1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐĂK TÔ ‘Lính nhà trời’ Mỹ trên cao nguyên trung phần Nam Việt Nam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 01/04/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Thật vất vả để lính bộ binh có thể tiến lên hoàn tất nhiệm vụ của ngày hôm đó. Rất hiếm khi họ bắt gặp dấu vết của địch quân. Nếu có đụng độ xảy ra, kẻ khai chiến hầu như luôn là địch. Bất chợt có vài tiếng súng nổ. Tiếng kêu gào của những người bị đạn địch bắn trúng khiến những lính dù bên cạnh thấy lạnh toát sống lưng. Trong khi lính cứu thương cố tiến đến chỗ những nạn nhân, những “thiên binh” còn lại mọp sát đất, nã xối xả đạn M16 vào các vị trí nghi ngờ có đối phương.

    Sau 2, 3 phút nã đạn, các lính dù sẽ ngưng bắn. Mọi thứ trở lại yên tĩnh. Các toán tuần thám thận trọng rời khỏi khu vực phòng thủ tìm kiếm kẻ địch. Trực thăng tải thương sẽ được gọi đến để lấy thương vong. Trong lúc lính dù làm nhiệm vụ bảo vệ bãi đáp, các toán tuần thám sẽ quay về. Hầu hết đều có những báo cáo giống nhau: “Ko thấy dấu vết Charlie (VC), thưa sếp.” Sau đó trực thăng tới bốc những lính thương vong lên, rồi bay đi. Lính dù về lại các tiểu đội rồi lại đi tiếp.

    Các đại đội súng trường của lữ 173 đi hành quân dã ngoại mất hàng tuần lễ. Họ sống thiếu thốn nhất so với những đơn vị Mỹ khác ở nam VN từng trải qua. Dù căn cứ không quân Biên Hòa có cả 1 khu PX cao hai tầng, rất ít “thiên binh” đã từng hưởng thụ ở đó chốc lát. Hiếm khi thấy lính dù nào trong số họ vào đó uống bia lạnh, tắm nước nóng, ăn nhậu, đọc báo hay ăn kẹo…

    Họ mặc 1 bộ quân phục, đi 1 đôi giày suốt hàng tuần lễ. Thường thì quần áo họ trong rừng ẩm ướt đã mục rách te tua trước khi trực thăng chở đồ tiếp tế tới nơi. Trong khi ấy, lính tráng ở hậu cứ có tới 6 đến 8 bộ quần áo, được hồ cứng, có thêu tên, quân hàm, phù hiệu chỉnh chu treo trong tủ. Một lính dù đi hành quân dã ngoại chẳng có gì nhiều hơn những thứ thồ trên lưng. Có thể mỗi tháng 1 lần
    trực thăng sẽ tới thả xuống cho lính dù vài bộ quần áo dã chiến mới. Các trung sĩ trung đội phó sẽ phân phát chúng cho những kẻ đang cần nhất.

    Những khi hiếm hoi có 1 đại đội súng trường được trở về Biên Hòa nghỉ ngơi vài ngày thì họ tiệc tùng thâu đêm suốt sáng. Sau khi xong nhiệm vụ, lính dù ùa tới những quán bar, nhà thổ ngay ngoài cổng căn cứ. Với vài giờ ở đó, thì chiến tranh, nỗi gian nan, cực khổ hay cái chết đều có thể quên hết. Rồi sau đó họ sẽ lại quay ra chiến trường để chịu đựng 4, 5 tuần lễ thống khổ nữa.

    Trong khi các “thiên binh” còn đang len lỏi trong rừng rậm của chiến khu C, 1 sự kiện diễn ra xa về phía bắc, ở Bắc Pleiku, cao nguyên trung phần sẽ làm cuộc đời của những lính dù này thay đổi vĩnh viễn. Trận chiến mà họ tham gia là sẽ 1 trận chiến tàn khốc, mãnh liệt với mức độ ít ai ngờ tới.


















    Chương 3
    Bắc Đắk Tô







    Sư đoàn 4 bộ binh tới nam VN tháng 9 năm 1966. Do đã được dự phòng sẽ tham chiến, sư đoàn 4 dành nhiều năm để huấn luyện tác chiến trong những khu rừng thông gần căn cứ của họ tại Fort Lewis, Washington. Quân số của nó đã bị giảm sút nghiêm trọng khi sự dính líu quân sự của Mỹ ngày càng tăng ở nam VN khiến nhu cầu tuyển quân tăng vọt. Tới khi nhận lệnh triển khai, sư đoàn 4 được nhận thêm 8000 lính mới – gồm cả lính tình nguyện lẫn quân dịch. Các tân binh đã được huấn luyện cơ bản và nâng cao tại sư đoàn, việc này đã tạo ra 1 tinh thần đoàn kết, coi nhau như ruột thịt mà hầu hết các sư đoàn khác được điều sang VN ko có.

    Khi tàu cập cảng Nha Trang, lữ đoàn 1, sư đoàn 4 được điều đến Tuy Hòa, của tỉnh Phú Yên, 1 tỉnh ven biển thuộc vùng II chiến thuật. Nó hoạt động trên vùng đồng bằng và các ruộng lúa tại đó tới tháng 2 năm 1967. Lữ đoàn 3 của nó đã được chuyển xuống vùng III chiến thuật bao quanh Sài Gòn để hoạt động cùng sư đoàn 25 bộ binh.

    Khi sư đoàn 25 lần đầu tiên tới nam VN tháng 12 năm 1965, 2 lữ đoàn của nó được bố trí ở Củ Chi, phía tây Sài Gòn, thuộc vùng III chiến thuật. Lữ đoàn 3 của nó thì lên Pleiku, thuộc cao nguyên trung phần và phục vụ cho vùng II chiến thuật. Lữ đoàn 3, sư đoàn 4 được giao cho sư đoàn 25 đơn giản là vì công tác hậu cần dành cho nó sẽ dễ dàng hơn là hoán chuyển cả 2 lữ đoàn. Lữ đoàn 2, sư đoàn 4 sẽ tới Pleiku để chiến đấu cùng lữ đoàn 3, sư đoàn 25 bộ binh.

    Bao gồm các tỉnh Kom Tum, Pleiku và Đắk Lắk, cao nguyên trung phần tọa lạc ngay tại vùng ngã 3 biên giới, giáp với Lào và Campuchia. Với địa hình gồm vô số ngọn núi cao lởm chởm được rừng già 3 tầng rậm rạp bao phủ. Tây Nguyên ko chỉ là điểm kết thúc của tuyến đường xâm nhập chính của Bắc Việt vào miền nam, nổi tiếng với tên gọi là đường mòn Hồ Chí Minh, mà còn cho phép Quân Bắc Việt che giấu những đơn vị lớn tại những khu vực hẻo lánh gần như bất khả xâm phạm. Do đó, nó gây ra nỗi đe dọa nghiêm trọng với sự ổn định của miền nam VN. Nếu bộ đội Bắc Việt kiểm soát được Tây Nguyên, họ có thể đánh xuống phía đông và cắt nam VN ra làm đôi. MACV ko thể để cho điều đó xảy ra.

    Để theo dõi sự xâm nhập của các đơn vị bộ đội Bắc Việt vào Tây Nguyên, MACV đã lập ra 1 chuỗi các trại biệt kích chạy men theo biên giới do những toán nhỏ lính mũ nồi xanh chỉ huy quân CIDG (biệt kích thượng do CIA tuyển mộ và trả lương. ND) quản lý. Đây là việc làm khá hiệu quả, lính biệt kích tuần tiễu trong khu vực, tìm kiếm dấu vết của đối phương. Nếu phát hiện được lực lượng địch, quân CIDG cố hết sức tránh đụng độ mà thay vào đó, gọi máy bay ném bom B-52 hay gọi trực thăng chở các lực lượng phản ứng của Mỹ hoặc VNCH tới giao chiến.

    Những trại biệt kích được lập ra ở những nơi hoang vu hẻo lánh. Chúng phụ thuộc hoàn toàn vào máy bay trực thăng từ việc tiếp tế cho đến viện binh nếu bị tiến công. Trong khi chờ quân tiếp viện, lính mũ nồi xanh và biệt kích Thượng chỉ được yểm trợ bằng súng cối cỡ nhỏ của chính họ. Đã có nhiều lần, các trại đơn độc này bị tràn ngập trước khi viện binh đến kịp.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Để hỗ trợ cho các hoạt động của biệt kích, thoạt đầu MACV đã triển khai lữ đoàn 3, sư đoàn 25 bộ binh tới Pleiku. Ngoài ra sư đoàn 1 kỵ binh bay cùng lữ đoàn 1, sư đoàn dù 101 cũng được điều lên Tây Nguyên càn quét nhằm chống lại những nguy cơ có thể xảy ra.

    Khi lữ đoàn 2, sư đoàn 4 lên Tây Nguyên, nó xây dựng 1 căn cứ nằm cách phía nam Pleiku 18km. Căn cứ này sau đó được đặt tên là căn cứ Enari. Trong tháng đầu tiên đến nơi, lữ đoàn 2, sư đoàn 4 cùng với sự hỗ trợ của lữ đoàn 3, sư đoàn 25 tiến hành 1 chiến dịch dọc theo biên giới Campuchia. Trận càn này không gặp phải trận đụng độ lớn nào với địch.

    Thêm những cuộc hành quân tìm và diệt nữa được thực hiện ở phía bắc Pleiku và phía nam Kom Tum trong thời gian còn lại của năm. Lữ đoàn 2 phải vất vả, gian khổ truy tìm Quân Bắc Việt trên các mỏm núi sắc như dao cạo, hay len lỏi trong những khu rừng mưa đầy rắn rết. Sau hàng loạt những vụ đụng độ ác liệt, lính bộ binh đã hiểu ra rằng họ đang phải đối mặt với 1 đối thủ ghê gớm. Bộ đội Bắc Việt được huấn luyện và trang bị tốt. Họ đã quen với việc đánh nhau liên miên. Bất cứ khi nào xuất hiện mà có thế thượng phong, thì họ đánh ngay. Nếu thấy quân Mỹ có vẻ mạnh hơn dự kiến, Quân Bắc Việt sẽ ngừng giao chiến, biến vào rừng rậm hoặc vượt biên qua các vùng đất thánh ở Campuchia hoặc Lào.

    Tháng 1 năm 1967, thiếu tướng William R. (“Ray”) Peers lên nắm quyền chỉ huy sư đoàn 4 bộ binh. Với những kinh nghiệm chống quân Nhật ở Miến Điện trong chiến tranh TG 2, Peers nhanh chóng nhận ra sư đoàn của mình đang phải đối mặt với 1 cuộc chiến trong rừng rậm khó khăn hơn bình thường. Vì thấy ông bắt đầu vạch ra kế hoạch đối phó với sự thách thức của Quân Bắc Việt. Ông cho các tiểu đoàn cơ động ra vùng biên giới tuần tiễu và xông xáo giao chiến với bộ đội Bắc Việt chứ ko chờ họ tấn công nữa. Ông nhấn mạnh là mỗi tiểu đoàn lúc nào cũng phải có ít nhất là 2 trong 3 đại đội súng trường đi hành quân dã ngoại. Ông cũng cho tổ chức những chuyến viễn thám, thường là các toán từ 4 đến 6 người, bí mật luồn rừng để tìm kiếm kẻ thù. Khi các toán viễn thám (LRRP) phát hiện đơn vị địch, họ sẽ gọi không kích, pháo kích hay bộ binh đến đánh.

    Ông cũng chỉ đạo cho các đơn vị cách để khỏi bị đánh bất ngờ và bị tràn ngập. Nguyên tắc chính của Peers với các đại đội súng trường đang đóng dã ngoại là họ ko nên tuần tiễu cách các đơn vị khác quá 1km hay hơn 1 giờ đồng hồ hành quân để trong trường hợp xảy ra đụng độ thì viện binh sẽ tới nhanh chóng. Peers tin mục tiêu của quân Quân Bắc Việt là: “Tìm những đơn vị đi lẻ, cố gắng cô lập nó và tiêu diệt. Do đó luôn phải có đơn vị khác gần đó để có thể nhảy vào can thiệp ngay.” Tính toán của Peers là rất thận trọng, nhưng quân Bắc Việt lắm mưu nhiều kế vẫn thỉnh thoảng chia cắt được và tiêu diệt các đơn vị quân Mỹ.

    Đầu tháng 2, khi lữ đoàn 1 từ Tuy Hòa về gia nhập với sư đoàn, nó đã cùng lữ đoàn 3, sư 25 đã tiến hành 1 loạt các cuộc hành quân tìm diệt qui mô hùng hậu. Sư đoàn 4 tổ chức chiến dịch Sam Houston đánh vào phía tây nam Kontum. Đến giữa tháng 2 thì sư đoàn đã đụng độ lớn với Quân Bắc Việt ko dưới 10 lần. Sang tháng 3 thì Quân Bắc Việt đã ko chịu nổi nữa và phải rút sang Campuchia để “băng bó các thương tích”. Chiến dịch Sam Houston kết thúc tháng 4 năm 1967. Sư đoàn 4 tuyên bố số quân bị giết của địch là 733 so với 169 bên phía Mỹ.

    Sư đoàn 4 về lại căn cứ Enari để thiết lập ra 1 hàng rào ngăn chặn trước khi mùa mưa đến. Lữ đoàn 1 thiết lập căn cứ ở Le Thanh (?), phía bắc Đức Cơ, nằm dọc theo đường 19, cạnh 1 trại biệt kích. Từ căn cứ được đặt tên là Jackson Hole này, lữ đoàn lại lập ra 1 chuỗi các trại nhỏ từ trại biệt kích Plei Djereng, nằm chắn ngang đường 509, phía bắc đường 19, tới tận thung lũng Ia Drăng ở phía nam đường. Từ những vị trí đó, lữ đoàn có thể kiểm soát tuyến đường xâm nhập mọi khi của bộ đội Bắc Việt là men theo đường 19 và thung lũng Ia Drăng.

    Nằm phía đông của lữ đoàn – nơi đường 14B nối với đường 509 và đường 19 - là nơi đặt căn cứ của lữ đoàn 2, ở Thanh An (Oasis). Từ đây lữ đoàn 2 có thể tổ chức các cuộc hành quân tìm và diệt phía sau hàng rào chốt chặn, kiểm soát phần trên của thung lũng Ia Drăng và hỗ trợ lữ đoàn 1. Peers ra lệnh tiến hành chiến dịch mới là chiến dịch Francis Marion.

    Trong khi lữ đoàn 1 và 2 đã vào chiếm lĩnh vị trí thì thành tố thứ 3 trong đội hình sư đoàn lại chuyển đi. Ngày 12 tháng 4 năm 1967, lữ đoàn 3, sư đoàn 25 bộ binh rời khỏi Tây Nguyên. Nó đi lên phía Bắc tới các tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín thuộc vùng I chiến thuật. Nó hợp cùng lữ đoàn 1, sư đoàn dù 101 và lữ đoàn bộ binh 196 tạo thành lực lượng đặc nhiệm Oregon. Dưới sự chỉ huy của thiếu tướng William B. Rosson, lực lượng đặc nhiệm này được tổ chức như 1 sư đoàn lâm thời giúp tạo điều kiện cho 2 sư đoàn TQLC trong vùng I dịch lên phía Bắc đến gần khu phi quân sự để chống lại áp lực của Quân Bắc Việt.

    Với 2 lữ đoàn trong tay, ngày 6 tháng 4 năm 1967, Peers tiến hành chiến dịch Francis Marion. Các đại đội súng trường tỏa ra các vùng đất thù địch để tìm kiếm Quân Bắc Việt. Trong 2 tuần đầu, lính bộ binh chỉ đụng độ lác đác với các đơn vị nhỏ bộ đội Bắc Việt, dù phát hiện được khá nhiều dấu vết của đối phương. Đặc biệt các toán Viễn thám của sư đoàn đã khám phá những khu tập trung nhỏ của Quân Bắc Việt và có thể đó là những đơn vị đi trước của những lực lượng lớn hơn. Tình báo xác định bộ đội Bắc Việt đã xâm nhập vào thung lũng Ia Drăng trước khi hàng rào chốt chặn được lập, ém quân ở đó và đang chuẩn bị tiến đánh 2 trại biệt kích Đức Cơ và Plei Djereng.
  3. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Trong 1 tiểu đoàn ngoài các đại đội súng trường là thành phần chính thường có các đơn vị khác như chỉ huy, hỏa lực (pháo, cối), thông tin... cỡ đại đội hoặc trung đội.
    ngthi96UnitedKondoms thích bài này.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Các đại đội súng trường của sư đoàn 4 bắt đầu đụng nặng với các lực lượng lớn Quân Bắc Việt những ngày cuối tháng 4. Ngày 30 tháng 4, đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, trung đoàn 8 bộ binh đã chiến đấu ác liệt với Quân Bắc Việt chỉ cách Oasis vài cây số về phía đông nam. Hôm sau, trong khi đuổi theo Quân Bắc Việt, họ tình cờ bắt gặp 1 nơi đóng quân lớn của địch. Cũng trong ngày 1 tháng 5, đại đội Alpha, tiểu đoàn 3, trung đoàn 12 của lữ đoàn 1 đã bị 1 đại đội Quân Bắc Việt tập kích trong khi đi tuần tiễu ở dãy núi Chu Goungot (?), phía tây đường 14B và phía bắc Đức Cơ.

    Do có cuộc đụng độ này mà tiểu đoàn 1, trung đoàn 8, lữ đoàn 1 phải thiết lập 1 căn cứ pháo binh nằm ở tây Đức Cơ, phía bắc đường 19. Dựa trên tin báo của các toán Viễn thám, các oanh tạc cơ B-52 đã tiến hành ném bom với hy vọng diệt được Quân Bắc Việt đang trong vùng giữa dãy Chu Goungot với biên giới Campuchia. Các đại đội của tiểu đoàn 1/8 bắt đầu hành quân lên phía Tây Bắc để đánh giá hiệu quả của trận ném bom.

    Ngày 18 tháng 5, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1/8 lọt vào 1 ổ phục kích của bộ đội Bắc Việt. Bắt đầu từ 12g30 và kéo dài suốt 7 tiếng đồng hồ, đại đội này đã phải liều mình chiến đấu mong giữ lấy mạng. Một trung đội của họ đã bị cắt rời và nhanh chóng bị Quân Bắc Việt vây bọc. Đến 15g00 thì đã có tới 21 thành viên trong tổng số 29 lính của trung đội này tử trận. Nhiều người đã bị bắn chêt sau khi Quân Bắc Việt làm chủ bãi chiến trường. Chỉ có 1 thành viên của trung đội còn sống mà chưa bị thương. Tới tận ngày hôm sau viện binh của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1/8 mới đánh mở đường tới được chỗ đại đội Bravo.

    Đêm hôm sau nữa, 20 tháng 5, cả 3 đại đội của tiểu đoàn 1/8 đóng quân lại nghỉ đêm cách chỗ đại đội Bravo đụng trận chừng 1km về phía Tây Bắc. Vào lúc 21g19, bộ đội Bắc Việt đã tấn công dữ dội tiểu đoàn với sự yểm trợ của súng cối và súng máy. 3 cuộc tấn công riêng lẻ đã bị đẩy lùi suốt đêm dài trước khi Quân Bắc Việt rút lui. Địch để lại 37 xác trên sườn cao điểm trong rừng. Tiểu đoàn 1/8 có 16 lính chết, 66 bị thương.

    Tiểu đoàn 3, trung đoàn 12 được gửi tới tiếp viện cho tiểu đoàn 1/18 cũng bị tấn công khi vừa ra khỏi chỗ trú quân sáng ngày 22 tháng 5. Giao tranh diễn ra trong 4 giờ, bộ đội Bắc Việt chỉ rút đi sau khi bị phi, pháo đánh quá mạnh. Cái giá phải trả của sư đoàn 4 là 10 chết và 70 lính bị thương. Kết quả đếm xác cho biết số Quân Bắc Việt chết là 61.

    Trong 2 tháng đầu tiên của chiến dịch Francis Marion, sư đoàn 4 bộ binh đã phải nếm đòn đau. Sư đoàn phải gánh chịu hơn 300 thương vong, trong số đó có 60 chết trận. Nhằm ngăn ko cho quân đối phương thọc qua khu vực của mình trong chiến dịch, Peers đã phải cho cả 2 lữ đoàn của mình lên vùng lân cận dãy núi Chu Goungot. Hậu quả là sườn phía nam của ông yếu đi. Nếu lữ đoàn thứ 3 của sư đoàn ko tới che chắn cho khu vực đó thì sư đoàn 4 sẽ rất dễ lâm nguy. Peers đã phải khẩn khoản yêu cầu cấp trên giúp đỡ.

    Tư lệnh Lực lượng Dã chiến I, trung tướng Stanley R. Larsen (“người Thụy Điển”), đóng trụ sở tại Nha Trang. Tướng Larsen là 1 cựu binh thời chiến tranh TG 2. Ông thăng tiến từ chỉ huy trung đội đến trung đoàn trưởng trong thời gian chiến đấu với quân Nhật trên 1 loạt những hòn đảo với rừng rậm bao phủ trên Thái Bình Dương. Kết quả, ông trở thành người am hiểu về cách thức tiến hành chiến tranh độc đáo ở Tây Nguyên hơn hẳn các chỉ huy cao cấp khác ở miền nam VN. Ông biết sư đoàn của Peers, tuy chưa nguy ngập nhưng đang phải chịu áp lực rất lớn. Peers đang rất cần lữ đoàn thứ 3.

    Hoạt động ở tỉnh duyên hải Bình Định, nằm ngay phía đông Pleiku, là sư đoàn 1 kỵ binh bay. Larsen muốn đưa 1 lữ đoàn kỵ binh bay tới Pleiku. Ngày 21 tháng 5, ông ta gọi cho tướng Westmoreland ở Sài Gòn thông báo tình hình. “phải chuyển 1 lữ đoàn nữa lên Tây Nguyên.” Larsen nhấn mạnh. “Tôi sẽ cho 1 lữ kỵ binh bay lên đó.”

    Westmoreland trả lời: “Không. Đừng làm vậy. Cứ trông chừng đó. Chúng ta hãy chờ xem có gì xảy ra đã.”

    4 ngày sau, khi mà sư đoàn 4 lại nếm đòn đau nữa, Larsen lại gọi cho Westmoreland, lần này ông nói: “Tôi ko còn lựa chọn nào nữa. Phải cứu Ray thôi. Tôi sẽ gửi cho anh ta 1 lữ kỵ binh bay”

    “Không.” Westmoreland nói. “Tối ko muốn xé lẻ Kỵ binh bay ở Bình Định. Tôi sẽ chuyển cho Ray thằng 173.”

    Tướng Larsen chẳng hào hứng lắm về việc chuyển giao tới vùng của mình lữ đoàn dù 173. Hiểu biết của ông về những “thiên binh” là trong những tháng vừa qua họ hơi thụ động, chỉ mới giao chiến với 1 vài toán VC nhỏ. Ông ta muốn 1 đơn vị có nhiều kinh nghiệm chống lại Quân Bắc Việt chứ ko phải là 173.

    Tướng Larsen đã chính xác khi đánh giá khả năng chiến đấu và sự linh hoạt của lữ đoàn 173. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 5 năm 1967, tướng Deane, người từng là tham mưu trưởng của Larsen suốt 5 tháng đầu năm 1966, đã đưa lữ đoàn tiến vào tỉnh Long Khánh nằm phía đông Biên Hòa, trong chiến dịch Fort Wayne. Họ chỉ đụng độ nhẹ với quân địch nên thương vong cũng ở mức tối thiểu.

    Sau khi về lại Biên Hòa ngày 4 tháng 5. Deane được lệnh cho lữ đoàn tiến vào tỉnh Phước Tuy, phía nam Long Khánh để truy tìm các trung đoàn chủ lực 274 và 275 VC. Chiều ngày 5 tháng 5, Deane triển khai tiểu đoàn 1 và 2, trung đoàn 503 tới Phước Tuy. Trong 12 ngày sau đó, lữ đoàn thường chỉ có đụng độ lẻ tẻ với đối phương. Giao tranh chủ yếu là những trận đụng độ khi các toán nhỏ VC tìm cách quấy rối quân dù. Ko xảy ra đánh lớn, mặc dù các “thiên binh” tìm thấy 1 số lớn nơi đóng quân và hầm bỏ không rải rác trong khu vực hành quân. Ngày 17 tháng 5 thì chiến dịch kết thúc và lữ đoàn lại quay về Biên Hòa.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Trong sách sẽ có đề cập đến cách thức 'đếm xác' của Mỹ...qua đó ta thấy con số này nó 'chính xác' như thế nào....các bác cứ yên tâm, ko cần để ý tới số liệu kiểu này lắm đâu ạ...
    Lần cập nhật cuối: 28/04/2014
    usadok, uman, halosun1 người khác thích bài này.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Lữ đoàn 173 khi về căn cứ chính bắt đầu tổ chức các cuộc tuần tiễu thường xuyên quanh sân bay để ngăn chặn các cuộc pháo kích bằng súng cối và rocket hay những trận đột kích của VC. Chiều ngày 23 tháng 5, tướng Deane được triệu tập về bộ tư lệnh Lực lượng Dã chiến II tại Biên Hòa. Trung tướng Jonathan O. Seaman đã nói với Deane về việc lữ đoàn của ông được điều lên phía Bắc. Sư đoàn 4 bộ binh sẽ nắm quyền điều động lữ 173. Deane nằm dưới quyền tướng Peers và sẽ thiết lập 1 căn cứ ở phía nam Pleiku và làm lực lượng trừ bị cho Peers. Họ có thể sẽ ở trên đó 3 tháng. Deane vội vã về ngay bộ chỉ huy sau cuộc họp.

    Deane hối hả làm việc với S-3 (trưởng phòng hành quân) là thiếu tá James R. Steverson để lập kế hoạch hành động. Một toán tiền trạm do Steverson chỉ huy sẽ lên Pleiku lúc 5g00 sáng ngày hôm sau. Đến trưa thì lữ đoàn sẽ được không vận lên phía Bắc. Deane triệu tập các tiểu đoàn trưởng, chỉ đạo họ việc chuyển quân và ban hành 1 loạt mệnh lệnh. Các tiểu đoàn trưởng lắng nghe rồi nhanh chóng triển khai công việc xuống các đại đội.

    Lính tráng vội vã gói ghém ba lô, lau chùi vũ khí, nạp đạn vào các băng đạn. Một “thiên binh” tiêu biểu khi đi trận thồ sau lưng rất nhiều thứ. Hầu hết họ phải mang theo từ 1000 đến 1200 viên đạn M16 chứa trong các băng đạn hay trong các kẹp. Dù 1 băng đạn M16 có thể chứa 20 viên, phần lớn binh sĩ đều chỉ nạp chừng 17,18 viên vào đó. Nạp nhiều hơn có thể làm cho băng đạn hỏng lò xo và gây kẹt đạn.

    Đeo khắp nơi trong dây ba chạc, thắt lưng, túi vải là 12 đến 15 trái lựu đạn mảnh và từ 2 đến 4 lựu đạn khói. Mỗi người lính cũng vác theo 2 trái mìn chống người Claymore nữa. Vắt chéo trước ngực là những dây đạn với từ 100 đến 200 viên cho khẩu trung liên M60 của tiểu đội. Tất cả lính tráng được yêu cầu phải mang theo ít nhất là 1 trái đạn cối cho mấy khẩu cối của đại đội. Một cái xẻng to để đào công sự được các thành viên trong tiểu đội thay nhau mang hàng ngày. Đôi khi họ còn phải mang theo máy cưa để đốn cây làm bãi đáp cho trực thăng nữa.

    Ngoài ra, lính lác còn phải thu xếp chỗ để nhét đồ trang bị cá nhân. Ngoài thư từ, giấy bút, máy ảnh, sách vở, đài xách tay, đồ đạc linh tinh, các bi đông nước, đồ ăn họ còn mang theo đồ vệ sinh cá nhân nữa. Dù đang hành quân quân dã ngoại, lữ đoàn 173 vẫn duy trì tiêu chuẩn sạch sẽ khá cao. Anh lính nào dù ở căn cứ hay đi trận, đều phải cạo râu hàng ngày.

    Tùy vào số lượng trang bị mà mỗi người lính phải mang theo từ 75 đến 90kg. Hầu hết chúng được thồ trong ba lô trên lưng. Không có gì ngạc nhiên khi cái biệt danh “grunts” của họ bắt nguồn từ những lời càm ràm khi họ khoác cái ba lô nặng trịch lên lưng.

    Sau 1 đêm cuống quýt lo đóng gói trang thiết bị, sáng sớm ngày 24 tháng 5 năm 1967, lính tráng lữ đoàn 173 tiến ra đường băng sân bay Biên Hòa. Theo đúng tinh thần “Vội và chờ” của các tổ chức quân sự, chiếc C-130 lèn chặt lính dù đầu tiên tới tận mãi chiều mới cất cánh. Suốt 3 ngày sau đó, không quân đã bay 208 lượt C-130, vận chuyển 2239 lính và 2700 tấn trang thiết bị tới Pleiku. Vì mọi người dự kiến sẽ trở về Biên Hòa sau 90 ngày, nên lữ đoàn để lại căn cứ của nó các lính văn phòng và những người phục vụ hậu tuyến. Họ ko thể biết rằng lữ đoàn sẽ ko bao giờ về lại phương nam nữa.

    Khi lính dù biết mình được gửi đi để cứu giúp sư đoàn 4, họ lên mặt kênh kiệu ngay, hầu hết đều tỏ thái độ chế nhạo những tay lính “chân đất”, éo phải lính dù. Lữ 173 có nhuệ khí rất cao. Toàn bộ quân của nó đều là lính tình nguyện gia nhập lực lượng nhảy dù và hầu hết đều xung phong sang VN. Nhiều lính dù cứ mường tượng rằng họ chỉ việc lên phía Bắc, ‘đá đít’ Quân Bắc Việt xong, rồi lại trở về Biên Hòa. Họ sẽ cho sư đoàn 4 xem thế nào là chiến đấu.

    Thấy được thái độ ấy, đại tá James B. Adamson, chỉ huy lữ đoàn 2, sư đoàn 4 dành ra nhiều thời gian để giải thích về chiến trường Tây Nguyên cho tướng Deane cùng ban tham mưu. Ông ta nói: “Đây sẽ là 1 cuộc chiến khác hẳn những thứ các anh đã từng làm ở miền nam. Thứ nhất các anh phải nhận ra rằng ở trên cao nguyên này, các anh sẽ chiến đấu với Quân Bắc Việt chứ ko phải VC. Chúng là những tay rất thiện chiến. Thứ nhì, ko được để các đại đội ra ngoài 1 mình, vì đó là mục tiêu Quân Bắc Việt thường chọn. Chúng sẽ ‘giũ sổ’ họ ngay.”

    Dù đã khuyên nhủ, Adamson vẫn thấy lữ đoàn 173 giữ nguyên thái độ kẻ cả của họ.

    Thái độ tương tự cũng đầu độc thiếu tá Steverson, sĩ quan hành quân lữ đoàn 173 (S-3). Khi toán của ông này lên Pleiku trước đó, Steverson đã gặp trưởng phòng hành quân (G-3) của sư 4 là trung tá James R. Lay. Cuộc họp về cơ bản là để trung tá Lay nói với thiếu tá Steverson là ông muốn giúp cho lính dù chở nên quen với hình thái chiến tranh trên Tây Nguyên và học hỏi cách sư đoàn 4 chiến đấu trong rừng rậm.

    Steverson từ chối những lời khuyên đó. Ông ta nhắc cho Lay biết lữ 173 là đơn vị chiến đấu trên bộ đầu tiên của lục quân đến nam VN và đã chiến đấu 2 năm với kẻ thù rồi. Theo như cách đề cập của Steverson và hầu hết ban chỉ huy của lữ đoàn thì sư đoàn 4 chẳng có gì để có thể dạy về cách chiến đấu ở nam VN cho lữ 173 hết.

    Steverson đã bị hào quang của những kỳ tích mà lữ đoàn 173 đạt được trong chiến tarnh lừa phỉnh. Nó đã chiến đấu hết trận này với trận khác với quân thù và liên tục giành chiến thắng. Nhưng có 1 lỗ hổng chết người trong cái thứ logic của Steverson. Hầu hết những trận đánh của lữ đoàn là diễn ra với quân du kích VC. Rất ít “thiên binh” của lữ 173 có kinh nghiệm giao chiến với bộ đội Bắc Việt vào mùa xuân năm 1967.
    DepTraiDeu, anhcos, usadok9 người khác thích bài này.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Lữ đoàn 173 thiết lập căn cứ tại Catecka, cách Pleiku 12km về phía nam. Những người từng ở đó đều nhớ Catecka là 1 biển bùn lầy đỏ quạch ngập ngụa mỗi khi có mưa lớn trong mùa mưa. Từ ngày ngày 27 đến 30 tháng 5, lữ đoàn tiến hành mở mang, cải tạo căn cứ và mạng lưới đường xá trong khu vực. Công việc này trở nên cự kỳ gian nan bởi bùn lầy và điều kiện thời tiết khổ ải.

    Bắt đầu từ ngày 1 tháng 6, tướng Deane cho triển khai quân mình tới phía nam và tây nam Catecka, nằm về phía trên thung lũng Ia Drăng. Deane cho cảc 2 tiểu đoàn 1 và 2 trung đoàn 503 đi hành quân, giữ tiểu đoàn 4/503 ở lại Catecka để bảo vệ căn cứ và làm lực lượng ứng cứu. Các đại đội dã ngoại chỉ gặp rất ít dấu hiệu của đối phương trong vùng hành quân. Tướng Deane giành phần lớn thời gian ngồi trong trực thăng chỉ huy bay trên vùng hành quân tuy cũng có bị cản trở vì sương mù dày đặc buổi sáng và trần mây thấp buổi chiều. Ông nhìn thấy rất nhiều các vị trí cũ của sư đoàn 1 kỵ binh bay và lữ dù của sư 101 trong những cuộc hành quân mấy năm về trước, nhưng ko hề thấy dấu vết bộ đội Bắc Việt.

    Trong khi lữ 173 âm thầm tìm kiếm Quân Bắc Việt trên những cao điểm ẩm ướt phía Tây Nam tỉnh Pleiku, thì ở tỉnh láng giềng Kon Tum ở phía bắc đã xẩy ra sự kiện có ảnh hưởng ‘chết người’ đối với các “Thiên binh”.

    Đêm 15 và 16 tháng 6 năm 1967. Một toán quân 10 người gồm 2 lính Mỹ và 8 biệt kích CIDG của trại biệt kích Đắk Tô đã bị trung đoàn 24 Bắc Việt “hốt ổ” cách trại 1400m về phía tây nam. Sáng sớm ngày 17 tháng 6, trại Đắk Tô bị súng cối hạng nặng pháo kích. Cùng lúc đó, sở chỉ huy của trung đoàn 42 VNCH tại Tân Cảnh, phía đông ĐắK TÔ cũng bị trúng đạn cối và hỏa tiễn 122mm.

    Khi thấy rõ là Quân Bắc Việt đang chuẩn bị đánh lớn vào trại ĐắK Tô, chỉ huy trại đã yêu cầu được bảo vệ. Tướng Larsen biết rằng lữ 173 chưa phải đụng độ gì trong khi diễn ra chiến dịch Francis Marion, nên đã lệnh cho tướng Peers đưa 2 tiểu đoàn của 173 lên làm nhiệm vụ tại ĐắK Tô.

    Tướng Deane lệnh cho lữ đoàn phó là đại tá Claude M. McQuarrie mang tiểu đoàn 1 và 2 trung đoàn503; pháo đội (đại đội pháo binh.ND) Bravo, tiểu đoàn 3, trung đoàn 319 và các đơn vị trợ chiến khác lên ĐắK TÔ, cách 80 km về phía Bắc. Cuộc hành quân này được đặt tên là Greeley.

    Chiến đoàn đặc nhiệm McQuarrie lên đường vào sáng sớm ngày 17 tháng 6. Tiểu đoàn 2/503 dưới quyền viên trung tá 37 tuổi Edward A. Partain lên máy bay C-130 bay tới ĐắK Tô đầu tiên. Trung tá Partain quê vùng Arkansas, tốt nghiệp West Point năm 1951. Ông đã ở Triều Tiên 1 năm trong cương vị trung đội trưởng và đại đội trưởng đại đội súng trường, sư đoàn 25 bộ binh. Ông học ở trường nhảy dù năm 1953, khi tốt nghiệp thì được bổ nhiệm sang Liên đoàn 7 biệt kích đóng ở Đức.

    Vì phục vụ tại đó, năm 1964 Partain lên đường sang nam VN làm trưởng ban nhảy dù trong Đoàn nghiên cứu và quan sát (SOG) của MACV. Khi kết thúc 1 năm kỳ hạn, ông về học đại học Tham mưu quân lực (Armed Forces Staff College) và về phục vụ ở Lầu 5 góc trước khi quay trở lại nam VN tháng 3 năm 1967. Khi đến nơi, ông nắm quyền chỉ huy tiểu đoàn 2/503.

    Trong khi các đại đội súng trường đang được không vận, viên sĩ quan hành quân (S-3) rất có năng lực của Partain là đại úy Kenneth Smith đã tổ chức và dẫn đầu đoàn xe tải chở trang bị nặng của lữ đoàn lên ĐắK Tô. Quê tại Des Moines, Iowa, 26 tuổi, trước là học sinh trường dòng. Smith tốt nghiệp hạng ưu khóa sĩ quan dự bị ROTC của đại học Creighton. Anh phục vụ trong tiểu đoàn 2/503 từ tháng 3 nắm 1967, lúc đầu làm trợ lý cho sĩ quan tình báo tiểu đoàn (S-2), sau đó đến tháng 4 thì lên làm S-3.

    Đoàn xe 50 chiếc rời Catecka giữa buổi sáng ngày 17 tháng 6. Nó len lỏi trên con đường 14 qua Pleiku, Kon Tum rồi tới ĐắK Tô lúc 17g00. Mọi người thiết lập 1 sở chỉ huy ngay phía nam sân bay Đắk Tô.

    Ngày 18 tháng 6, tiểu đoàn 1/503 cùng cơ quan chỉ huy của đại tá McQuarrie cũng đã tới Đắk Tô. Họ lập bộ chỉ huy ngay cạnh sở chỉ huy của trung tá Partain. Cùng ngày hôm đó, tiểu đoàn 2/503 đưa các đại đội của nó xuống phía nam Đắk Tô. Mục tiêu của họ là cao điểm 1338, khống chế vùng phía nam căn cứ. Việc Mỹ kiểm soát điểm cao này sẽ khiến quân Bắc Việt ko thể lập đài quan sát ở đây để hiệu chỉnh hỏa lực pháo kích vào Đắk Tô.

    Đại đội Charlie, tiểu đoàn 1/503, nhận nhiệm vụ tìm kiếm những biệt kích bị mất tích gặp nạn hôm 15-16/6. Họ khám phá 1 việc kinh hoàng. Tất cả đều chết rất thảm khốc.

    Đại úy Joseph X. Grosso, bác sĩ phẫu thuật tiểu đoàn, phải làm cái nhiệm vụ ko dễ chịu gì, đó là nhận diện thi hài lính Mỹ. 27 tuổi, người Philadelphia từng là bác sĩ thực tập nội trú của trường y Jefferson, đã tình nguyện nhập ngũ vì ko đủ điều kiện hoãn quân dịch. Anh tình nguyện học nhảy dù khi biết các sĩ quan sẽ kiếm thêm được 110 đô la 1 tháng cho việc “nhảy ra khỏi máy bay”. Anh ta đang mắc nợ ngập đầu và việc có thêm 100 đô la mỗi cuối tháng là điều ngoài sức tưởng tượng.

    Đại úy Grosso đến nam VN tháng 4 năm 1967 và gia nhập lữ đoàn 173. Từ khi đó anh đã phải chứng kiến nhiều cái chết. Nhưng anh vẫn sốc khi nhìn thấy xác ko toàn thây của 2 lính mũ nồi xanh.
    DepTraiDeu, usadok, tekute19766 người khác thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Trong khi đại úy Grosso đang thực hiện việc khám nghiệm, thì lính đại đội Alpha, tiểu đoàn 2/503 lại rất ngạc nhiên khi biết ở vùng Đắk Tô này có lính Bắc Việt. Ngày 18 tháng 6, đại đội được trực thăng đổ xuống 1 bãi đáp ở phía bắc cao điểm 1338. Suốt 2 ngày kế đó, họ phải vất vả leo qua sườn bắc của ngọn cao điểm to lớn này để tìm bộ đội Bắc Việt. Họ tìm thấy 1 lối mòn còn mới trên sườn cao điểm và đã tổ chức mai phục men theo nó, nhưng chẳng thấy có lính Bắc Việt nào qua lại cả.

    Ngày 20 tháng 6, đại đội Charlie, tiểu đoàn 2/503 tiến lên cao điểm 1338. Họ vượt qua chỗ đại đội Alpha, trực chỉ phía nam leo lên cao điểm.

    Sau khi thiết lập vị trí phòng thủ để nghỉ đêm 21 tháng 6 ở lưng chừng cao điểm 1338, cách Đắk Tô 5500m về phía nam. Đại úy David H. Milton cùng lính đại đội Alpha, tiểu đoàn 2/503, đốn cây tạo 1 bãi đáp cho trực thăng đến tiếp tế. Milton 28 tuổi và đã có hơn 11 năm trong quân ngũ. Sinh ra tại Boston nhưng lớn lên ở Dallas, sau khi qua sinh nhật 17 được 2 tháng, anh bỏ học và nhập ngũ. Anh làm lính cho đến năm 1964, khi được cử đi học ở trường đào tạo sĩ quan (OCS). Tháng 12 năm 1964 anh được phong làm sĩ quan. Là thành viên của sư đoàn 82 dù, mùa xuân năm 1966, Milton đã được thử lửa trong cuộc cách mạng ở nước CH Dominican. Anh đã được thưởng huân chương sao bạc vì thành tích dũng cảm khi chiến đấu trong chiến dịch đó.

    Tháng 3 năm 1967, Milton đến nam VN và gia nhập đại đội Alpha. Lúc đầu Milton chỉ huy trung đội, sau đó lên nắm quyền chỉ huy Alpha khi đại đội trưởng của nó bị thương nặng và phải sơ tán trong tháng 5. Ít lâu sau Milton được thăng lên đại úy.

    Đại úy Milton ko gây được sự tin tưởng cho binh sĩ như người tiền nhiệm là đại úy Kerns. Kerns là người có sức lôi cuốn, xuề xòa với lính tráng, luôn tìm mọi cách để bảo vệ họ. Một số trong đám lính lác coi Milton là 1 người lừng khừng, thiếu quyết đoán. Có vẻ như anh thiếu tự tin vào chính mình. Vài người nghĩ anh ko xuề xòa là vì muốn giữ khoảng cách sĩ quan nhưng vì còn có các hạ sĩ quan đó nên họ vẫn sẽ làm theo những gì anh bảo.

    Vào khoảng 17g00, Milton nhận được cuộc gọi điện đài của đại úy Ken Smith. Ngày mai, Milton phải cùng đại đội về lại Đắk Tô, lộ trình phải lên sao cho có thể đến nơi ko muộn hơn 15g00. Sau khi về lại Đắk Tô, Alpha sẽ tiếp quản vị trí của đại đội Bravo, tiểu đoàn 2/503 với vai trò bảo vệ tiểu đoàn bộ. Lính dù gọi đó là “canh gác cung điện”. Binh sĩ đều khoái sự thay đổi này sau khi trải qua 4 ngày giữa núi rừng Đắk Tô. Ở đó hầu như ngày nào cũng có mưa, biến thảm rừng thành 1 bãi lầy lội. Các bụi tre nứa dày đặc cùng cây cối cao chót vót hơn 200m. Thời tiết u ám cộng với những tán lá dày đặc tạo nên bóng tối âm u khiến trong rừng lúc nào cũng tranh tối tranh sáng. Những bụi cây rậm rạp khiến cho tầm nhìn dưới mặt đất giảm xuống chỉ còn 10, 15 m. Đúng là những khu rừng ma quái và đám lính rất khoái nếu được rời khỏi đó.

    Ngay sau khi Smith gọi đến, trực thăng tiếp tế ban đêm đáp xuống bãi đáp. Ngoài những hàng hóa thường xuyên như đồ ăn, thư từ hay 1, 2 anh lính vừa đi R&R về (nghỉ xả hơi), chiếc Huey còn chở theo 2 phuy chứa 200 lít tinh thể khí độc CS. Khi dọn dẹp nơi đóng quân và bãi đáp vào sáng hôm sau, đại đội Alpha sẽ đổ CS xuống đất để quân Bắc Việt ko thể sử dụng được vùng đất đó nữa.

    Trong đêm 21 tháng 6, Milton phải giải quyết thêm 1 việc nữa. Số là một trong những cha tuyên úy của lữ đoàn là thiếu tá Charles J. Watters, người đã hành quân dã ngoại cùng đại đội Alpha 4 ngày trước, và Milton ko muốn vị linh mục 40 tuổi lại phải vất vả lội bộ 5km trở lại Đắk Tô.

    Anh đề xuất cho cha Watters lên chiếc trực thăng bay về.

    Nếu có người được toàn thể lữ đoàn 173 yêu mến thì đó chính là tuyên úy Watters. Là người quê New Jersey, ông tốt nghiệp chủng viện Immaculate Conception, New Jersey, tuyên úy Watters được thụ phong năm 1953 và trở thành cha xứ. Là týp người ưa mạo hiểm, Watters tham gia học lái máy bay cuối những năm 50 và có cả 2 chứng chỉ phi công thương mại và instrument rating (bay bằng phi cụ). Vẫn khao khát được phiêu lưu, năm 1962, ông gia nhập lực lượng không quân dự bị tại căn cứ Không quân McGuire. Ông có 4 năm làm tuyên úy dự bị và tới khi chiến tranh VN tăng nhiệt, ông quyết định góp phần mình vào cuộc chiến. tháng 8 năm 1965, ông thuyên chuyển sang Lục quân, đi làm nhiệm vụ, hoàn tất khóa học nhảy dù, và gia nhập lữ đoàn 173 ở nam VN tháng 6 năm 1966.

    Cha Watters nhanh chóng nổi danh trong đám lính dù trẻ tuổi như là 1 tuyên úy chiến trường. Ông cảm thấy niềm vui khi ở cùng lính chiến. Đó là nơi ông đi đến. Ông đi với binh lính bất cứ khi nào có thể, đồng cam cộng khổ với bọn họ. Ông ko chỉ chăm sóc về nhu cầu tâm linh mà còn mà còn lắng nghe, giúp đỡ họ trong những vấn đề cá nhân cũng như chỉ bảo, dìu dắt họ.

    Cha Watters đã nhảy dù trong chiến dịch Junction City, là 1 trong số 3 tuyên úy làm được như vậy. Vào tháng 6 năm 1967, khi kỳ hạn phục vụ 1 năm ở nam VN kết thúc, ông xin thêm 1 kỳ hạn nữa. Ông cảm thấy, “các con” đang cần mình, và ông sẽ ko để họ thất vọng.

    Dù đã giành rất nhiều thời gian trên chiến trường bất cứ khi nào có thể, cha Watters đã nói với phóng viên trong 1 cuộc phỏng vấn hồi tháng 5 năm 1967 rằng ông ko khi nào mang theo súng. Ông nói đùa: “Tôi là người yêu hòa bình. Và nếu chúng bắn tôi thì tôi sẽ dùng máy ảnh ‘bắn’ lại và hét lên: ‘Khách du lịch đây !’. Nói nghiêm túc ra thì súng quá nặng và trên tất thảy, việc của 1 linh mục là chăm lo cho “các con”. Nếu như bị tràn ngập, tôi nghĩ ở xung quanh sẽ có rất nhiều súng đang chờ để được nhặt lên.”
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Khi cha Watters nghe đại úy Milton đề nghị việc về Đắk Tô bằng chuyến trực thăng đêm, ông đã đồng ý vì nếu bay về ban đêm thì ông có thể hành lễ cho những tín đồ công giáo của đại đội Bravo trước khi họ ra đi. Ông thu gom đồ lễ và đồ dùng cá nhân, chúc lính tráng của Alpha gặp may mắn trong ngày mai rồi leo lên trực thăng.

    Sau khi chiếc Huey đi khuất, Milton đi vòng quanh chu vi phòng thủ đại đội. Trong 3 trung đội trưởng của anh, thì có 2 là người mới tinh. Milton muốn chắc là họ đã bố trí trung đội vào các vị trí phù hợp.

    Cả 2 trung úy Richard E. Hood, Jr., và Donald R. Judd đều tốt nghiệp West Point khóa 1966. Cùng với hơn 1 chục bạn đồng khóa, họ tới gia nhập lữ đoàn 173 mấy tháng trước và sau khi trải qua khóa học 1 tuần về tác chiến trong rừng rậm nhiệt đới của lữ đoàn thì về đại đội. Hood, người Florida, 22 tuổi, gia nhập đại đội Alpha khoản 1 tuần trước khi bạn anh là Judd , 24 tuổi, quê New York đến hôm 19 tháng 6.

    Tuy mới, nhưng Judd và Hood rất cẩn trọng và chọn vị trí hợp lý cho trung đội mình. Milton rất hài lòng. Anh biết họ làm được việc, chỉ cần trui rèn ít thời gian nữa là 2 người sẽ trở thành những trung đội trưởng tuyệt vời và có thể sẽ giỏi ngang tay trung đội trưởng thứ 3 của anh.

    Trung úy Jeffrey R. ***ton là 1 lính kỳ cựu trong đại đội Alpha. Trong kỳ hạn đầu tiên, anh đã được cấp trên để ý, sự thông minh, khả năng lãnh đạo của ***ton được đánh giá cao và anh đã được gửi đi học sĩ quan (OCS). Anh chàng quê Phoenix, Arizona đồng ý đi học tại căn cứ Fort Benning với điều kiện: về chỉ huy 1 trung đội của đại đội Alpha sau khi học xong. Mọi chuyện đã được giàn xếp ổn thỏa. ***ton rời Georgia trở lại nam VN sau 4 tháng học và đổi lon chữ V của Specialist 4 (Lính chuyên trách cấp cao hơn binh nhất và dưới hạ sĩ. ND) lên gạch vàng cho cấp thiếu úy. Anh ta trở lại vài tháng sau khi Milton lên nắm đại đội Milton. ***ton là 1 sĩ quan xuất sắc và là người mà Milton thường nhờ tư vấn về những hoạt động hành quân, tác chiến.

    Sau khi thấy toàn đại đội đã ở đúng nơi đúng chỗ, Milton rất hài lòng và quay về chỉ huy sở là 1 cái hố nông được đào rộng ra. Anh cùng đám lính đều hăm hở trước nhiệm vụ “cánh gác cung điện” sắp đến.

    Cách xa cao điểm 1338 khoảng 1500m, đại đội Charlie, tiểu đoàn 2/503, đang di chuyển vào vị trí đóng quân ban đêm. Đại úy Ronald R. Leonard nắm quyền chỉ huy đại đội Charlie từ đầu tháng 6. Đại úy Thomas Carney, người tiền nhiệm đã dẫn dắt Charlie nhảy dù trong chiến dịch Junction City cùng các chiến dịch kế tiếp trước khi chuyển lên Pleiku. Carney là 1 chỉ huy đại đội rất thương binh lính nên các trung đội trưởng đã tổ chức bữa tiệc rượu cực kỳ hoành tráng tại Pleiku để chia tay Carney. Mất Carney, là 1 đòn nặng với đại đội Charlie. Chính sự tôn sùng Carney như vậy lại gây khó cho đại úy Leonard trong công việc sau này.

    Ron Leonard sinh trưởng ở Kansas, là sinh viên đại học Fort Hays State. Anh tốt nghiệp cử nhân sinh học năm 1959. Anh dạy khoa học tự nhiên và môn hóa ở trường trung học trước khi gia nhập Không quân và được phong sĩ quan năm 1963. Do ko hài lòng với công việc, anh đã xin chuyển sang Lục quân và đã chuyển qua đó mùa xuân năm 1966.

    Khi chuyển từ Không quân sang Lục quân, Leonard đã tình nguyện vào bộ binh và học nhảy dù. Khi hoàn tất những khóa học, anh chuyển đến căn cứ Fort Hood, Texas. Tháng 9 năm 1966, được thăng cấp đại úy. Tháng 12 thì được lệnh sang nam VN. Để kỳ hạn chiến đấu của mình được chuẩn bị hoàn hảo. Leonard đòi hỏi được tham gia học ở trường Ranger (biệt động quân). Anh hoàn tuấn khóa học gian khổ tháng 4 năm 1967 rồi qua thẳng nam VN.

    Sau khi tiếp nhận đại đội Charlie, đại úy Leonard tham giự cuộc họp buổi tối ở sở chỉ huy tiểu đoàn. Tại đây các chỉ huy đại đội nghe đọc tên những sĩ quan sẽ tới thay thế, bổ sung cho họ. Charlie nhận trung úy Judd ; Alpha sẽ có trung úy Matthew C. Harrison.

    Leonard xen vào, anh nói có quen Harrison hồi ở căn cứ Fort Hood. Có ai phải đối việc đổi Harrison qua đại đội anh còn Judd qua Alpha ko? Ko ai nói gì hết nên việc coi như là xong.

    Matt Harrison là 1 anh chàng đáng mến, 22 tuổi, tốt nghiệp West Point và đây cũng chính là nơi anh chào đời khi ba của Harrison làm giảng viên ở đó. Khi đang còn là học viên sĩ quan, Harrison đã tình nguyện sang nam VN về lữ đoàn 173 không vận. Anh đã tìm hiểu trước và biết 173 là 1 đơn vị tinh nhuệ. Harrison rất hăng hái tham gia cuộc chiến mới ở VN, và muốn phục vụ hết mình.

    Sau khi Harrison hoàn tất khóa học tác chiến trong rừng của lữ đoàn, anh đáp C-130 lên Đắk Tô. Ngày hôm sau, trực thăng tiếp tế Huey đưa anh lên vị trí của đại đội Charlie trên cao điểm 1338. Hôm đó là ngày 20 tháng 6.

    Harrison ko thể tin những gì anh nhìn thấy khi nhảy ra khỏi trực thăng. Những cái cây cao ngút tầm mắt. Tre mọc khắp mọi nơi. Thảm thực vật mọc kín đất. Từ nơi đóng quân của đại đội nhìn ra xung quanh chỉ thấy được ở tầm vài mét rồi rừng già lại nuốt mất. Charlie cắm trại trên triền cao điểm giữa 2 bên đều là dốc đứng. ‘Xin chào chiến tranh’. Harrison tự nhủ.

    Ngày hôm sau, 21 tháng 6, đại đội Charlie tiếp tục leo lên cao điểm 1338. Đây thật là công việc gian khổ. Những bụi cây rậm rạp ken dày làm cho tốc độ tiến quân chưa được 100m/ 1 giờ. Các tiểu đội xích hầu phải dùng dao rựa phát quang cành lá, dây leo để mở đường tiến. Thời tiết nóng ẩm khiến cho công việc trở nên khó khăn gấp bội. Những người lính cầm dao rựa phát cây cứ mỗi 15 phút lại phải thay ra vì sợ họ sẽ kiệt sức mà gục ngã.
    DepTraiDeu, usadok, hoayeuquai5 người khác thích bài này.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    Đi cùng đại đội Charlie còn có 1 trung đội CIDG (dân sự chiến đấu – tức biệt kích. ND) của trại biệt kích Đăk Tô. Họ ko chỉ là quân bổ sung mà còn là những hướng dẫn viên trong vùng. Đại úy Leonard ko tin tưởng lắm vào khả năng của họ. Viên trung úy chỉ huy họ biết tiếng Anh nên việc truyền đạt diễn ra dễ dàng. Tay trung úy này nói anh ta cảm thấy có địch trong khu vực và cũng tỏ rõ cho thấy ko ai trong số họ muốn tới đó.

    Dẫn đầu đại đội Charlie là trung đội 2 của trung úy Phillip Bodine. Bodine sinh trưởng tại Rock Island, Illinois, và nhập ngũ khi sắp được 19 tuổi. Anh nhanh chóng được gửi đi học OCS và đến tháng 12 năm 1966 thì được phong làm sĩ quan. Tháng 3 năm 1967, Bodine được triển khai tới nam VN cùng 1 tiểu đoàn trực thăng của căn cứ Fort Bragg. Anh ko thích công việc này nên đã xin chỉ huy cho chuyển sang bộ binh. Sau đó 1 tuần thì anh đã tới ghi danh tại lữ đoàn 173 ở Biên Hòa.

    Đến giữ buổi chiều ngày 21 tháng 6 thì đại úy Leonard bắt đầu tìm nơi trú quân qua đêm. Anh chọn 1 chỗ sát ngay tuyến đường hành quân. Khi lính tráng tiến vào vị trí và bắt đầu đào công sự chiến đấu ban đêm thì các trung úy Harrison và Bodine lệnh cho mấy tiểu đội trưởng dưới quyền thiết lập chốt cảnh giới khi đêm xuống (LP). Những toán gồm 3 hay 4 binh sĩ sẽ chiếm lĩnh những vị trí cách chu vi phòng thủ chừng 30 đến 50m để có thể cảnh báo từ xa khi có địch tiến công.

    1 trong số 2 chốt cảnh giới của trung úy Bodine gồm có 2 lính dù và 3 biệt kích CIDG. Anh muốn tổ này quay lại con đường vửa đi trong ngày để xem họ có bị bộ đội Bắc Việt bám đuôi không. Bodine đi cùng với toán tuần thám nhỏ bé
    này để đưa họ vào đúng vị trí.

    Họ vừa ra khỏi chu vi phòng thủ, thì 1 lính CIDG ra hiệu cho Bodine. Cậu ta nói “Đây có nhiều VC lắm. Đừng đi!”

    “Cậu sẽ đi!” Bodine vừa nói vừa đẩy anh chàng đi tới trước. Phần còn lại của đại đội đang tất bật chuẩn bị nghỉ đêm phía sau lưng anh.

    Toán tuần thám nhỏ bé của Bodine di chuyển khoảng 40m xuống chân cao điểm. Bodine đi sau để ngăn lính CIDG bỏ trốn về trại. Cây cối, tre gai trong rừng quá rậm rạp khiến Bodine ko sao nhìn thấy người lính đi đầu chỉ đi cách anh có 10m phía trước.

    Bỗng có tiếng súng nổ phá tan màn đêm yên tĩnh, Bodine lập tức nằm phục xuống đất. Sau 1 phút yên lặng, anh ta cố mọp sát đất trườn tới phía trước.

    Khi Bodine tới chỗ người lính dẫn đầu, chàng trai trẻ này đang rất kích động và hấp tấp giải thích rằng anh ta chạm mặt với 1 lính địch chỉ cách khoảng 1,5 mét. Trước khi tay lính dù kịp bắn thì tên địch đã nổ súng. Đạn bắn hụt chàng “thiên binh” nhưng lại trúng 1 lính CIDG. Xác người lính Thượng đang nằm sóng soài ngay gần đó. Anh lính Mỹ bắn trả nhưng tên lính Bắc Việt đã biến mất.

    Bodine gọi điện đài báo cho Leonard. Leonard gọi toán thám sát của Bodine quay về rồi thắt chặt công tác phòng thủ của đại đội. Anh chắc mẩm và chờ đợi cuộc tập kích sẽ diễn đêm đó.

    Xác người lính CIDG được để ngay giữa chu vi phòng thủ. Nếu thời tiết cho phép, 1 máy bay trực thăng sẽ tới nhận cái xác vào sáng hôm sau. Đối với phần lớn lính Mỹ thì đây là thương vong đầu tiên của chiến tranh mà họ được chứng kiến. Nhưng với nhiều người thì đây lần đầu tiên được nhìn thấy người chết. Trung úy Harrison cũng chưa từng nhìn thấy xác người chết, cũng chưa từng dự đám tang nào. Với anh, việc xác người lính Thượng được mang về chính là 1 thực tế chiến tranh sống động hơn bất cứ khóa huấn luyện nào trước đó. Giờ thì anh đã biết rõ cuộc chiến tranh này là có thật.

    Lính dù trong đại đội Charlie đã trải qua 1 đêm thấp thỏm lo âu. Các vọng tiêu liên tiếp báo về những động tịnh sát bên mà họ nghe được. Đại úy Leonard ko cho phép nổ súng, anh ko muốn họ làm lộ vị trí. Tuy vậy vẫn có một số thành viên khác của Charlie lại vẫn cứ ngủ ngon.

    Đại đội Alpha của đại úy Milton phía dưới họ thì trải qua 1 đêm ngon giấc hơn. Ngày mai họ sẽ được về căn cứ. Họ đã ra ngoài hành quân 4 ngày rồi, ko gặp đối phương và quan trọng nhất là ko có tổn thất. Đó là 1 chuyến tuần tiễu tốt đẹp.

    Cả 2 toán quân đều biệt lập với nhau. 1500 mét ngăn cách bọn họ cũng như là 1500 dặm vậy. Mỗi đại đội sống trong thế giới riêng của mình, hầu như bị chẳng biết gì về đơn vị kia và thế giới bên ngoài.

    Có lẽ chỉ có ko đến 10 người trong cả 2 đại đội biết được việc Israel xâm chiếm Ai Cập trong 1 cuộc tiến công chớp nhoáng mấy tuần trước đó. Tất cả sẽ rất đỗi ngạc nhiên khi biết đồng minh Israel của chúng ta đã tấn công 1 chiếc tàu do thám của Hải quân Mỹ ở phía đông Địa Trung Hải vào ngày thứ 2 của cuộc chiến, giết chết và làm bị thương hàng chục thủy binh Mỹ vô tội.

    Một vài người mới tới thì còn có thể biết nhóm Jefferson Airplane's White Rabbit vừa lại đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc Hoa Kỳ. Ko ai biết được ca sĩ nổi tiếng Cher vừa thông báo cô đang có thai đứa con đầu lòng. Nếu họ biết thì tất cả mọi lính dù sẽ rất hoan nghênh trước tin nhà vô địch quyền anh TG Cassius Clay (tên khai sinh của Muhammad Ali .ND) bị đưa ra xét xử vì từ chối nghĩa vụ quân sự.

    Thực tế thì trong lúc đó tổng thống Lyndon B. Johnson đang gặp gỡ chủ tịch hội đồng bộ trưởng Liên Xô Aleksey Kosygin tại Glassboro, New Jersey để thảo luận về tiến trình hòa bình cho Trung Đông nhưng các “thiên binh” lại ko quan tâm mấy đến sự kiện đó.

    Chỉ có 2 điều thiết thực với các lính dù trong tháng 6 này là: Họ vẫn còn sống và kỳ hạn phục vụ 365 ngày tại VN đã sắp hết.

Chia sẻ trang này