1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đại Tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 30/12/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Lời hô hào của anh Giáp được hưởng ứng. Học sinh lớp Đệ nhị niên A kéo về phía cổng trương, vừa đi vừa hô khẩu hiệu. Sân trường ồn ào hỗn loạn. Khối Đệ tam, Đệ tứ niên gồm những học sinh lớn của nhà trường đang di chuyển cũng dừng lại, rồi kéo theo ra phía cổng trường trước con mắt kinh ngạc của các giám thị. Cuộc bãi khoá bắt đầu.
    Tin trường Quốc học bãi khoá để phản đối việc đàn áp học sinh lan nhanh sang trường nữ học Đồng Khánh. Hai trường cạnh nhau, chỉ cách một con đường hẹp. Đồng Khánh là trường nữ học duy nhất ở miền Trung hồi ấy. Nữ sinh Đồng Khánh xưa nay vốn yểu điệu thướt tha trong tà áo dài với mái tóc thề óng ả, gặp nam giới thì nghiêng che vành nón khiến cho ?oHọc trò xứ Quảng ra thi, thấy o gái Huế chân đi không đành?, vậy mà lần này, Hương Giang nổi sóng, các nữ sinh Đồng Khánh xuống đường tranh đấu. Ấy là ngày hôm sau 27-4-1927, khi các học sinh Quốc học cử đại diện đến các trường để loan tin và vận động bãi khoá thì bọn cảnh sát xôgn đến ngăn cản. Xô xát xảy ra giữa nam sinh và cảnh sát tại con đường giữa hai trường Quốc học và Đồng Khánh. Một số nam sinh bị bắt và bị tống giam.
    Chị Đào Thị Xuân Yến (bà Nguyễn Đình Chi sau này) nữ sinh lớp Đệ tứ niên vận động chị em viết đơn gửi Khâm sứ Friès yêu cầu can thiệp không được đuổi học và bắt bớ học sinh. Chị kể lại trong Đặc san kỷ niệm 75 thành lập trường Đồng Khánh: ?oViết đơn xong, cả lớp tứ niên sắp hàng tuần hành xuống Tòa Khâm, chị em mặc áo dài đen, quần trắng đi guốc dép, nón là gửi vào phòng Giám thị của chị Trần Thị Như Mân?.
    Chị Yến kể: Khi thấy các chị lớp Đệ tứ niên kéo ra khỏi trưởng, các em nữ sinh lớp dưới chạy theo:
    -Các chị ơi, cho bọn em theo với!
    Bà hiệu trưởng Boutron Damasy hoảng hốt ra lệnh đóng cửa trường. Nữ sinh các lớp dưới trèo tường chạy theo các chị.
    Đoàn nữ sinh Đồng Khánh đi dọc theo đường Jules Ferry, nay là đường Lê Lợi. Bọn cảnh sát kéo đến. Một tên cò Tây mặt mày đỏ kè, nạt nộ mày tao với nữ sinh. Bỗng chị Minette (sau này là bà Đoàn Nồng) người nhỏ nhắn xinh đẹp tách ra khỏi hàng, ngước đôi mắt to nhìn thẳng vào mặt tên cò Tây, giọng nói thẳng thắn:
    -Nầy, nầy, các ông không được tutoyer (mày tao) với chị em chúng tôi! Vô lễ!
    Tên cò Tây bị bất ngờ, đành ngậm thinh.
    Trong lúc nữ sinh Đồng Khánh xuống Toà Khâm bên bờ nam sông Hương thì phía bờ Bắc, sinh viên trường Hậu bổ Quốc tử giám cũng xuống đường do các anh Ngô Võ Anh, Nguyễn Đình Diễn dẫn đầu. Đoàn này đến đoàn khác, học sinh Bách Nghệ, trường Thuận Hoá cũng rầm rộ kéo đến. Các đoàn học sinh vây Toà Khâm sứ đưa yêu sách.
    Trong khi Đổng lý Văn phòng Toà Khâm ra nhận đơn và khuyên học sinh trở về học tập thì Khâm sứ Friès gọi lính và xe vòi rồng tới đàn áp. Xung đột dữ dột xẩy ra giữa cảnh sát và học sinh tại ngã tư cầu Tràng Tiền với nhà Morin, đường rẽ xuống Toà Khâm. Nhiều người bị u đầu, thêm một số học sinh bị bắt. Nam sinh dùng cán dù đen, nữ sinh dùng guốc chống lại. Cảnh sát cho xe vòi rồng phun nước bừa bãi. Một nữ sinh Đồng Khánh đến trước vòi rồng phản đối. Một tên cảnh sát nắm kiềng vàng của chị kéo ra. Phóng viên báo L?TAnnam có mặt tại chỗ đã viết bài đăng ngay lên báo. Đó là chị Nguyễn Khoa Thể Chi. Chị Thể Chi cùng với các chị Nguyễn Khoa Bội Lan, Tôn Nữ Như Phước, Hoàng Thị Hải Đường, Đào Thị Xuân Yến? là những nữ sinh Đồng Khánh mà anh Giáp thường gặp tại ngôi nhà ?oÔng già Bến Ngự?.
    Trời về chiều âm u, mưa lâm thâm. Nam sinh nhường mũ, áo khoác, giương dù che mưa cho nữ sinh. Các đoàn học sinh tự giải tán, người về gia đình, người về nhà bà con, họ hàng ở Huế. Còn lại khoảng 20 nữ sinh nội trú không biết về đâu, mà trời thì gần tối. Trong lúc bối rối, may sao có bà Đạm Phương (Hội trưởng Nữ công học hội, người đọc điếu văn trong lễ truy điệt cụ Phan Chu Trinh) và cô Hồ Thị Hạnh (tức sư bà Diệu Không sau này) đứng ra thu xếp vứi bà Ưng Uý (tức bà Hồ Thị Huệ, chị ruột cô Hạnh và là mẹ của nhà bác học Bửu Hội sau này), người có nhà để trống đang cho hai kỹ sư công chính người Nam Kỳ thuê (là ông Phan văn Hùm và ông Nguyễn Văn Tề) đón số nữ sinh bãi khoá về tá túc. Hai bà vợ ông Hùm, ông Tề nấu nướng nuôi chị em cả mấy tuần lễ.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cuộc đàn áp chiều 27-4-1927 của Toà Khâm như đổ dầu vào lửa. Trong mấy ngày liền, học sinh kéo nhau đi dọc các phố hô khẩu hiệu. Kinh đô Huế náo động. Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài ra lệnh đóng cổng thành đề phòng biến cố. Học sinh các trường Chaigeau, Paul Bert, trường đạo Pellerin lần lượt bãi khoá. Cuộc bãi khoá của học sinh Huế khởi đầu từ trường Quốc học, Đồng Khánh đã lan rộng thành tổng bãi khoá. Đây là một trong những cuộc tổng bãi khoá lớn thời bấy giờ.
    Sau một tuần, nhà cầm quyền trả tự do cho các học sinh bị bắt. Nhưng không phải họ đã nhượng bộ. Lính giăng khắp thành phố, kiểm soát các ngả đường, hễ thấy tụ tập ba người là xông lại giải tán. Giám đốc Học chính Trung Kỳ Henri Déletie cho các trường nghỉ lễ Phục sinh và kéo dài hai tuần lễ để ngăn chặn và xoá nhoà cuộc bãi khoá. Đến hạn, các viên chức phải đích thân đưa con em đi học, nếu không sẽ bị liên luỵ.
    Để đối phó lại, học sinh thành lập nơi hội họp và đầu mối liên lạc. Hội quán Quảng Nam ở gần nhà cụ Phan trên dốc Bến Ngự là nơi gặp gỡ và nhận thư, điện, tiền các nơi gửi về ủng hộ cuộc bãi khoá. Một loạt bài tố cáo việc đàn áp học sinh Huế được đăng trên các báo L?TAnnam và La cloche fêlée (Tiếng chuông rè) ở Sài Gòn. Học sinh Sài Gòn, Hà Nội và nhiều tỉnh miền Trung gửi điện ủng hộ. Một nhóm công chức Huế quyên góp tiền gạo giúp đỡ học sinh bãi khoá không có gia đình ở Huế.
    Trong quá trình bãi khoá, anh Giáp hoạt động tích cực ở Hội quán Quảng Nam. Anh được phân công đứng trước Thừa phủ cùng một số bạn vận động những học sinh con nhà quan, con nhà giàu đi xe kéo gọng đồng khoan không nên vội đến trường, có trường hợp phải giằng xe lại, kéo tay bạn bảo đi về.
    Cảnh sát theo dõi bắt những người hoạt động tích cực. Anh Giáp tạm lánh về Vĩ Dạ, ở nhà anh Nguyễn Khoa Thị, một bạn học lớp Đệ tam. Chị cả anh Thị, ăn mặc trang nhã, duyên dáng một cách kín đáo, tiếng nói nhỏ nhẹ như có nhạc điệu, chị khen các em bãi khoá là biết tự trọng, chị vui vẻ chăm sóc nuôi dưỡng các em cả tuần lễ.
    Tin học sinh Huế bãi khoá lan đến quê nhà. Ông cụ cất công vào Huế tìm con. Anh Giáp an ủi ông: ?oThầy cứ về, con sẽ đi học lại?.
    Một tháng sau, phong trào dần tan. Phần lớn học sinh đi học trở lại. Nhà cầm quyền công bố danh sách học sinh bị đuổi học: 90 người tại tất cả các trường ở Huế.
    Tại Quốc học là 37 người, đầu bảng là Nguyễn Chí Diểu, Võ Giáp, Nguyễn Khoa Văn, Phan Bôi, Nguyễn Hoàng, ở tất cả các lớp đều có người bị đuổi học: Lớp Đệ tứ là các anh Đào Đăng Vĩ, Tôn Thất Hoạt, Vĩnh Võ; lớp Đệ tam là Tôn Thất Hy, Trần Xuân Đang, Nguyễn Khoa Thị, Phạm Khắc Quảng; lớp Đệ nhị là Võ Khắc Khoan, Vĩnh Dụ, Lưu Trọng lạc; lớp Đệ nhất là Ưng Túc, Nguyễn Khoa Trang, Trịnh Xuân An, Lương Sĩ Bích, Nguyễn Đăng Khoa? (ở đây chỉ ghi lại một số người).
    Ở trường Đồng Khánh, cô giáo kiêm giám thị Trần Thị Như Mân bị bãi chức vì tình nghi là cầm đầu nữ sinh. Trong số nữ sinh bị đuổi học, có các chị Nguyễn Khoa Thể Chi, Nguyễn Khoa Bội Lan, Tôn Nữ Như Phước, Tôn Nữ Như Sang, Tôn Nữ Thanh Xuân, Đào Thị Xuân Yến, Đào Thị Xuân Nhạn, Thái Thị Bôi, Hoàng Thị Hải Đường, Nguyễn Thị Giáo, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thị Thuyền, Nguyễn Thị Trang? Chị Sinh người Việt gốc Hoa gia đình nghèo bị tịch thu nhà cửa vì thiếu tiền học.
    Ở trường đạo Pellerin các anh Ưng Cầu, Trương Gia Kỳ Sanh, Phan Duyệt, Nguyễn Ngọc Lễ, Nguyễn Bội Liên, Lê Công Tiễu, Phạm Kỳ? bị đuổi học.
    Theo luật lệ thời bấy giờ, những học sinh bị đuổi không được học hành thi cử trên toàn cõi Đông Dương trong vòng hai năm.
    Võ Giáp, Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Hoàng, Trịnh Xuân An thường gặp nhau. Không ai bảo ai, mọi người cùng chung một ý nghĩ: Xuất dương đi làm cách mạng theo gương các bậc tiền bối. Tâm trí mọi người hướng về Quảng Châu (Trung Quốc). Anh em bàn, cả anh Diểu đi bắt liên lạc, anh Diểu vô Nha Trang không tìm ra đầu mối. Nguyện vọng xuất dương không đạt, anh em buồn bã chia tay.
    Nguyễn Khoa Văn cùng với một số chị em trường Đồng Khánh: Cô giáo kiêm giám thị Trần Thị Như Mân, các nữ sinh Nguyễn Thị Giáo (bà Hà Huy Tập sau này), Đào Thị Xuân Yến (bà Nguyễn Đình Chi sau này) và em là Đào Thị Xuân Nhạn, được bà Đạm Phương giới thiệu ra Bắc Kỳ học nghề dệt vải để chấn hưng công nghệ.
    Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Hoàng vào Nam Kỳ.
    Anh Giáp tìm gặp các bạn cùng chí hướng ở Hội quán Quảng Nam: Anh Lê Nhiếp con rể cụ Huỳnh Thúc Kháng, anh Hồ Nghinh, anh Trần Kỉnh, anh Sơn Trà? Hội quán Quảng Nam bị mật thám theo dõi gắt, anh em phải phân tán về quê.
    Anh Giáp vào Quảng Nam, đến tạm trú ở nhà anh Sơn Trà. Khác với Huế, Quảng Nam từ lâu đã có những hoạt động công thương nghiệp. Lúc này, do tác động của phong trào yêu nước, một làn sóng chấn hưng công nghệ kêu gọi mọi người dùng hàng nội hoá. Loại vải phô tuýt so (faux-tussor) dệt ở Quảng Nam được ưa chuộng khắp ba kỳ. Anh Sơn Trà đưa anh Giáp đi thăm một xưởng dệt. Trước kia dệt bằng khung cửi nhỏ, đưa thoi tay, từ khi cải tiến máy dệt giật cần đánh thoi thì năng suất tăng nhanh và dệt khổ rộng hơn. Ở Quảng Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức công thương: Những hội xã, công ty, hội buôn hoạt động nhộn nhịp. Quê anh Phan Thanh và Phan Bôi ở Bảo An còn có nghề dệt lụa.
    Trong thời gian lưu lại ở Quảng Nam, anh Giáp đến viếng nhà thờ cụ Phan Chu Trinh mới được lập tại Đà Nẵng. Nơi thờ cúng cụ cũng là nơi gặp gỡ của thanh niên và nhân sĩ yêu nước. Anh Giáp tranh thủ đi thăm nhiều danh lam thắng cảnh: Bán đảo Sơn Trà, chợ Hàn, sông Hàn, chùa Non nước trên Ngũ Hành Sơn, lúc đó leo núi còn khó, đường lên đầy bụi dứa gai. Anh Giáp về Trà Kiệu thăm anh Lê Ấm rể cụ Phan Chu Trinh. Mẹ anh Lê Ấm đưa anh Giáp đi thăm nhà thờ Trà Kiệu, tháp Chàm Đồng Dương, Mỹ Sơn.
    Rời Quảng Nam, anh Giáp vào Quy Nhơn thăm anh Tôn Thất Hy là bạn học bãi khoá cũng có nguyện vọng xuất dương, đã nhiều lần bàn chuyện ra đi với anh Diểu và anh Giáp. Gia đình anh Hy mở cửa hiệu tân dược.
    Lang thang một thời gian, anh Giáp trở lại Huế, đến tạm trú tại nhà một người bạn là anh Tôn Thất Tiên nhân viên bưu điện. Lập tức cảnh sát đến xét nhà. Tuy họ không tìm được chứng cớ gì buộc tội, nhưng để tránh liên luỵ cho chủ nhà, anh Giáp rời đi nơi khác.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cuối cùng nơi đậu được là nhà giáo sư Võ Liêm Sơn. Nhà thầy ở trước chùa Từ Đàm. Thầy Võ Liêm Sơn là một nhà sư phạm uyên bác và có tâm huyết. Thầy sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống yêu nước ở Hà Tĩnh, ông thân sinh từng tham gia phong trào Cần Vương. Thuở nhỏ, thầy vừa học chữ Hán, vừa học chữ Pháp, năm 1911, đậu bằng Thành chung trường Pháp Việt, năm 1912 đậu bằng Cử nhân Hán học. Vào hồi đầu thế kỷ 20, một lúc đạt được hai học vị như thầy quả là hiếm.
    Trước khi làm nghề sư phạm, ông Võ Liêm Sơn cũng ra làm quan. Được bổ nhiệm làm tri huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, vốn ưa thích văn chương, ông thường đi vào dân chúng sưu tầm ca dao tục ngữ. Lúc đó có phong trào nông dân đòi giảm thuế, ông ủng hộ, khuyến khích nông dân kéo lên tỉnh đòi giải quyết yêu sách. Vì cự lại tên chủ thương chính người Pháp, ông bị huyền chức.
    Sau đó, ông xin sang giáo chức, làm Huấn đạo, rồi khi chế độ khoa cử cũ bị bãi bỏ, ông được bổ nhiệm làm giáo sư Hán văn và Quốc văn ở trường Quốc học Huế. Ông đã truyền cho học sinh lòng yêu văn hoá dân tộc và tinh thần giữ gìn bản sắc giống nòi.
    Anh Giáp khi còn trên ghế nhà trường đã được dữ những giờ giảng văn rất hay của ông. Anh còn nhớ thầy giảng bài Sống chết mặc bay của Hoàng Tích Chu, ý tứ rất sâu sắc. Bài văn lên án bọn quan lại thối nát tệ lậu ham đánh bạc trong khi đê vỡ.
    Thầy Võ Liêm Sơn có nhiều sáng tác văn học. Ông hay làm thơ châm biếm, nổi tiếng là tập Hài văn phê phán những điều trái tai gai mắt. Thơ ông mạnh mẽ, chân chất. Ông cũng làm thơ trữ tình, bài Viếng mộ Nguyễn Du là một bài khá hay, học sinh Quốc học các khoá 1024-1926 đều thuộc:
    Cùng dưới non Hồng một giải sinh
    Tôi thương, tôi tiếc Cụ Tài, Tình
    Trăm năm đã có tôi đang khóc
    Thảm thiết nư ai khóc Tiểu Thanh (Trích)
    Lúc anh Giáp đến nương náu tại nhà ông là lúc ông đang sáng tác cuốn tiểu thuyết Cô Lâu Mộng. Thầy đọc, học trò làm thư ký. Trong nhà ông Võ Liêm Sơn treo ảnh Phật. Ông chủ trương khổ hạnh: ?oCác cậu học như thế vừa lừa, tập khổ hạnh đi để mà làm cách mạng!?. Bữa ăn hàng ngày ở nhà thầy chỉ có cơm muối vừng. Chỉ thứ hai, thứ tư, thứ sáu mới được ăn thịt.
    Tuy vậy ở nhà thầy Võ Liêm Sơn, món ăn tinh thần lại thoải mái. Anh Giáp say sưa vùi đầu nơi tủ sách.
    Chính tại nơi đây, lần đầu tiên, anh Giáp đã đọc sách về chủ nghĩa Marx. Thầy Võ Liêm Sơn có cuốn Le Marxisme (Chủ nghĩa Marx-anh Giáp không nhớ tác giả và nhà xuất bản), thầy giấu cuốn sách cấm ấy đằng sau tấm bảng đen.
    Một thời gian sau, anh Giáp xin phép trở về quê. Khi chia tay, thầy nhắc nhở anh về nhiệm vụ người thanh niên, trách nhiệm của một người dân mất nước.
    Anh Giáp còn có dịp gặp lại thầy Võ Liêm Sơn khi anh trở lại Huế làm việc tại Quan hải tùng thư và trong kháng chiến chống Pháp khi ấy ông Võ Liêm Sơn là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Liên khu 4, ra Việt Bắc họp. Ông Võ Liêm Sơn được Hồ Chủ tịch tiếp và tặng bài thơ:
    Tặng Võ Công
    Thiên lý công tầm ngã
    Bách cảm nhất ngôn trung
    Sự dân nguyện tận hiếu
    Sự quốc nguyện tận trung
    Công lai ngã hân hỉ
    Công khứ ngã tư công
    Tặng công chỉ nhất cú
    Kháng chiến tất thành công.
    Dịch:
    Ngàn dặm cụ tìm đến
    Một lời trăm cảm thông
    Thờ dân trọn đạo hiếu
    Thờ nước vẹn lòng trung
    Cụ đến tôi mừng rỡ
    Cụ đi tôi nhớ nhung
    Một câu xin tặng cụ
    Kháng chiến ắt thành công.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Khước từ hôn nhân
    Vạn bất đắc dĩ anh Giáp phải trở về quê. Một cánh chim đang muốn tung trời mà bay nay lại phải quay về nơi tổ cũ. Đầu óc đã mở mang, tầm mắt đã nhìn rộng, quen giao lưu với bạn bè, quen thông tin sách báo, nay lại phải về nơi nước đọng.
    Anh tự đặt một chương trình học tập rất nghiêm. Anh liên lạc để tự học theo Ecole universelle (Trường giáo dục phổ cập) bên Pháp. Anh nhận được tài liệu rất đềi và trả bài rất đều. Số sách mang được về quê quá ít ỏi. Mấy cuốn Pháp văn còn sót, anh đọc đi đọc lại, thuộc lòng từ đầu chí cuối cuốn kịch thơ Andromaque của Racine, Le Cid của Corneille. Anh tập làm văn theo cuốn Stylitstique (Tu từ học).
    Anh Giáp cho em là Võ Thuần Nho và bạn là Đào Viết Doãn đọc các tài liệu của cụ Phan Bội Châu và thầy Võ Liêm Sơn. Nho và Doãn rủ nhau ra vườn sau, trèo lên cây cao để đọc. Anh Giáp tuyên truyền cho Nho, Doãn, Huy, Đẩu, Tào, Nhĩ. Ở An Xá hình thành một nhóm thanh niên yêu nước, sau này nhiều người trở thành đảng viên Đảng Cộng sản và là nòng cốt trong Tổng khởi nghĩa và kháng chiến chống Pháp.
    Dạo ấy, có một vấn đề khó xử trong gia đình là việc hôn nhân. Ông cụ muốn anh Giáp lấy vợ. Trong làng có cô Bá (vợ ông Bá hộ) đánh tiếng có con gái sẵn sàng gả. Anh Giáp biết rõ gia đình này: Giàu nhất làng, nhà ngang dãy dọc, sang trọng kiểu phú ông. Con trai lớn ông Bá trạc tuổi anh Giáp tên là Đính được gọi là Giám Đính (Chức giám sinh mua). Hai cô em vừa tuổi lấy chồng, một cô ngày trước cùng tiểu học với anh Giáp trên trường Tổng ở Tuy Lộc đến lớp tư, cô em định gả cho anh Giáp mới lớn, vì nhiều lẽ, anh Giáp không thể ưng. Mẹ cô cho biết, nếu thành hôn được, sẽ cho ruộng, cho nhà.
    Ông cụ muốn anh Giáp phải nhận lời. Ý kiến bà mẹ thì khác: ?oTuỳ con. Ưng thì lấy, không ưng thì thôi, không ép?.
    Anh Giáp rất biết ơn bà. Quan điểm của bà thật tiến bộ. Do bà thương con hay do ảnh hưởng từ thời ông ngoại? Các chị (chị Điểm, chị Liên), chú Nho đều cùng chung quan điểm với mẹ.
    Việc hôn nhân của chị cả (chị Điểm) cũng vậy. Trong làng có anh Hương Huệ đến dạm hỏi chị cả. Chị không ưng. Một hôm Hương Huệ mang chè, gạo nếp đến. Chị Điềm hỏi lạnh tanh: ?oAnh đến có việc gì??. Rồi chị đem trả lại tất. Tuy vậy Hương Huệ vẫn kiên trì, thường xuyên đến nhà xin ở rể. Ý kiến bà mẹ: ?oTuỳ ý chị, không gán ép?. Chị Điểm kiên quyết từ chối. Sau này chị Điểm lấy người chị yêu (trong kháng chiến chống Pháp làm tỉnh đội trưởng).
    Một việc đập vào mắt người thanh niên đã giác ngộ chính trị là vấn đề ruộng đất ở quê nhà. Anh Giáp và nhóm thanh niên tiến bộ trong làng bàn với nhau phải tìm cách chống lại bọn lý hương, bọn cho vay nợ lãi, đòi chia lại ruộng đất cho công bằng, đòi lại ruộng bị gán nợ, bị mua đắt bán rẻ.
    Nhóm thanh niên này chủ trương lập hội kín. Họ rủ nhau lên thượng nguồn sông Kiến Giang, hôm ấy đi tảo mộ, mấy anh em đến chân núi An Mã họp, tuyên thệ lập hội kín để đánh Tây. Mục đích tôn chỉ là gì? Cương lĩnh điều lệ ra sao? Không biết, chỉ biết là cùng chí hướng, hăng hái, thế thôi. Hôm sau, anh Giáp đang ươm cải ngoài vườn bỗng thấy mẹ đến gần. Bà hỏi khẽ: ?oCon làm hội kín phải không??. Anh Giáp trả lời: ?oCó?. Bà mẹ nói tiếp: ?oVào hội kín đánh Tây thì được, nhưng đừng để nó bắt?.
    ----------------------------------------------------------
    Đã hết sách rồi ạ.

Chia sẻ trang này