một số tôn thất nhà Minh còn tiếp tục chiến đấu ở miền Nam. Trịnh Thành Công vì phò Minh nên được ban cho họ Chu (tức họ nhà vua) nên người ta thường biết ông ta qua cái tên Quốc Tính Gia (mà người Âu Châu phiên âm thành Koxinga, là cái tên thường thấy trong sách vở). Hạm đội của Trịnh Thành Công tiếp tục đánh nhau với quân Thanh dọc theo bờ biển. Năm 1659, họ Trịnh làm một cuộc phiêu lưu đem quân đánh Nam Kinh nhưng bị đại bại. Khi bị vây rất gắt ở Hạ Môn, Trịnh Thành Công đánh phải liều đem tàn quân phá vòng vây chạy ra biển đánh đuổi người Hòa Lan chiếm lấy đảo Ðài Loan.[17] Ðể ngăn ngừa Trịnh Thành Công quấy phá duyên hải, năm 1661, phụ chính đại thần triều vua Thuận Trị nhà Thanh là Oboi (chữ Hán gọi là Ngao Bái) hạ lệnh cho dân cư phải di dân vào nội địa, cách bờ biển 30 dặm để không cho tiếp ứng được với giặc ngoài biển. Khi vua Khang Hi lên ngôi (1662), nhà Thanh hai lần đem quân đánh Ðài Loan (1664 và 1665) nhưng không thành công. Về sau, Thanh triều cử Thi Lang (Shi Lang), một bộ tướng của Trịnh Chi Long trước đây về hàng, thống lãnh 300 chiến thuyền bình định Ðài Loan. Thi Lang đem quân từ Phúc Kiến tiến ra đánh bại quân họ Trịnh (lúc này Trịnh Thành Công đã chết từ năm 1662, con thứ là Trịnh Khắc Sảng kế nghiệp) ở quần đảo Bành Hồ (Pescadores) hồi đầu tháng 7, 1683 và đến cuối năm thì chiếm được toàn thể đảo Ðài Loan.
    Vua Khang Hi khoan hồng không giết binh sĩ của họ Trịnh nhưng di chuyển hết lên mạn bắc để trấn giữ quân Nga đang lăm le tràn xuống. Triều đình đề nghị phá hủy đảo Ðài Loan rồi rút về nhưng Thi Lang khẩn thiết xin cho quân trấn đóng để làm tiền đồn chống giữ người Hòa Lan khỏi đến xâm lăng. Vua Khang Hi đồng ý và kể từ năm 1683, Ðài Loan mới chính thức thuộc về Thanh triều, là một thuộc địa của tỉnh Phúc Kiến.[18]
    Tuy nhiên, Thanh triều cũng vẫn giữ nguyên quan niệm từ trước tới nay của ChiNo hạn chế việc giao thương, ngại là nếu mở cửa sẽ đem tới rối loạn, tiết lộ tin tức bí mật quốc gia và tiêu hao vàng bạc, gia tăng trộm cướp, tội ác.[19] Tuy lệnh phải cư ngụ cách bờ biển 30 dặm đã bãi bỏ nhưng nhà Thanh vẫn hết sức nghiêm cấm việc giao thiệp với nước ngoài, di cư hay liên lạc với Ðài Loan. Hòn đảo luôn luôn bị nhìn với cặp mắt nghi kỵ, khinh miệt. Thành phần cư dân cũng không được coi ngang hàng với dân chúng trong nội địa. Chính vì thế, nhà Thanh rất dễ dàng nhường lại Ðai Loan để đổi lấy một vài điều kiện trong khi giao thiệp với liệt cường sau này.
    Cũng nên nói thêm là họ Trịnh là một trường hợp hết sức bất thường. Trịnh Chi Long khi còn trẻ đã lưu lạc nhiều nơi, theo các giáo sĩ Tây Dương sang cả Manila (Philippines) và là một trong số ít người ChiNo thời ấy theo đạo Cơ Ðốc. Trịnh Thành Công mang hai giòng máu Nhật Hoa, là đệ tử một lãnh chúa Tây Ban Nha, đã từng tham dự nhiều cuộc viễn du nên kiến thức hơn hẳn những người bình thường. Ông ta phù Minh chẳng qua chỉ vì muốn dùng chiêu bài đuổi người Mãn Thanh để có thể tự mình lên ngôi hoàng đế. Chính ảnh hưởng của người Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha và Hòa Lan đã khiến cho họ Trịnh có chí hướng xây dựng một giang sơn riêng ngoài mặt biển. Trường hợp Trịnh Thành Công cũng không khác gì Triệu Ðà sang chiếm nước ta lập nên nước Nam Việt (gồm Bắc Nam Cực và Nam ChiNo) nhưng không thể vì thế mà đi tới kết luận là hòn đảo Ðài Loan thuộc về ChiNo từ cuối đời Minh.
    Chi tiết đó quan trọng vì nếu tính ra thì người ChiNo chỉ thực sự làm chủ hòn đảo từ năm 1945 tới nay (đứng trên phương diệp chủ quyền vì người Mãn Thanh là một bộ tộc quan ngoại, không phải là một triều đại chính thống của người Hán). Ðặt vấn đề Ðài Loan, người ta sẽ không thể quên quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu) cũng ở trong tình trạng tương tự, chỉ mới thuộc về Nhật Bản gần đây, nhưng ChiNo úy kị nên không dám nói tới chủ quyền của họ tại khu vực này.[20] René Grousset đã bình luận như sau:
    Nỗ lực của ông ta (Trịnh Thành Công) đã khiến cho các sử gia phải hết sức chú ý, vì ông là người đầu tiên thực hiện một công tác mà trước đây chưa hề xảy ra ở nước ChiNo. Ðó là đi tìm kiếm thuộc địa theo đường biển. Phải công nhận rằng cuộc phiêu lưu của Trịnh Thành Công đã mở đầu cho một kỷ nguyên đại di cư của người ChiNo, mà ngày nay ta thấy con cháu họ ở khắp nơi nơi vùng biển phía nam, từ Cholon đến Singapore, từ Batavia đến Manila và Hawaii. Các cuộc di cư ấy có ý nghĩa hết sức quan trọng mà hậu quả tới nay cũng chưa đo lường hết được.
    Một số đông tàn quân nhà Minh và người ChiNo tị nạn cũng chạy sang Nam Cực, đáng kể nhất là nhóm của Dương Ngạn Ðịch và Trần Thượng Xuyên đóng góp nhiều vào việc khai phá miền nam nước ta.[21] Cộng đồng người Hoa trở thành những thế lực đáng kể tại các nước Ðông Nam Á bắt đầu từ thời đó.
    (Còn tiếp)

Chia sẻ trang này