1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐĂK TÔ ‘Lính nhà trời’ Mỹ trên cao nguyên trung phần Nam Việt Nam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 01/04/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    ĐĂK TÔ

    ‘Lính nhà trời’ Mỹ trên cao nguyên trung phần Nam Việt Nam
    [​IMG]

    TG. Edward F. Murphy
    Dịch: ngthi96 ttvnol




    Giới thiệu




    Việc Hoa Kỳ tham chiến 10 năm trên bộ tại miền nam Việt Nam đã bắt đầu từ 1 trận hải chiến. Đầu giờ chiều ngày 31 tháng 7 năm 1964, khu trục hạm USS Maddox xâm nhập vịnh Bắc Bộ, phía đông của Bắc Việt nam trong sứ mệnh gián điệp điện tử, với mật danh là Desoto. Chiếc Maddox, gắn chi chít các thiết bị tình báo điện tử mưu đồ định vị những radar của đối phương bằng cách lần theo những tín hiệu khi phía Bắc Việt theo dõi nó. Trong khi đó những chuyên viên sẽ nghe lén các cuộc điện đàm qua radio của phía Bắc Việt, còn những người khác sẽ cập nhật những mốc giới trên hải đồ.

    Sáng hôm ấy, khi mà Maddox đang tiến vào vị trí ở phía đông nam Thanh Hóa, các thuyền viên của nó phát hiện 4 tàu phóng lôi Swift do Mỹ sản xuất đang phóng rất nhanh phía đường chân trời. Những chiếc tàu phóng lôi PT vỏ bằng nhôm đó đang chạy về phía nam, hướng về Đà Nẵng, nam VN sau khi vừa thực hiện nhiệm vụ đầu tiên trong kế hoạch tiến hành 1 loạt các cuộc đột kích vào các căn cứ quân sự đóng ven biển của miền Bắc.

    Dù những tàu Swift này do biệt kích biển nam VN điều khiển, nhưng thực ra chúng hoạt động dưới sự chỉ đạo của đoàn Nghiên cứu và quan sát (SOG), một lực lượng rất bí mật hoạt động chống nổi dậy chịu trách nhiệm trực tiếp của bộ tư lệnh viện trợ quân sự Hoa kỳ tại VN (MACV). Được lính biệt kích Mỹ và các đặc vụ của cục tình báo trung ương (CIA) huấn luyện. Các biệt kích quân này đã thực thi nhiệm vụ của họ từ hồi tháng 3. Tại 1 căn cứ được bảo vệ nghiêm ngặt phía nam Sài Gòn, những lính biệt kích đã thực tập nhuần nhuyễn chiến thuật xâm nhập đường biển và bắn phá vùng duyên hải. Vào cuối tháng 7, các chỉ huy SOG đã quyết định cho họ ra trận và chuẩn bị cho nhiệm vụ đầu tiên. Ngày 31 tháng 7, những kẻ đột kích sẽ tấn công các trạm radar và đài phát sóng ở hòn Mê và hòn Ngư, 2 hòn đảo nằm cách phía bắc khu phi quân sự chia đôi đất nước này, khoảng 180km. Nếu nhiệm vụ thành công thì 3 ngày sau, những chiếc tàu cao tốc sẽ quay lại để bắn phá 1 trạm radar trên đất liền tại mũi Vĩnh Sơn, phía nam của Vinh, Bắc VN.

    Trong lần đầu tiên làm nhiệm vụ, những tàu cao tốc Swift đã vấp phải hỏa lực phòng thủ rất mạnh khi gần tới các hòn đảo của đối phương nên ko thể đổ biệt kích lên bờ được. Thay vì thế họ nã hàng chục phát đạn đại bác 40mm vào vị trí quân Bắc Việt. Sau đó những chiếc tàu phóng ra khơi và quay về căn cứ.

    Trên tàu Maddox, các chuyên viên tình báo điện tử đã chặn nghe được 1 loạt những cuộc đàm thoại vô tuyến về cuộc đột kích. Rõ ràng là phía Bắc Việt rất bị kích động trước việc này, đây là lần đầu tiên họ bị pháo kích bằng đường biển. Tàu Maddox tuy đã được biết về cái gọi là kế hoạch tập kích A-34, nhưng ko quan tâm lắm vì họ ko phải là thành viên của các chiến dịch vụng trộm kia.

    Nhưng sau đó các máy nghe trộm thu thập được ngày càng nhiều các thông điệp của Bắc Việt đề cập đến số hiệu sơn trên thân tàu Maddox: DD -731. Rõ ràng là phía Bắc Việt đang suy đoán về vai trò của chiếc tàu khu trục với cuộc đột kích kia. Trung tá hải quân Herbert L. Ogier có vẻ ko quan tâm lắm nên chỉ ra lệnh nâng cao cảnh giác vẫn tiếp tục thực thi nhiệm vụ.

    2 ngày sau, hôm mồng 2 tháng 8, khu trục hạm Maddox chạy ngang qua hòn Mê. Đài quan sát trên tàu phát hiện 3 tàu phóng lôi Bắc Việt đang chạy theo hàng dọc gần hòn đảo. Vài phút sau họ nghe trộm được thông điệp ra lệnh cho mấy con tàu kia tiến công tàu Maddox. Ogier hạ lệnh cho tàu tăng hết tốc lực chạy ra ngoài khơi.

    1 lúc sau, radar trên tàu phát hiện 3 tàu phóng lôi đã rời khỏi hòn Mê. Với tốc độ tối đa 50 hải lý/giờ, thì chưa đầy 1 giờ đồng hồ, chúng sẽ đuổi kịp chiếc khu trục hạm. Ogier lệnh cho pháo trên tàu khai hỏa nếu thấy mấy tàu kia xáp lại ở khoảng cách 10 km.
    Lúc 15:08 những khẩu pháo cỡ nòng 5 inch (127mm) đã bắn 1 loạt đạn phía trước mũi mấy chiếc tàu phóng lôi. Ít phút sau, khi mấy chiếc tàu kia đã vào tới tầm phóng ngư lôi, Maddox lại khạc đạn. Những chiếc tàu kia vẫn xông đến.

    Trong 20 phút sau đó, Maddox bắn cấp tập vào 3 tàu địch, tạo ra những cột nuớc bắn tung tóe lên trời nhưng ko bắn trúng được chiếc nào cả. Tàu Bắc Việt phóng quả ngư lôi đầu tiên từ cự ly 2,7 km. Ogier cho tàu quay ngoắt sang trái, dùng tên lửa đối hải đánh chặn. Một quả ngư lôi khác xé nước lao tới. Tàu Maddox lại né được. Sau rồi, rốt cục, 1 viên đạn pháo của tàu Maddox, đã bắn trúng 1 tàu phóng lôi. Nó khựng lại. Ít giây sau, 1 tàu phóng lôi khác chạy chậm lại do bị bắn trúng. Chiếc thứ 3 quay lại đễ hỗ trợ 2 chiếc kia.

    Vài phút sau, 4 máy bay F-8 Crusaders (thập tự quân) từ tàu sân bay Ticonderoga bay tới hiện trường. Chúng oanh tạc những tàu phóng lôi Bắc Việt suốt 5 phút rồi bay đi. Lúc này, Ogier nhận điện từ thượng cấp lệnh cho ông ta phải rời khỏi khu vực. Ông chấp hành.

    Tin về vụ tấn công bằng ngư lôi của Bắc VN đã truyền tới Washington. Sau khi tham khảo ý kiến những cố vấn chủ chốt của mình, Lyndon B. Johnson đã tổ chức họp báo. Ông tuyên bố cho thế giới biết ông sẽ tiếp tục cho tuần tra trên vịnh Bắc Bộ. Thêm nữa, còn sẽ bổ sung thêm chiếc khu trục hạm thứ 2 tham gia vào việc tuần tra. Các hạm trưởng tàu khu trục được lệnh đáp trả bất kỳ lực lượng nào tiến công họ.

    Ngày 3 tháng 8, tàu Maddox, cùng với tàu Turner Joy tháp tùng, quay trở lại vịnh Bắc Bộ. Mặc dù hôm đó ko xảy ra biến cố nào. Phía Bắc Việt liên tục thông báo qua hệ thống vô tuyến theo dõi hướng đi của mấy chiếc tàu. Cũng chính đêm đó, những tàu cao tốc của SOG phát động cuộc mật tập thứ nhì vào các mục tiêu quân sự trên bờ biển của Bắc VN, chúng pháo kích vào 1 trạm radar trên đất liền 30 phút rồi rút về.
    Lần cập nhật cuối: 11/06/2014
    fandc, DepTraiDeu, bigradeon12 người khác thích bài này.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Cả ngày mồng 4 tháng 8, các kỹ thuật viên trinh sát điện tử trên tàu nghe thấy rất nhiều cuộc đàm thoại qua lại bằng vô tuyến và thấy rằng phía Bắc Việt đang hết sức giận giữ về những cuộc đột kích A-34. Một số thông điệp chặn bắt được có nội dung ra lệnh cho các tàu phóng lôi chuẩn bị cho 1 cuộc tấn công.

    Khi đêm xuống, 2 chiếc khu trục hạm rời khỏi vùng ven bờ Bắc Việt đi ra ngoài khơi xa. Một cơn bão bất ngờ đi vào khu vực. Toàn vùng bị mây đen dày đặc bao phủ, sấm sét đì đùng. Gió lớn làm cho biển động dữ dội.

    Khi mấy chiến hạm đang chạy về phía đông thì radar trên tàu phát hiện được những đốm sáng tín hiệu. Ogier nghĩ có lẽ tàu phóng lôi địch đang chờ sẵn. Không khí trong trung tâm thông tin tác chiến của tàu rất căng thẳng khi mấy đốm sáng trên màn hình radar cứ xuất hiện rồi lại mất đi. Lúc 21g30, các đốm sáng bắt đầu tăng tốc đến gần mấy khu trục hạm. Hiệu thính viên trên tàu Maddox hét lên: “Ngư lôi!” Một số cảnh giới viên cũng báo cáo đã nhìn thấy có 1 ngư lôi dưới nước.

    Chiếc Turner Joy khai hỏa vào 1 đốm sáng. Nó biến mất khỏi màn hình. Tàu Maddox cũng bắn. Đêm tối như mực bỗng chốc sáng bừng bởi những chớp lửa đầu nòng của pháo 127mm. Ngư lôi được báo cáo phóng tới liên tục khiến các tàu phải cơ động né tránh cật lực. Có lúc hiệu thính viên trên tàu Maddox báo rằng nghe thấy có 22 quả ngư lôi trong làn nước. 8 máy bay Crusader của tàu Ticonderoga cũng bay đến, hướng thẳng tới vị trí có tàu phóng lôi Bắc VN, là những đốm sáng trên màn hình radar của tàu Maddox. Những chiếc máy bay bay rất thấp để tìm những kẻ bị diệt. Chúng sục xạo trên mặt biển hồi lâu nhưng ko thấy dấu hiệu gì về sự hiện diện của đối phương.

    Mọi thứ đột ngột kết thúc cũng giống như lúc bắt đầu. Âm thanh của ngư lôi đã biến khỏi tai nghe của các hiệu thính viên. Trên màn hình radar những đốm sáng biến mất. các khu trục hạm chuyển hướng và dùng hết tốc lực bỏ chạy về phía nam.

    Khi tin về cuộc tấn công thứ 2 tới tai tổng thống Johnson, ông ko hề chần chừ khi ra lệnh 1 cuộc không kích trả đũa – có mật danh là Mũi tên xuyên (Pierce Arrow) – đánh vào các căn cứ tàu phóng lôi của Bắc VN. Ông cũng cùng các phụ tá chuẩn bị 1 dự thảo nghị quyết trình Quốc hội để thông qua cho hành động của mình.

    Trong khi đó thì hạm trưởng 2 tàu Maddox và Turner Joy lại cẩn thận xem xét lại cuộc giao chiến. Họ kết luận rằng hầu hết, nếu ko phải là tất cả, những thứ radar đã quét được thực ra là những thứ ko có thật do tín hiệu radar tương tác phản xạ với trần mây thấp. Những tiếp xúc của ngư lôi qua máy định vị siêu âm có thể là do sai lầm khi nghe thấy tiếng chân vịt tàu của chính họ. Các hạm trưởng nhanh chóng điện báo cho thượng cấp của mình rằng: “Nhiều báo cáo về việc tiếp xúc và ngư lôi bắn tới là ko đáng tin cậy.”

    Dù cuộc tấn công còn có nhiều điểm đáng ngờ, tổng thống Johnson và bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara vẫn cho thực thi chiến dịch tấn công Mũi tên xuyên. Lúc 22g43 ngày 4 tháng 8 (giờ Washington), những chiếc phản lực cơ đầu tiên gầm rú đáp xuống boong chiếc Ticonderoga. Đáng ngạc nhiên là chỉ chưa đầy 1 tiếng sau, lúc 23g37, tổng thống Johnson đã lên truyền hình công bố về quyết định tung ra các cuộc không kích.

    Do được cảnh báo trước như thế, phía Bắc VN đã chuẩn bị sẵn sàng khi những chiếc máy bay Crusader đầu tiên xuất hiện trên đầu. Máy bay Mỹ đã đánh trúng mục tiêu, phá hủy khoảng 25 tàu phóng lôi. Các pháo thủ Bắc VN đã bắn trúng 4 trong số 35 máy bay Mỹ, làm 2 chiếc bị rơi.

    Ngày 7 tháng 8 năm 1964, thượng viện Mỹ, chỉ có 2 phiếu chống, đã thông qua 1 nghị quyết cho phép: “Tổng thống…
    được áp dụng mọi biện pháp cần thiết, đẩy lùi bất cứ một cuộc tiến công vũ trang nào chống lại lực lượng Hoa Kỳ và sẵn sàng tiến hành mọi bước cần thiết, để ngăn chặn những hành động gây hấn" ở nam VN.

    Mặc dù đã có nghị quyết này hậu thuẫn. Vì lý do sắp tới kỳ bầu cử, tổng thống Johnson, đã từ chối việc trả đũa tiếp dù cho ********* gia tăng những hành động gây hấn nam VN và lính Mỹ đóng tại đây. Ngay cả khi ngày 31 tháng 10, VC tiến công căn cứ không quân lớn ở Biên Hòa, cách Sài Gòn 22 km, giết 4 lính và phá hủy 13 oanh tạc cơ Mỹ, Johnson cũng ko cho trả đũa.

    3 ngày sau, Johnson trúng cử tổng thống và là ứng cử viên có đa số phiếu ủng hộ lớn nhất trong lịch sử. 61% phiếu bầu được bỏ cho cái người đã cam kết sẽ từ chối việc “cho phép những chàng trai Mỹ đi chiến đấu thay cho dân châu Á.”

    Trong suốt tháng 11, Johnson bắt các cố vấn cao cấp của mình tất bật nghiên cứu chính sách của Mỹ ở nam VN. Ngày 1 tháng 12, ông ta chọn khả năng với nội dung chủ yếu là mở rộng các chính sách hiện hành. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hỗ trợ nam VN, bằng cách ném bom trả đũa Bắc Việt cho những sự việc tương tự như vụ “tấn công” vịnh Bắc Bộ hay vụ sân bay Biên Hòa.

    Tuy thế, ngay vào đêm Giáng Sinh, VC đã cho nổ 1 xe tải chứa bom tại 1 khách sạn ở trung tâm Sài Gòn, được Mỹ dùng làm chỗ ở cho sĩ quan, khiến hơn 100 người thương vong. Tổng thống Johnson vẫn từ chối trả đũa. Cho tới khi VC tiến công 2 căn cứ quân đội Mỹ gần Pleiku vào sáng sớm ngày 7 tháng 2 năm 1965, giết chết 7 lính Mỹ và làm bị thương 100, tổng thống Johnson mới tiến hành trả đũa Bắc VN. Sau khi VC tấn công 12 giờ, các tàu sân bay Mỹ trong vịnh Bắc bộ đã tiến hành chiến dịch có tên Flaming Dart (mũi tên Lửa. ND), tấn công có giới hạn các mục tiêu ở Bắc VN. Ngày hôm sau, thủ tướng tương lai Nguyễn Cao Kỳ dẫn đầu các máy bay của không lực nam VN tới tấn công 1 trung tâm thông tin liên lạc của Bắc Việt ngay phía trên DMZ (Giới tuyến quân sự tạm thời hay khu phi quân sự. ND)
    DepTraiDeu, bigradeon, usadok4 người khác thích bài này.
  3. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.327
    Tớ đã có hân hạnh sống 18 năm trong 1 tòa chung cư từng là cư xá lính Mỹ và đã bị tấn công bằng xe taxi chở bom. Buồng tớ ở nằm ngay trên tầng trệt nơi xe bom nổ. Khung bê tông còn nguyên vẹn nhưng lớp tường gạch khi đục ra thì thấy bị nát khá nhiều.
    anheoinwater, hk111333OnlySilverMoon thích bài này.
  4. halosun

    halosun Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    18.881
    Đã được thích:
    17.404
    ngthi96khuc_thuy_du thích bài này.
  5. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.327
    Chung cư Đời Tân, giữa BV Sùng Chính. Cư xá Brink giờ là KS Park Hyatt rồi
    hk111333kuyomuko thích bài này.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Cuộc ko kích trả đũa đã ko thể ngăn VC dừng lại. Tối ngày 10 tháng 2, họ tiến công 1 doanh trại lính Mỹ tại Qui Nhơn, thị xã ven biển nằm ở trung tâm tỉnh Bình Định, 21 lính Mỹ chết và 22 người khác bị thương khi tòa nhà họ ở bị đánh sập. Ngay khi lực lượng cứu hộ đang kéo các thi thể lính Mỹ ra khỏi đống đổ nát, máy bay của chiến dịch Flaming Dart II đã bay ù ù trên bầu trời Đông Nam Á hướng đến Bắc VN.

    Căn cứ trên việc các mục tiêu của Mỹ bị tiến công liên tục. Ngày 13 tháng 2, tổng thống Johnson quyết định “tiến hành 1 chương trình ném bom có hạn chế và giới hạn” chống lại Bắc VN. Các cuộc không kích được lên kế hoạch 1 hoặc 2 lần/tuần. Chiến dịch ném bom dài ngày này được mang tên Sấm Rền (Rolling Thunder).

    Do thời tiết ko thuận lợi, các cuộc không kích đầu tiên của Sấm Rền, đến ngày 2 tháng 3 mới được bắt đầu. Một đoàn gồm 104 máy bay của không lực Mỹ - gồm B52, F100,F105 - đã thả 120 tấn bom xuống Xom Bang (Là chỗ nào vậy ta? bác nào biết bổ sung địa danh chính xác giúp), cách DMZ 15km về phía Bắc. Đối phương phản ứng khá mãnh liệt. 6 máy bay Mỹ bị bắn hạ.

    Do phần lớn các máy bay của không lực đóng tại căn cứ không quân Đà Nẵng nên vấn đề an ninh đóng vai trò rất quan trọng với việc thành bại của các cuộc tấn công Sấm Rền tiếp theo. Dù được các đơn vị quân lực VNCH canh gác, tư lệnh MACV, đại tướng William C. Westmoreland rất đỗi nghi ngờ khả năng của họ trong việc bảo vệ hiệu quả những cơ sở phức tạp như vậy. Ngày 22 tháng 2, trung tướng John L. Throckmorton, cấp phó của Westmoreland, đề xuất chuyển giao việc bảo vệ căn cứ sang cho TQLC Mỹ. Ông ta lập luận, không những TQLC có thể bảo vệ tốt hơn, mà còn giúp giải phóng các binh sĩ VNCH để họ thực hiện các chiến dịch chống lại VC.

    Westmoreland đã bỏ qua lời khuyên của đại sứ Mỹ Maxwell D. Taylor và đồng tình với đề xuất này. Do đó, ngay trong ngày, ông đã yêu cầu cấp cho 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến. 4 ngày sau Washington gửi điện chấp thuận đòi hỏi này của Westmoreland.

    Vào lúc 9g ngày 8 tháng 3 năm 1965, lính thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 9 TQLC bắt đầu đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng. Chiều hôm đó, các máy bay vận tải C-130 từ Okinawa trở tới tiểu đoàn 1, trung đoàn 3 TQLC. Sự hiện diện trên bộ của quân Mỹ tại VN đã trở thành hiện thực.

    Trong những tuần sau, vai trò của TQLC được mở rộng từ phòng thủ tĩnh tại sang tuần tra tích cực cách xa Đà Nẵng vài dặm. Đến lúc đó, tham mưu trưởng lục quân Mỹ, tướng Harold K. Johnson, bắt đầu đưa ra những lý lẽ thuyết phục cho việc gia tăng sự hiện diện của quân Mỹ ở nam VN. Ông ta nhấn mạnh với hội đồng tham mưu trưởng liên quân rằng chỉ có Hoa Kỳ mới có thể gây đủ áp lực cho quân Bắc Việt nhằm ngăn cản họ hỗ trợ VC.

    Lập luận của tướng Johnson được củng cố khi ngày 29 tháng 2, VC cho nổ 1 quả xe hơi chứa bom ngay trước đại sứ quán Mỹ. 2 người Mỹ và 18 người Việt bị chết, cùng 160 người khác bị thương trong vụ nổ kinh hoàng này. Tòa sứ quán đã bị phá hủy.

    Westmoreland lại đòi hỏi, và được nhận thêm 9 tiểu đoàn bộ binh Mỹ nữa. Ông dùng 1 số đơn vị để lập ra các căn cứ của Mỹ tại Qui Nhơn và Nha Trang, số khác tới khu vực Chu Lai, phía nam Đà Nẵng. Để bảo vệ căn cứ không quân khổng lồ của Mỹ ở Biên Hòa và các cơ sở có tầm quan trọng chiến lược tại Vũng Tàu và cửa sông Sài Gòn; Westmoreland đòi chuyển đích danh từ Okinawa sang lữ đoàn dù 173 ưu tú.





    Chương 1
    Đến Việt Nam






    Chiếc máy bay vận tải chở chuẩn tướng Ellis W. Williamson, lữ đoàn trưởng lữ đoàn dù 173, hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất ở ngoại ô Sài Gòn vào sáng sớm ngày 25 tháng 4 năm 1965. Williamson đến thủ đô nam VN đáp ứng theo yêu cầu trong bức điện tối mật mà ông ta nhận được tại bộ chỉ huy của mình trên đảo Okinawa ngày hôm trước. Lục quân Hoa Kỳ đồng ý với yêu cầu của tướng Westmoreland về việc triển khai lữ đoàn 173 tới nam VN, và lệnh cho đơn vị của Williamson chuẩn bị di chuyển.

    Đi cùng ông là các sĩ quan phụ trách hành quân (S-3), tiếp vận (S-4) và người phụ tá. Williamson được hộ tống tới văn phòng của Westmoreland tại bộ tư lệnh MACV ở trung tâm Sài Gòn. Sau câu chào hỏi xã giao, Westmoreland gặng hỏi Williamson.

    “Sao anh lại mặc quân phục?”

    “Thì lúc nào tôi chả mặc nó ạ.” Williamson hơi ngạc nhiên trả lời.

    “Điện của tôi đã nhấn mạnh là phải mặc đồ dân sự mà” Westmoreland nói rõ.

    “Tôi có mang theo quần và 1 áo sơ mi rồi ạ.” Williamson đáp.

    Westmoreland ra lệnh: “Hãy thay vào ngay rồi mới được rời khỏi tòa nhà này. Tôi ko muốn VC hoặc báo chí biết anh đang ở đây.”

    Tướng Williamson bối rối thay đồ dù theo như ông biết thì mình đang giúp chính phủ miền nam VN đang chống lại quân VC nổi dậy - những người được Bắc VN ủng hộ. Xứ mạng quan trọng của Williamson khiến ông có nhận thức rõ ràng về những yếu tố ảnh hưởng tới vai trò của Hoa Kỳ với các nước trong khu vực Đông Nam Á nhưng ko biết chắc họ sẽ đòi hỏi những gì ở ông cùng đơn vị của mình.

    Westmoreland phổ biến những nhiệm vụ mà lữ đoàn 173 sẽ gánh vác trong khi Williamson đang chăm chú lắng nghe. Westmoreland giải thích, với việc gia tăng về quy mô của chiến dịch Sấm rền, ông ta ngày càng lo ngại về khả năng bảo vệ an toàn của quân lực VNCH cho các căn cứ của Mỹ đang hỗ trợ chiến dịch không kích. Ngoài ra việc có những đơn vị của Mỹ tới bảo vệ các căn cứ sẽ giúp các đơn vị VNCH rảnh tay để thực hiện các cuộc hành quân chống VC.

    Tướng Westmoreland tiết lộ cho Williamson biết rằng dự kiến sẽ có thêm các sư đoàn quân Mỹ nữa tới VN trong vài tháng tới. Lữ đoàn 173 có nhiệm vụ truy quét tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng trách nhiệm. Westmoreland nói việc lữ đoàn được triển khai ở nam VN chỉ mang tính tạm thời, có lẽ sẽ ko kéo dài quá 60 ngày. Sau khi bàn bạc thêm 1 số chi tiết về việc triển khai và nhiệm vụ của lữ đoàn, 2 vị tướng kết thúc buổi họp mặt.
    Lần cập nhật cuối: 03/04/2014
    DepTraiDeu, usadok, lopbopp8 người khác thích bài này.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    kuemhoito thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Trong 3 tuần kế tiếp, tướng Williamson cùng tùy tùng làm việc rất tất bật. Họ tới thăm các căn cứ không quân mà lữ đoàn sẽ phải bảo vệ, gặp gỡ rất nhiều cố vấn Mỹ, cũng như các chỉ huy quan trọng của VNCH, bắt tay vào xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai đơn vị. Có 1 núi công việc phải chuẩn bị để lữ đoàn 173 có thể làm nhiệm vụ ở nam VN, tuy nhiên tướng Williamson lại là bậc thầy trong việc khắc phục khó khăn kiểu này.

    Ellis W. Williamson sinh ra và lớn lên tại Raleigh, Bắc Carolina. Khi còn niên thiếu, mục tiêu của ông là được chơi kèn trombone trong 1 ban nhạc jazz. Để lấy kinh nghiệm thực tế, ông gia nhập Vệ binh quốc gia Bắc Carolina làm nhạc công năm 1935. Mặc dù dự kiến chỉ ở lại lực lượng Vệ binh quốc gia có 1 năm rồi sẽ tới thử giọng tại 1 ban nhạc lớn, nhưng ông đã ở trung đoàn suốt 10 năm. Suốt thập niên ấy, ông sẽ đi từ cấp binh nhì trong ban nhạc đến cấp trung tá chỉ huy trung đoàn.

    Sau kỳ hạn đầu tiên, Williamson nhận ra rằng ông ko những đã nâng cao được kỹ năng chơi kèn trombone mà còn phát triển tình bằng hữu giữa những thành viên trong đơn vị. Những người lính đã phụng sự cùng ông là những người tốt nhất ông từng biết đến. Họ làm nên tình thân hữu, tình đồng đội và tạo cơ hội cho các cá nhân phát triển. Do đó Williamson đăng ký thêm 1 kỳ hạn nữa.

    Trước khi tái ngũ, đơn vị của Williamson lên đường làm nhiệm vụ trong kế hoạch tập trung quân lớn của quân đội Mỹ trước chiến tranh TG 2, Ngày 16 tháng 9 năm 1942, đơn vị trở thành 1 phần của trung đoàn 120, sư đoàn 30 bộ binh.

    Do nhu cầu của các nhà lãnh đạo, quy mô quân đội gia tăng nhanh chóng. Williamson là 1 kẻ may mắn. Với năng khiếu thiên bẩm cộng với tài lãnh đạo ông được đưa vào nguồn đào tạo sĩ quan. Các cấp trên đã đề bạt trực tiếp ông đi học. Williamson đã tự hào gắn gạch vàng của lon thiếu úy lên quân phục vào đầu năm 1941.

    Sư đoàn 30 bộ binh dành 3 năm sau đó để huấn luyện trước khi lên tàu thủy sang Anh tháng 2 năm 1944. Sư đoàn đã tiến vào nước Pháp qua bãi biển Omaha, Normandy ngày 10 tháng 6 năm 1944 để làm nhiệm vụ tại châu Âu. Những dấu vết của cuộc tàn sát 4 ngày trước đó (ngày D) là lời cảnh tỉnh khắc nghiệt của chiến tranh đối với trung úy Williamson và binh sĩ trong trung đoàn 120 bộ binh. Những người lính chưa có kinh nghiệm chiến đấu nghiến răng dấn bước tiến ra chiến trường.

    Đơn vị của Williamson đã thử lửa lần đầu trong 1 trận đánh ác liệt để chiếm lấy các giao lộ có tầm quan trọng chiến lược ở thị trấn St.-Lô, Pháp. Sau đó họ tham gia chiến dịch Cobra (Rắn hổ mang), là đòn đột phá lớn của đồng minh từ đầu cầu Normandy. Rồi họ đánh đuổi quân phát xít suốt chiều ngang nước Pháp và tới đầu tháng 9 thì tiến vào Bỉ. Ngay khi Williamson, lúc đó là đại úy chỉ huy 1 đại đội súng trường, mới nghĩ những trận đánh gian lao chắc đã qua, họ lại phải nhảy vào trận đánh đẫm máu để chiếm Aachen, 1 thị trấn Đức trong hệ thống phòng ngự ghê gớm có tên bức tường phía Tây chạy dọc theo biên giới Bỉ. Suốt từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10, những người lính mệt mỏi của sư đoàn 30 bộ binh phải chiến đấu với những tên lính Đức cuồng tín cố thủ Aachen.

    Khi Aachen cuối cùng cũng bị thất thủ ngày 16 tháng 10 năm 1944, Williamson cùng trung đoàn 120 tiến vào nước Đức và ở trên tuyến đầu cho đến giữa tháng chạp. Khi Hitler phát động chiến dịch phản công liều lĩnh vào vùng rừng Ardennes ở Bỉ ngày 16 tháng 12 năm 1944, sư đoàn 30 được gửi đến chống giữ cho phòng tuyến đang lung lay của Mỹ. từ 17 tháng 12 năm 1944 đến 26 tháng 1 năm 1945, họ phải chiến đấu để quét sạch quân Đức xung quanh khu vực Malmédy-Stavelot.

    Cuối cùng thì trận Bulge cũng kết thúc bằng chiến thắng của quân Đồng minh, Williamson được thưởng lon thiếu tá và trở thành trung đoàn phó trung đoàn 120. Ông đảm nhiệm cương vị đó khi sư đoàn 30 bộ binh tham gia vượt sông Roer tháng 2 năm 1945. Sau đó sư đoàn tiến công ngang qua phần phía Bắc miền Trung nước Đức, và cùng các đoàn quân khác đua nhau tiến về Berlin. Ngày 7 tháng 4 năm 1945, họ chiếm được thành phố Hameln huyền thoại, rồi 1 tuần sau đó thì chiếm các vị trí nằm dọc sông Elbe, cách thủ đô nước Đức chỉ 60km.

    Trong khi các chính trị gia dàn xếp và lấy “phần thưởng” Berlin từ tay quân Mỹ chuyển sang cho phía Nga, thiếu tá Williamson và các đơn vị đông đảo của Mỹ đóng quân bên bờ tây sống Elbe và cứ ở đó cho đến tận ngày tuyên bố chiến thắng mùng 8 tháng 5 năm 1945.

    Khi chiến tranh vừa kết thúc, Williamson được vinh thăng lên trung tá và về chỉ huy chính cái trung đoàn mà ông đã từng gia nhập 10 năm về trước dưới bộ dạng của 1 chú binh nhì 18 tuổi. Ông và sư đoàn mình đã chứng tỏ được mình trong các trận đánh tàn khốc của cuộc chiến. Sư đoàn 30 bộ binh có 17.000 thương vong, trong đó hy sinh là 3516 người.

    Qua chiến tranh, trung tá Williamson nhận ra lẽ sống của chính mình. Ông cảm thấy mình có thể sống và cống hiến nhiều nhất trong môi trường quân đội, làm việc với những con người tài ba, tốt bụng nhất mà thế giới chưa từng biết. Williamson làm đơn gia nhập quân đội thường trực và được chấp nhận.

    Trong chiến tranh Triều Tiên, Williamson tham chiến liên tục.
    Tháng 9 năm 1950, ông đổ bộ lên Inchon trong vai trò phụ tá phòng hành quân (G-3), quân đoàn X lừng danh của tướng Douglas MacArthur. Sau khi tái chiếm thủ đô Seoul của Nam Triều Tiên thành công. Quân đoàn X di chuyển tới bờ biển phía đông bán đảo Triều Tiên và tiến đến sông Áp Lục để kết thúc chiến tranh.

    Sự bất ngờ tham chiến của Cộng quân Trung Quốc tháng 11 năm 1950 đã làm mọi sự lạc quan tắt ngấm. Trước khi các lực lượng Mỹ và Nam triều Tiên nhận ra kẻ thù mới là ai, họ đã phải rút lui hoàn toàn khỏi miền Bắc Triều Tiên.

    Đây giống như 1 canh bạc lớn cho Williamson. Toàn bộ sự nghiệp của ông có được là do xông lên tiến công quân thù. Giờ đây ông phải lập kế hoạch triệt thoái cho cả 1 quân đoàn, đang bị tiến đánh.
    DepTraiDeu, usadok, lopbopp3 người khác thích bài này.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Williamson đã làm việc này xuất xắc. Cùng với kế hoạch của các thượng cấp, quân đoàn X đã thoát khỏi 1 tình huống gần như vô vọng. Với mức thương vong và tổn thất về trang bị tối thiểu, quân đoàn X đã rút khỏi Bắc triều Tiên nguyên vẹn và sẵn sàng tái tấn công.

    Nỗ lực của Williamson đã được cấp trên ghi nhận. Nhờ làm việc nổi trội, hiệu quả trong các điều kiện khó khăn, Williamson được thăng lên cấp đại tá được chú ý bồi dưỡng lên cấp tướng.

    Sau khi phục vụ ở Triều Tiên, ông về làm việc tại Lầu năm góc. Trong thời gian ở đây ông tham gia nghiên cứu chuyên sâu về cách thức tiến hành chiến tranh của quân đội Mỹ, và việc này đã ảnh hưởng rất lớn tới sự nghiệp của ông sau này.

    Đầu năm 1952, 1 số nhà tiên phong trong quân đội đã phát hiện tiềm năng của máy bay lên thẳng khi nó sẽ cung cấp cho các đơn vị chiến đấu mặt đất tính linh hoạt và sự cơ động trước đây chưa ai dám nghĩ tới. Trong những năm sau 1 số người đã ra sức bảo vệ ý tưởng mới này của mình trước những giới chức chóp bu trong quân đội. Và cuối cùng, dù là bất đắc dĩ, những giới chức này mới quyết định chịu xem xét thêm về khái niệm Tác chiến cơ động đường không (Airmobile) mới mẻ này.

    Ngày 15 tháng 1 năm 1960, Tham mưu trưởng lục quân đã thành lập ra 1 ban đặc biệt để xem xét về nhu cầu hàng không của Lục quân. Sau đó họ đã đề xuất cho khảo sát thêm về sự cần thiết của các thiết bị hàng không trong các đơn vị Lục quân và xin làm nghiên cứu chuyên sâu về tính thực tế của ý tưởng việc có những đơn vị chiến đấu đường không. Từ những đề xuất trên. Lục quân bắt đầu từ từ gia tăng số lượng các thiết bị hàng không của mình.

    Cuối tháng 9 năm 1961, Bộ trưởng bộ Quốc phòng McNamara đã xem xét lại kế hoạch hàng không. Về cơ bản, ông kết luận rằng lục quân cơ động quá chậm chạp. Tháng 4 nắm 1962, ông chỉ đạo Lục quân phải có “cách nhìn sâu sắc” về cơ động trong tác chiến trên bộ. Ông kêu gọi sử dụng hết công suất những thí nghiệm cùng thực hành để đánh giá đúng chi phí và hiệu quả của công tác vận tải. McNamara đánh giá rất cao ý tưởng này và hỗ trợ nhiệt tình cho những nỗ lực của Lục quân.

    McNamara cuối cùng đã nhấn mạnh về tầm quan trọng các nghiên cứu về chiến thuật cơ động của Lục quân như sau: “Tôi sẽ rất thất vọng nếu như Lục quân cứ mãi đưa ra các đòi hỏi thêm nữa về các khoản mua sắm hậu cần mà không có các kế hoạch mới mẻ. Có thể khái niệm mới này sẽ làm cho chúng ta tăng đáng kể sức cơ động.”

    Một tuần sau khi có sự chỉ đạo của McNamara, trung tướng Hamilton H. Howze, tư lệnh quân đoàn 18 không vận, được bổ nhiệm làm trưởng ban Tác chiến cơ động đường không của Lục quân Hoa Kỳ.

    Với quyền hạn rất rộng lớn, ban của Howze ngay lập tức tiến hành công việc. Các hoạt động chính và quan trọng nhất của cơ quan chính là việc nghiên cứu kỹ lưỡng, thử nghiệm, đánh giá việc tổ chức và phương thức hoạt động của tác chiến cơ động đường không. Nhiều nỗ lực được giành cho lĩnh vực thực nghiệm với mục đích so sánh giữa 1 lực lượng được trang bị thông thường với với 1 lực lượng không kỵ có trang bị thêm máy bay.

    Trong 4 tháng sau đó, cơ quan này đã thực hiện 40 cuộc thử nghiệm bằng trang thiết bị đường không của sư đoàn dù số 82. Các bài kiểm tra này chú trọng đến các bài bắn đạn thật phức tạp để rèn luyện cách sử dụng những trang bị kỹ thuật mới. Đầu tháng 8 năm 1962, ban của Howze hoàn thành nhiệm vụ và gửi danh sách khuyến nghị lên trên.

    Sự đổi mới trong chiến thuật xuất phát từ những thử nghiệm của ban để tạo ra 1 Sư đoàn không vận xung kích thử nghiệm. Thay vì ở các sư đoàn thông thường sử dụng khoảng 100 máy bay, thì sư đoàn không vận xung kích có tới 459 máy bay trong biên chế. Việc cơ động đường không sẽ làm giảm đáng kể số lượng xe cơ giới trên mặt đất. Từ 3452 giảm còn 1100 chiếc. Qua đó các máy bay có thể vận chuyển 1/3 các đơn vị xung kích của sư đoàn chỉ trong 1 chuyến.

    Ban của Howze còn đề nghị thành lập ra 1 lữ đoàn kỵ binh không vận. Nó có chức năng như 1 đơn vị kỵ binh kinh điển, như che chắn, trinh sát, chốt chặn. Không như sư đoàn xung kích không vận, được thiết kế để tham gia trận đánh trên bộ, tất cả các thành viên trong lữ đoàn không kỵ đều có khả năng nhảy dù.

    Tướng Howze kết thúc bản báo cáo của mình bằng 1 câu ngắn gọn, tuyên bố nhấn mạnh: “Lục quân chấp nhận ý tưởng tác chiến cơ động đường không là cần thiết và đáng thực hiện dù còn nhiều điểm thiếu sót sẽ được chỉ rõ và kiểm chứng trong bản báo cáo này. Việc phải qua nhiều bước chuyển đổi là ko thể tránh khỏi, giống như hồi chuyển từ sức ngựa qua cơ giới vậy.”

    Sau đó, lục quân đã thành lập sư đoàn xung kích không vận sô 11, đóng tại căn cứ Fort Benning, Georgia. Hai năm kế tiếp sư đoàn thử nghiệm này đã được đưa vào thực nghiệm tất cả các khía cạnh của ý tưởng cơ động đường không. Một nhân vật thuộc ban tham mưu của Lầu 5 góc đóng vai trò then chốt trong giai đoạn lập kế hoạch cho ý tưởng này chính là đại tá Ellis W. Williamson. Là 1 người đi tiên phong cho việc hình thành sư đoàn cơ động đường không mới mẻ, Williamson đã làm việc tận tụy hết mình cho ý tưởng. Ông biết cách duy nhất để các bài thử nghiệm của ý tưởng cơ động đường không thành công là phải đặt nó đúng người, đúng nơi. Ông vận dụng tất cả khả năng và quan hệ để lôi kéo các sĩ quan sáng giá trẻ tuổi của lục quân tham gia vào các cuộc thử nghiệm.
    DepTraiDeu, usadok, lopbopp3 người khác thích bài này.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Kết quả đã chứng minh cho tầm nhìn xa của ban Tác chiến cơ động đường không của Howze cũng như cho khái niệm tác chiến mới qua việc chỉ 2 năm sau đó sư đoàn xung kích không vận 11 đã được đổi tên thành sư đoàn 1 kỵ binh bay. Nó được tái tổ chức lại rồi vội vã đem triển khai ở nước ngoài tháng 8 năm 1965 để đối phó với tình hình đang xấu đi tại miền nam VN. Trong 6 năm ở nam VN, sư đoàn 1 Kỵ binh bay đã nhiều lần chứng minh giá trị của tác chiến cơ động đường không và đạt nhiều thành tích chiến đấu xuất sắc.

    Lục quân cũng thực hiện 1 số sửa đổi trên kế hoạch của Howze để tạo ra 1 lữ đoàn kỵ binh không vận riêng biệt. Lục quân nhận ra rằng ko những tồn tại nhu cầu có 1 đơn vị thử nghiệm mà còn phải có 1 đơn vị không vận trên Thái Bình Dương đóng vai trò làm lực lượng phản ứng nhanh trên chiến trường. Để thực hiện nhiệm vụ kép độc nhất vô nhị này cho Lục quân, đòi hỏi phải có 1 đơn vị đặc biệt có thể đảm đương mọi sứ mạng được giao và 1 vị chỉ huy đặc biệt có khả năng uốn nắn cái đơn vị còn non nớt này thành lực lượng chiến đấu gắn kết.

    Thật may mắn là Lục quân đã có cả người chỉ huy cũng như đơn vị cho nhiệm vụ mới mẻ đó. Đây là 1 bước đánh dấu thành công trong sự phát triển của khái niệm cơ động đường không của đại tá Williamson, người có bằng nhảy dù năm 1960, khi ông được nhất trí đề bạt làm chỉ huy của lữ đoàn dù tân lập.

    Cương vị chỉ huy đơn vị mới đã đưa Williamson lên cấp chuẩn tướng. Tại lễ thăng cấp ở lầu 5 góc tháng 6 năm 1963. Bộ trưởng lục quân là Elvis J. Stahr, Jr., đã nhận xét khi gắn sao lên quân hàm của Williamson :” Lục quân bây giờ thăng tướng cho các vị sớm hơn nhiều so với hồi xưa.”

    “Vâng, thưa sếp” Williamson châm biếm “Đây là lần thăng cấp thứ 2 của tôi trong 19 năm đó ạ.”

    Đơn vị mới của tướng Williamson là lữ đoàn 173 dù (độc lập), được xây dựng và trang bị từ ngày 25 tháng 6 năm 1963. Lữ đoàn 173 lần đầu tiên bước vào chiến trận từ hồi chiến tranh thế giới thứ 1, trong thành phần sư đoàn 87 bộ binh. Sau cuộc chiến, lữ 173 được chuyển qua lực lượng quân dự bị. Trong chiến tranh thế giới thứ 2, nó trở thành chiến đoàn trinh sát số 87 (87th Reconnaissance Troop) và tham chiến tại châu Âu. Chiến đoàn trinh sát 87 ngừng hoạt động tháng 9 năm 1945. Ngày 26 tháng 3 năm 1963 đơn vị lại được tái tổ chức và trang bị và đổi tên thành lữ đoàn dù 173.

    Khi toàn lữ đoàn được tái lập tháng 6 năm 1963, nó tiếp nhận trang thiết bị của chiến đoàn dù số 2 (2nd Airborne Battle Group), rồi tới đóng quân tại Okinawa, trên quần đảo Ryukyu phía nam Nhật Bản. Các đơn vị cơ hữu của lữ 173 gồm các tiểu đoàn 1 và 2, trung đoàn bộ binh dù số 503; đại đội D, trung đoàn 16 thiết giáp; tiểu đoàn 3, trung đoàn pháo binh 319; đại đội công binh 173; đại đội trợ chiến 173; chi đội E, trung đoàn 17 kỵ binh. Biên chế của lữ đoàn có 133 sĩ quan, 3 chuẩn úy và 3.394 binh sĩ.

    Nhiệm vụ mà Williamson phải đối mặt rất chi là nặng nề. Không những đây là đơn vị phản ứng nhanh chủ yếu của chiến trường Thái Bình Dương mà còn là đơn vị phải liên tục thử nghiệm những ý tưởng mới trong quá trình tiến hành chiến tranh. May thay, Williamson cũng có được 1 ít nhân nhượng.

    Đầu tiên là lữ 173 sẽ đóng trên đảo Okinawa, tại đây nó được tự do thử nghiệm ý tưởng của mình mà ko có sự can thiệp liên miên của Lầu 5 góc.

    Sau đó, với trách nhiệm phải gánh vác, tướng Johnson đã hỏi Williamson có đòi hỏi gì để hoàn thành công việc không? Williamson đã trả lời chỉ bằng 1 từ đóng vai trò quan trọng trong cả sự nghiệp của ông đó là: “con người.”. Nếu được quyền lựa chọn những người giỏi nhất , ông có thể hoàn thành sứ mệnh và đơn vị có sự linh động hơn. Johnson đồng ý ngay.

    Williamson bắt tay vào việc. Những sĩ quan mới tốt nghiệp học viện West Point khóa 1962, 1963. Những sĩ quan cùng lính giỏi trong các sư đoàn dù 82 và 101, cũng như các khóa sinh tốt nghiệp hạng ưu trong trường bộ binh tại Fort Benning đều được tuyển vào lữ đoàn 173. Trong vài tuần, Williamson đã tập hợp được 1 đội ngũ sĩ quan và hạ sĩ quan có tài năng, nhiệt huyết nhiều hơn trong bất cứ 1 sư đoàn hoàn chỉnh nào.

    Khi mà Williamson đã tập hợp xong cán bộ khung, họ mới bắt đầu công việc vất vả là công tác huấn luyện. Tuy đóng quân trên đảo Okinawa, nhưng lữ đoàn không ở đó nhiều mà giành phần lớn thời gian trên hòn đảo Oromote.

    Nằm cách Okinawa 450km về phía nam, đảo Oromote là nơi lý tưởng để lữ đoàn tổ chức huấn luyện. Đảo có cây cối rậm rạp với bề ngang chỉ khoảng 22km. Oromote cho phép lữ đoàn làm những bài huấn luyện khác nhau theo điều kiện thực tế. Các đơn vị có qui mô khác nhau từ trung đội tới tiểu đoàn đầy đủ có thể được triển khai trên đảo mà ko có sự chỉ đạo trược tiếp từ bộ chỉ huy lữ đoàn, điều này cho phép chỉ huy các đơn vị được tự do quyết định.

    Phù hợp với mong muốn chung, tướng Williamson cho phép những lính dù dưới quyền rất nhiều cơ hội để phát triển. Bất cứ người lính nào cũng được tự do đưa ra ý tưởng để thử nghiệm. Mọiý tưởng đều được đưa ra thử nghiệm trong điều kiện thực tế rồi Williamson sẽ kết luận xem có dùng được hay là không. Được tự do tránh khỏi những con mắt xét nét của các thượng cấp, Williamson có toàn quyền đánh giá những sáng kiến này. Thực tế ông đã ông đã lập ra 1 “trung tâm ý tưởng” trong bộ chỉ huy nhằm đảm bảo bất cứ ý tưởng nào dù táo bạo hay quyết liệt đến đâu, cũng sẽ được xem xét chi ly, cẩn thận. Chỉ ý tưởng nào có sự coi thường tính mạng con người mới bị chạn chế.
    DepTraiDeu, usadok, lopbopp3 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này