1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đàm đạo về trà - Việt Nam

Chủ đề trong 'Ẩm thực' bởi ruthamcau, 24/09/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ruthamcau

    ruthamcau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/07/2006
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0
    Đàm đạo về trà - Việt Nam

    Đàm đạo về trà .

    Tìm được trang web chuyên đàm đạo về trà , rất hay.

    http://songcongtea.com/listnews.aspx?langid=1

    Phạm Đình Hổ (1758 ?" 1839) trong tác phẩm ?oVũ trung tùy bút? ( Tùy bút viết trong mưa):

    "Ta sinh trưởng đương lúc thịnh thời Cảnh hưng, trong nước vô sự, các nhà quý tộc, các bậc công thần, các con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ, có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lạng bạc?thường có nhiều người đến chơi các hiệu chè, thăm dò các phố buôn, vác tiền hết quan này đến chục khác để mua lấy chè ngon. Lúc ngồi rỗi, pha chè uống với nhau, lại đánh cuộc với nhau xem chè đầu xuân năm nay sớm hay muộn, giá chè năm nay cao hay hạ. Kẻ thì ưa thanh hương, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên, mua cho được chè ngon, bày khay chén ra uống thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền ra mua sẵn cho được hiệu chè Chính Sơn, gửi tàu buôn đặt cho được kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế là cùng cực.
    Song cái thú uống chè Tàu có phải ở chỗ đó đâu? Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu làng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm chè Tàu ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục. Ấy, người xưa chuộng uống chè tàu là vì vậy. Từ các đời gần đây trở xuống, thưởng thức chè Tàu ngày càng tinh, vị chè nào khác, cách chế nào thì ngon, đều phân biệt kĩ lắm. Lò, siêu, ấm, chén, lại chế ra nhiều kiểu thích dụng. Song chế ra nhiều thứ chè, kẻ thức giả cũng cho làm phiền lắm, còn như nếm chè trong đám ruồi nhặng, bầy ấm chè ở cửa chợ bụi lầm, lúc ồn ào đinh óc, vơ vẩn rộn lòng, thì dẫu ấm cổ đẹp đẽ, chè ngon ngát lừng, ta chẳng biết uống chè như thế có tác dụng gì không??
    Làm trai biết đánh tổ tôm
    Uống chè mạn hảo, xem nôm Thúy Kiều.
  2. videtjsc

    videtjsc Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/03/2007
    Bài viết:
    91
    Đã được thích:
    0
    trà mạn uống một mình là tuyệt
  3. ruthamcau

    ruthamcau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/07/2006
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0
    Hạt bọt trà - Câu truyện vỉ hè
    ?oDịch thể ngạnh ngọc bào?: tôi lấy làm suy nghĩ về chữ ?obào? rất nhiều. Ca tụng cái bọt của chất nước ngọc? Trà là nước ngọc? Tốt lắm, nhưng còn chút bọt kia, nó giữ vai trò gì ở đây? Ai cũng biết trong chén trà Tàu bé bằng hạt mít, bậc đài các chỉ thưởng thức cái hương và cái vị của một hớp nước mà thôi. Làm gì có bọt bèo trong đó? Bọt bèo rườm rà cũng không có cả trong chén trà bột của người Nhật. Vả lại dù có dăm ba hạt bọt, thì đó đâu phải là một yếu tố làm nên giá trị của trà? Nói đến làm gì?
    ?oKhát uống trà mai hương ngọt ngọt,
    Giấc nằm hiên nguyệt gió hiu hiu.?
    Đó, nói như cụ Trạng Trình thế là đúng điệu: Thưởng trà, khách tao nhân chú trọng nhất cái hương.
    Còn ham trà đến như ông Lư Đồng, uống trà mà ngon trớn đến như ông ta ?" làm luôn một hơi bảy chén, đến nỗi gió dậy dưới nách ào ào ?" thế mà Lư Đồng cũng không một lần đề cập đến bọt trà.
    Có thể ngờ rằng những hạt bọt trong chén trà Tàu đã tan đi từ mười lăm thế kỷ rồi. Các lối uống trà khuấy (mạt trà) thịnh hành ở Nhật Bản, hay trà ngâm (diệp trà, tiễn trà, yêm trà) như ở Trung Hoa từ đời Minh về sau, đều không đếm xỉa đến bọt. Họa chăng hạt bọt được quí chuộng vào thời kỳ xa xưa của trà bánh (đoàn trà) nấu với đủ các món gia vị lủng củng, nào gừng, nào hành, nào vỏ quít, nào muối đó chăng?
    Dẫu sao một hạt bọt trà dính trong câu thơ Tàu lưu lạc từ hơn nghìn năm xưa quả không đủ sức làm dâng lên sự suy tưởng trong một trí óc nặng nề. Sở dĩ tôi đã đâm ra nghĩ ngợi chỉ vì những hạt bọt nọ còn dính trên mớ râu của một ông cụ người cùng làng, cách đây không lâu.
    Trong chỗ dân dã ở thôn quê miền Trung, người ta gọi nó là Chè, mà không gọi là Trà. Uống Trà Tàu là cái thú của hạng giàu sang; người bình dân thì uống Chè Huế.
    Trà Tàu, pha theo lối Tàu. Chè Huế nấu lối Huế. Lối Huế không giống lối nấu chè tươi hay chè khô ngoài Bắc. Từ Huế, lần vào các tỉnh nam Trung phần, lối nấu chắc chắn cũng có thay đổi ít nhiều; vì vậy các quán nước chè bên đường ngoài Huế thường thấy có một chai nước cốt trữ sẵn, món đó không hề có ở vùng Nam Ngãi Bình Phú...
    Trong bếp của mọi gia đình ngoài Trung đều có đủ hai món đồ gốm dùng để nấu nước: cái ấm và cái om. Om dùng cho chè Huế.
    Chiếc om, hình thù nó như một trái sim lớn: nó tròn quay và miệng loe ra (như tai sim). Vì om không có quai như ấm, như nồi, siêu, xoong, chảo v.v... cho nên để nhắc nó người ta không thể dùng đôi đũa bếp: phải dùng cái cặp.
    Cặp om là một thanh tre cật, dài non sải tay, uốn cong gập làm đôi, vòng cong vừa ôm khít chỗ eo của miệng om.
    Có om có cặp, thế là đủ. Bỏ một vốc lá chè khô vào om, đổ nước vào, nổi lửa lên. Nước sôi, sắp trào ra, thì lập tức chế thêm tí nước lã vào để trấn nó xuống. Một chốc nó lại sôi bồng lên: lại tí nước lã nữa. Ba bận, bốn bận như thế... Cần nhất phải kiên nhẫn: lửa không nên cháy hỗn quá, nước chế thêm không nên nhiều quá, mỗi lần chút ít thôi. Có thế chè pha ra bát mới tốt bọt được.
    Chè nấu xong đến chuyện pha nước. Bát bày sẵn bên bếp, trước tiên cho vào bát độ sáu bảy phần mười nước lạnh. Xong, dùng cây cặp nhắc om lên, rót nước chè sôi vào bát cho đến đầy.
    A! Cái công việc rót nước ấy là cả một nghệ thuật đấy. Hạ om thấp quá thì bát chè ít bọt: đưa lên cao quá thì sẽ làm nổi lên những quả bong bóng to tướng. Bát nước kém bọt là hỏng, đã đành. Mà bọt nổi bong bóng lớn cũng là chuyện vụng về mà người nội trợ tự trọng phải cố tránh. Kẻ pha nước thông thạo biết chọn đúng cao độ cho om nước, biết rót xuống một dòng nước vừa phải, không nghiêng trút mạnh quá khiến bọt không tụ được, lại còn biết di động miệng om để phân phối bọt cho đều khắp, biết ngắt dòng nước đúng lúc để rồi rót thêm chỗ này một chút chỗ kia một tí, bổ di kịp thời vào những khoảng trống không đẹp mắt v.v... Đến khi mọi sự đã viên thành, kẻ ấy gặc miệng om một cái trước khi ngừng tay, biểu diễn sự hài lòng trong cử chỉ chấm dứt.
    Bát nước ngon lành phải thật nhiều bọt, đầy bọt, bọt hầu như phủ kín mặt nước, thứ bọt dẻo quánh lại, và nhỏ hạt.
    Pha một bát nước vừa ý rồi mà phải đứa bé bưng nước không cẩn thận cũng đáng bực mình lắm. Bưng bát nước đầy thế nào từ dưới bếp lên đến nhà trên trao cho ông khách mà bọt không sánh ra ngoài, mà mặt nước không dao động đến nỗi làm vỡ bọt: được thế mới gọi là không phụ công phu kẻ nấu và pha nước.
    Đến đây đã rõ: Bao nhiêu công phu như đều dồn vào một chủ đích: ?o... ngạnh ngọc bào?.
    Ông khách đón nhận bát nước, bưng trên tay, nhìn vào đám bọt tràn trề sung mãn mà không cầm lòng được. Bọt nước long lanh rạng rỡ phản chiếu khuôn mặt khách, lặp lại một vạn lần cái rạng rỡ ánh lên trong mắt khách. Nghịch ngợm, khiêu khích nhau đến thế thì không chịu được. Khách cúi đầu, chọn lựa một điểm thế thích nghi, chúm miệng thổi nhẹ để xua đuổi lũ bọt nước tránh giạt ra, dọn một khoảng trống vừa đủ chỗ đặt môi. (Dĩ nhiên, không một ai tính chuyện đớp mớ bọt nọ vào bụng!)
    Bị đuổi, lũ bọt vội vàng vẹt tránh ngay. Nhưng hễ khách vừa nhúng môi xuống thì tất cả bọn chúng liền ập tới, bám riết quanh mép. Mực nước càng xuống thấp chúng càng rủ nhau kéo đến dồn dập, chen nhau lấn nhau, vỡ nổ lèo xèo trên môi trên mép của khách.
    Có thể khách không hay biết về những gì xảy đến cho lũ bọt: Khách đang ngon trớn mà. Và tất cả sự khoái thích của việc uống chè Huế là ở trong cái trớn ấy.
    Bát nước đã có lót đến sáu, bảy phần nước lạnh cho nên pha đầy nước dù đang sôi vào nó vẫn không quá nóng. Nó không như chén trà Tàu. Nó chỉ nóng vừa đủ cái độ khiến khách có thể uống ồng ộc một hơi, uống luôn không dừng, không ngẩng mặt lên, không rời môi khỏi miệng bát, cho đến cạn bát mới thôi. Mà bát chè Huế thì phải biết nó là những thứ bát khổng lồ. Hồi tiền chiến, người ta dùng bát Bài Thơ, bát Con Rồng: Một bàn tay xòe rộng chỉ che vừa miệng bát. Trong thời kháng chiến, nhiều gia đình thiếu thốn phải dùng đến những cái ?ovùa? đất: vùa chỉ thua bát ở nước men chứ kích thước không thua sút tí nào. Bởi vậy cái ngon của trà Tàu là cái ngon tiểu vẻ của hạng phong lưu đài các, cái ngon cầu kỳ kiểu cách của một chút vị ngọt ở chót lưỡi, chút hương thoảng qua mũi v.v...; còn cái ngon của chè Huế thì phàm tục thô bạo hơn, nhưng nó là cái ngon khỏe mạnh, thích hợp với bản chất nông dân lao động.
  4. ruthamcau

    ruthamcau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/07/2006
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0
    Trà Tàu để nhấp từng tí, là thứ trà của sự suy tưởng mơ màng. Còn chè Huế, không ai uống nó mà uống từng hớp rời. Đã tợp vào là cứ thế thừa thắng xông lên ào ào, cứ ráo riết dồn dập cho đến cùng.
    Mà đến tận cùng một bát Con Rồng thì bảy chén trà con của Lư Đồng thấm vào đâu. Khách mà uống xong một bát chè Huế thì ?" theo ngôn từ nhà thơ Trung Hoa ?" dưới mỗi bên nách tất phải nổi ***g lên một trận bão. Và ?" theo cái lối mệnh danh của thời đại ?" có thể dưới nách bên này là một trận Hélène, bên kia là Jackie chẳng hạn.
    Uống chè như vậy đâu đến nỗi vô vị?
    Ở chỗ thôn quê nghèo nàn ngoài Trung, trong cái xã hội của hạng sống lam lụ quanh mình, tôi chưa được nghe câu chuyện nào liên quan đến cái giới uống trà Tàu. Đây đó chỉ nghe toàn những giai thoại về chè Huế. Anh Ba Càng Cua mỗi sáng nhất định phải điểm tâm một bát thật đậm rồi mới ra đồng cày bừa được, mà hễ đã uống nước rồi là khỏi cần ăn; ông Tư và ông Tam Khoang vẫn cầm cự nhau suốt ba mươi năm nay: ông này mỗi lần hai bát thì ông kia cũng vẫn giữ vững đủ hai bát mỗi lần; ở làng nọ có người uống một lượt đến ba bát Bài Thơ; thôn kia có ông lão hai bát gặp được chàng trai hai bát rưỡi, lấy làm khoái, gả ngay con gái cưng cho v.v... Lại cũng không hiếm những câu truyền tụng về các bậc dị nhân ở tổng này huyện nọ uống một mạch hoặc bốn bát, năm bát nước, hoặc cả om nước. hoặc nửa vò nước v.v..., nhưng tôi ngờ rằng những chuyện đó thuộc về huyền thoại.
    Dầu sao trong thôn dã có huyền thoại về chè om, về anh hùng chè lá, thì đủ biết om chè đã có địa vị nào đó trong cuộc sống tinh thần của dân gian.
    Riêng đối với ông Tam Khoang, nó có vai trò trong cuộc đời tình cảm. Cũng như phần đông các tay cao thủ chè om, ông Tam Khoang có vóc người dềnh dàng, lực lưỡng. Trong chỗ xa tít nhất của ký ức tôi, ông đã có hai chòm râu mép. Ngày nay, trên bảy mươi tuổi già, ông cụ bạc trắng cả râu mép lẫn râu cằm.
    Hồi tôi còn nhỏ, mỗi lần ông đến nhà, tôi thường lãnh việc bưng nước để được xem ông uống. Ông thong thả, chững chạc, trông không có vẻ gì là một người đang khát. Bưng tô nước lên tay, bao giờ ông cũng ngừng lại ngắm qua một chút để đánh giá; nếu có đàn bà trong nhà ngồi gần đâu đấy, ông không quên bình phẩm vắn tắt vài lời. Rồi thì bắt đầu: từ từ, không chút vội vã, ông uống cạn một bát, bình thản chờ đợi, rồi lại uống cạn một bát khác... Khi ông Tam Khoang ngẩng đầu lên lần thứ hai thì rất nhiều bọt trắng đã đeo lấy hai vệt râu mép. Tôi thích chí, chỉ chỏ: ông nở một nụ cười hiền lành, đưa tay áo quệt ngang một cái, rồi dùng hai ngón tay ?" ngón cái và ngón trỏ ?" vẹt sửa lại bộ râu.
    Tôi chắc chắn không có một lần uống nào ông không bị lũ bọt chè quấy rầy bộ râu ấy; nhưng cũng không có lần nào đối với chúng ông không có cử chỉ khoan hòa.
    Trước con mắt trẻ thơ của tôi bấy giờ, một con người đã thực hiện cái kỳ công là nuốt trọn hai bát nước to tướng như thế, với một vẻ vừa đĩnh đạc khả kính lại vừa giản dị khiêm nhường như thế, có vẻ đẹp riêng. Tôi ao ước mơ tưởng một ngày nào đó trong đời có thể học được cái phép làm một dị nhân từ tốn độ lượng kiểu ấy, để cho lũ bạn bè chúng nó lác mắt ra, vừa kinh hãi vừa cảm phục trong lòng. Cho đến ngày nay thì tôi đã chắc chắn đến mười phần là trọn đời mình không sao có được cái phép lạ ấy trong khi ông Tam Khoang vẫn đều đều mỗi ngày tái diễn ba bốn lần.
    Do đó, tôi hoàn toàn cảm thông cái tâm sự của bà Tư. Bà có người chồng xuất sắc: ông Tư có tài uống một hơi hai bát chè. Nhưng bà không cầm lòng được trước phong thái của ông Tam Khoang. Từ hơn ba mươi năm trước, trong chỗ chòm xóm với nhau người ta thường gặp ông Tam Khoang đến chơi nhà ông Tư, chủ khách mỗi đàng hai bát nước xong, mặt mày thỏa thuê tươi rạng, đàng nào lặng lẽ mân mê ve vuốt râu mép của đàng ấy... Tất nhiên không phải là một cuộc đấu râu. Đây là sự gặp gỡ của hai kẻ đàn ông nơi lòng mến mộ của một người đàn bà.
    Đối với mối tình tay ba ấy bà con làng xóm không có lời chỉ trích nghiêm khắc, chỉ có những giễu cợt khúc khích. Mối tình cứ thế kéo dài suốt ba, bốn chế độ chính trị, suốt đôi ba mươi năm ly loạn.
    Cho đến ba năm trước đây thì xảy ra một biến cố: gia đình ông Tam Khoang quyết định tản cư lên tỉnh lỵ, gia đình ông Tư ở lại làng. Thật là tan tác, bi ai. Tuy nhiên rồi sau đó người ta thấy rõ lòng người vẫn thắng nghịch cảnh: đôi ba tháng một lần ông Tam Khoang tìm được dịp về làng, ghé chơi nhà ông Tư.
    Ghé chơi ông Tư, một mặt công khai chủ khách hể hả uống bốn bát nước chè, một mặt kín đáo ông Tam Khoang giúi cho bà Tư hoặc một xấp lãnh nhuộm đen bằng mặc nưa ở biên giới, hoặc một cái quần xa-teng Mỹ A v.v... Chỗ tỉnh lỵ coi vậy mà có lắm sáng kiến cung cấp cho ông nhiều lý do chính đáng để ông quyết định những chuyến về làng mạo hiểm. (Phải, đã ra tỉnh lại trở về làng là một chuyện nguy hiểm mà đám con cháu ông Tam Khoang tìm mọi cách để can ngăn.)
    Ông Tam Khoang mạo hiểm hơn một năm trời như thế rồi thì rốt cuộc gia đình ông Tư cũng dọn lên tỉnh. Lại đề huề, lại sum vầy. Ôi, cái cảnh sum vầy mới ngộ nghĩnh làm sao. Trong chuyến gặp nhau gần đây nhất, tôi được biết bây giờ giữa hai ông cụ có sự khắng khít như chưa bao giờ mật thiết đến thế: không ngày nào ông Tam Khoang không có mặt tại nhà ông Tư đủ hai buổi sớm chiều. Có thể giải thích rằng trong cảnh xa lạc xóm làng những cụ già bơ vơ giữa đô thị thường tìm đến nhau như tìm về dĩ vãng của mình. Nhưng lý do cụ thể hơn hết, lý do sờ mó được, ấy là chiếc om chè.
    Đúng thế, cách đây nửa năm, chiếc om nhà ông Tam Khoang bị vỡ, và ông không thể tìm mua ở đâu cho được chiếc om khác thay thế. Om đất bây giờ đã biến mất trên thị trường. Om đất đã chết không kèn không trống, không một lời báo trước; vì vậy không ai được biết để mà phòng bị, tích trữ. Và một người đã uống chè Huế hơn nửa thế kỷ như ông Tam Khoang chẳng lẽ nay lại đi nấu chè trong cái niêu đồng? Vậy sự hiện diện thường trực của ông tại nhà ông Tư là một sự chính đáng.
    Trong những ngày cuối cùng của cuộc sống, mặc dù cảnh đời ly loạn, hai ông cụ vẫn tiếp tục ngày ngày cúi xuống thổi những tảng bọt ngon lành nổi trên bát nước trao lên từ đôi bàn tay thân yêu nhăn nheo: cứ như thế họ hưởng hạnh phúc. Tôi hỏi thăm:
    - Thưa, các cụ vẫn uống được hai bát như xưa...
    Hai ông cụ tranh nhau đáp:
    - Cám ơn ông Hai. Nhờ trời vẫn đủ hai bát mỗi lần.
    Trên môi ông Tam Khoang nở một nụ cười kín đáo, man mác. Tuy vậy người ta cũng nhận thấy về già ông mất đi cái khiêm nhường đáng yêu của một người tự tin: về già - dù kín đáo - ông lại không giấu được một chút kiêu hãnh. Sự mất tích của chiếc om đất không chỉ có tác dụng làm khắng khít một mối tình già. Tôi lo rằng sự mất tích ấy cũng có thể gây ra đôi điều không hay.
    Không phải các dân tộc nhất thiết phải gìn giữ mãi mãi các phong tục ăn uống. Trong lịch sử, người Trung Hoa đã lần lượt trải qua những cách uống trà khác nhau hoàn toàn; có sao đâu? Lại còn nhờ thế mà họ tiến được đến những bình trà Thiết Quan Âm, Bạch Mao Hầu v.v... danh tiếng ngày nay, chắc chắn là hơn hẳn món trà uống với muối gừng xưa kia.
    Nhưng trong trường hợp của chè Huế, dường như đây không phải là một biến chuyển để tiến tới. Trái lại.
    Đất Bình Định từng ghi được nhiều thành tích về trà. Trong cuốn sách viết về chỗ quê hương, thi sĩ Quách Tấn có nói đến thứ khổ trà ở miền An Lão Hoài Ân, thứ trà quí được vua chúa thích một thời. Trong đoạn hồi ký về chuyến ghé Nam kỳ năm 1778, một nhà hàng hải người Anh tên Chapman đã chú ý đến ngành buôn bán trà đang hồi cực thịnh tại đây: từ hải cảng Qui Nhơn cho đến hoàng thành của Nguyễn Nhạc, dọc đường nơi nào cũng thấy những cửa tiệm bán trà.
    Có lẽ cả thứ trà dâng cho vua Nguyễn Gia Miêu cũng như thứ trà thịnh phát dưới triều Nguyễn Tây Sơn đều là trà pha chế lối Tàu. Còn chè Huế sau này thì không còn ai dâng vua, cũng không hề được bày bán trong tiệm: người ta chỉ bán chè Huế ở chợ, hay bán rong dạo xóm dạo làng... Thời của trà vua chúa đã qua, đến thời của chè om cho dân dã, cũng được chứ sao. Nhưng bây giờ om cặp lại mất tích, rồi sắp hóa sinh ra thứ chè gì nữa đây? Cứ sự thể này thì hình như chè om tính đi luôn vào lịch sử không để lại thừa kế, không lưu vết tích. Thay thế cho nước chè, rồi sẽ có những thứ khác, thiếu gì. Các người làm văn hóa dân tộc đang ngậm ống nhựa hút tùn tụt những ly pepsi, coca v.v... không thấy đó sao? Thật tốt, thật hợp vệ sinh.
    Có điều một người Nhật Bản, ông Okakura Kakuzo, đã mỉa mai nhẹ nhàng một vị huấn cổ học giả đời Minh bên Tàu khi ông này lúng túng không biết giải thích thế nào về hình dáng chiếc ?otrà tiễn? được nói đến trong một tác phẩm đời Tống. Sự lúng túng ấy gần mang ý nghĩa sỉ nhục, khi một bậc trí thức Trung Hoa quên mất cả phong tục tập quán của dân tộc mình sau một thời gian bị quân Mông Cổ cai trị.
    ?oTrà tiễn? là món có công dụng rõ rệt mà người đời còn quên nó, huống hồ ?otrà bào?! Thật vậy, cái om, cái cặp, và đặc biệt là cái bọt chè, rất có thể là những tai họa cho các vị huấn cổ học giả nước nhà trong tương lai. Năm ba mươi năm sau, nói đến sự thích thú trước một bát nước chè đầy bọt thì còn hiểu thế quái nào được? thì các bậc học giả dám ngẩn tò te lắm chứ. Trà tiễn để mà khuấy, chứ còn bọt chè dùng để làm gì? Không uống được, không ngửi được, không nếm được v.v... nó thành ra cả một sự bí hiểm, một sự thách đố đối với các nhà nghiên cứu. Ẩm giả yêu bọt chỉ vì bọt sao chớ? Cũng như nghệ thuật vị nghệ thuật vậy sao?
    Bởi thế, trước khi bọt chè tan vỡ tiêu tùng hết, nên có đôi lời ghi chép về chút chuyện bọt bèo.
    Nguồn : www.songcongtea.com
  5. ruthamcau

    ruthamcau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/07/2006
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0
    Giải mã bí ẩn tác dụng kỳ diệu của nước chè
    Rất tốt cho tim, xương cốt và dạ dày. Cải thiện trí nhớ và bảo vệ cơ thể trước bệnh dị ứng. Các nhà khoa học khẳng định: "Muốn khỏe mạnh, cần phải uống nước chè!".
    Bảo vệ cơ thể trước các bệnh ung thư...
    Về thành phần hóa học, tất cả các loại chè (xanh, đỏ và đen) đều phát huy tác dụng có lợi đối với cơ thể con người. Theo các nghiên cứu Ung thư Quốc gia Mỹ, lá chè sấy khô chứa catechin - những hợp chất có khả năng kìm hãm quá trình nhân bản của tế bào ung thư. Họ cũng phát hiện ra rằng, chính catechin đã tiêu diệt những thành phần tự do - thủ phạm gây ra không ít tai họa cho cơ thể, trong đó có tình trạng già nua. Catechin cũng có khả năng kìm hãm sự phát triển của những tế bào ung thư đã tồn tại. Điều quan trọng, hiện tượng này liên quan đến nhiều dạng ung thư khác nhau.

    Tháng tư năm 2004, trên tạp chí chuyên ngành "Experimental Biology" các nhà khoa học Mỹ ở California đã công bố kết quả những công trình nghiên cứu chứng minh rằng, thường xuyên uống chè đen hoặc chè xanh có thể kìm hãm sự phát triển khối u tuyến tiền liệt. Tháng 12/2005, tạp chí chuyên ngành "Archives of Internal Medicine" đã giới thiệu công trình nghiên cứu chứng minh rằng, phụ nữ mỗi ngày uống tối thiểu hai ly nước chè ít bị nguy cơ ung thư buồng trứng so với đồng lứa của họ không thích loại nước uống này.

    Để tận dụng đầy đủ hoạt chất của catechin, cần phải ủ nóng chè tối thiểu trong thời gian 5 phút trước khi uống. Khi ấy lá chè giải phóng được khoảng 80% các hợp chất hữu ích.
    ...và nhồi máu cơ tim
    Cuối tháng chín 2009, các nhà kha học Nhật Bản thuộc Đại học Okayma đã công bố công trình nghiên cứu, theo đó người cao tuổi thường xuyên uống nước chè xanh có thể giảm thiểu được tới 75% nguy cơ bệnh tim mạch. Kết quả công trình nghiên cứu này có thể coi như lời xác nhận tính trung thực công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Hy Lạp được công bố một năm trước đó trên tạp chí "European Journal of Cardiovascular Prevention and Rehabilitation". Các nhà khoa học thuộc Đại học Y Athen đa phát hiện ra rằng, chè xanh cải thiện đáng kể chức năng làm sạch tế bào màng trong niêm mạc mao mạch (sự trục trặc chức năng này bị coi là một trong nhân tố chính dẫn đên xơ vữa thành mạch).
    Ngay từ năm 2006 các nhà nghiên cứu Nhật Bản (Đại học Tohoku) đã giới thiệu chứng cứ khoa học khẳng định, chè có tác dụng kéo dài tuổi thọ. Trên tạp chí "Journal of the American Medical Association", nhóm nghiên cứu đã công bố kết quả 11 năm quan sát 40 ngàn công dân Nhật Bản thuộc lứa tuổi 40-79. Theo đó, so với đối tượng mỗi ngày uống ít hơn một ly chè xanh, nguy cơ tử vong (chủ yếu vì lý do các bệnh tim mạch) của những người mỗi ngày uống 5 ly chè (hoặc nhiều hơn) giảm thiểu tới 16%.
    Người ta cho rằng, truyền thống uống nước chè xanh có thể là sự lý giải hợp lý cho cái gọi là "sự phi lý châu Á", theo đó, cho dù dân chúng tại các quốc gia thuộc lục địa này hút khá nhiều thuốc lá, song tỷ lệ tử vong vì các bệnh tim mạch và ung thư thấp hơn hẳn so với dân chúng Âu - Mỹ.
    Tuy nhiên, tất cả nhữg ai uống chè như phương thức bảo vệ cơ thể trước nguy cơ nhồi máu cơ tim hoặc tai biến não cần phải nhớ một chi tiết: Không nên pha thêm sữa tươi vào nước chè. Thông tin này có thể làm đau lòng thần dân Vương quốc Anh - những người vẫn quen dùng sữa tươi như gia vị tuyệt vời của nước chè. Năm 2007, các nhà khoa học Đức đã công bố trên tạp chí "European Hearrt Journal" công trình nghiên cứu chứng minh rằng, những tác dụng tích cực chè đen mang lại cho hệ tim mạch sẽ bị triệt tiêu nếu chúng ta uống chè theo kiểu Anh quốc.
    Vaccine trong ly nước chè
    Nước chè hỗ trợ hệ miễn dịch của chúng ta thông qua hoạt chất tương tự như vaccine. Đó là giả thiết có cơ sở khoa học, bởi lẽ những tế bào của lá chè tươi có những tố chất tương tự như một số... vi trùng gây bệnh, một số vi nấm và thậm chí cả tế bào ung thư.
    Cho dù điều đó nghe có vẻ nguy hiểm, song không nên lo sợ, bởi lẽ đặc điểm chung giữa chúng chỉ là một loại anti-gen, tưc những nguyên tố hóa học nằm trên bề mặt tế bào của chính chúng ta đều có những dấu hiệu nhận biết như thế. Dựa trên những dấu hiệu đó "lực lượng bảo vệ đặc biệt" bên trong cơ thể xác định được bạn và kẻ thù. Trường hợp phát hiện ra kẻ thù nguy hiểm, lực lượng bảo vệ đó sẽ đánh thức hệ kháng thể phát động cuộc chiến chống hiểm họa. Điều kỳ của nước chè ẩn giấu ở chỗ: Nước chè tạo ra loại anti-gen giống hệt các nguyên tố hóa học đặc trưng nằm trên bề mặt tế bào các vi khuẩn gây bênh. Vậy nên uống nước chè không khác gì một dạng tự tiêm chủng. Nhờ nước chè, đội quân miễn dịch của cơ thể chúng ta có cơ hội học cách nhận biết anti-gen những kẻ thù đích thực của mình - những vi trùng, virus hay nấm mốc.
    Các nhà sinh học Mỹ thuộc Đại học Harvard đã nghiên cứu chính xác hiệu ứng này thông qua biện pháp kiểm tra tác động của nước chè với limfocyty T - bạch cầu đóng vai trò một trong những thành phần cơ bản của hệ miễn dịch. Các nhà khoa học Mỹ đã tiến hành trắc nghiệm đối với một nhóm tình nguyện viên trong quá khứ không hề có thói quen uống nước chè cũng như cà phê hàng ngày.

    Tiếp theo những người tham gia nghiên cứu được chia thành hai nhóm, trong đó nhóm thứ nhất trong thời gian một tháng mỗi ngày uống 5 ly nhỏ chè đen, nhóm thứ hai - 5 ly nhỏ cà phê. Hai tuần sau khi bắt đầu chương trình thử nghiệm các nhà nghiên cứu quan sát được sự gia tăng rõ rệt sản xuất những nguyên tố thải loại mầm bệnh trong cơ thể những người uống chè. Các limfocyt T đã khởi động hệ đề kháng của cơ thể sẵn sàng chiến đấu. Cùng thời gian các nhà khoa học không quan sát được phản ứng cùng dạng ở nhóm người uống cà phê.
    Stress, trí nhớ, xương cốt và... các phần tử khủng bố
    Năm 2006, các nhà khoa học ở Đại học Luân Đôn đã phát hiện ra chi tiết thú vị về tác dụng của nước chè: Thường xuyên uống chè đen sẽ phát huy tác dụng giảm stress thường nhật (thông qua tác động đến các hoóc - môn). Trái lại theo đồng nghiệp của họ - các nhà khoa học thuộc Đại học Newcastle, uống chè đen hàng ngày sẽ bảo vệ được não bộ trước nguy cơ mắc bệnh đãng trí. Năm 2004, trên tạp chí "Psychoterapy Reasearch" nhóm nghiên cứu (Đại học Newcastle) do GS Ed Okello chỉ đạo đã công bố kết quả công trình nghiên cứu khẳng định: Chè xanh và chè đen có khả năng phong tỏa một số enzym chủ chốt đối với sự phát triển bệnh đãng trí ở người cao tuổi và những vấn đề liên quan đến trí nhớ.
    Nước chè còn có tác dụng bảo vệ cơ thể trước các bệnh tiểu đường, quáng gà, đau dạ dày mãn tính; tác động tích cực đối với răng và lợi (nướu). Ngoài ra, nước chè còn làm gia tăng mật độ xương, cùng lúc bảo vệ xương cốt trước nguy cơ chấn thương và dễ gãy.
    Tuy nhiên, chính các nhà khoa học thuộc Đại học Cardiff (xứ Wales) và Đại học bang Maryland (Mỹ) đã đưa những thông tin bất ngời nhất về lợi ích của nước chè. Theo họ nước chè có thể đóng vai trò "phòng tuyến tự vệ cuối cùng" trong trường hợp bị các phần tử khủng bố sinh học tấn công. Tháng ba năm 2008, trên tạp chí chuyên ngành "Microbiologist", các nhà khoa học trên đã mô tả thí nghiệm của họ, theo đó hệ miễn dịch trong cơ thể người thường xuyên uống đen hoàn toàn có thể loại bỏ vi trùng họ Bacillus anthracis - thủ phạm gây bệnh than.
    Không chỉ tác dụng bên trong
    Chè cũng tỏ ra có hiệu quả không chỉ như một nước uống giải khát, mà còn như miếng gạc băng bó vết thương. Tháng 11/2006, các nhà khoa học Mỹ thuộc Đại học California ở Los Angeles đã phát hiện ra rằng, tinh dầu chiết xuất từ chè xanh và chè đen (loại thứ nhất hiệu quả hơn) có thể đẩy nhanh thời gian mau lành vết thương trên da ở những bệnh nhân bị bỏng vì chiếu xạ trong quá trình điều trị ung thư.
    Bằng chứng tiếp theo về tác dụng tích cực của tinh dầu chè với làn da xuất hiện tháng chín năm nay. Trên tạp chí mỹ phẩm "Crystal Growth & Design", các nhà khoa học Đức đã đưa ra sáng kiến sử dụng lá chè như sự lựa chọn thay thế cho botoks (hợp chất hóa học đắt tiền và có nhiều tác dụng phụ tiêu cực) hiện đã quá nổi tiếng trong ngành công nghiệp phẫu thuật thẩm mỹ thế giới. Theo phương án này, việc kết hợp tinh dầu chiết xuất từ lá chè xanh với ánh sáng do các đèn đặc biệt phát ra sẽ có hiệu quả xóa bỏ vết nhăn không hề thua kém kỹ thuật tiêm chích botoks.

    Theo www.teaofworld.com
  6. Lasonphutu83

    Lasonphutu83 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/08/2009
    Bài viết:
    1.225
    Đã được thích:
    3
    Trà có nguồn gốc xa xưa từ Ấn Độ, sau này được du nhập vào Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam.... Nhưng hính những người TH và NB đã nâng tầm thưởng thức trà thành Trà Đạo. Không biết ở Việt Nam có nền Trà Đạo của riêng mình không?
  7. Lasonphutu83

    Lasonphutu83 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/08/2009
    Bài viết:
    1.225
    Đã được thích:
    3
    Trà có nguồn gốc xa xưa từ Ấn Độ, sau này được du nhập vào Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam.... Nhưng hính những người TH và NB đã nâng tầm thưởng thức trà thành Trà Đạo. Không biết ở Việt Nam có nền Trà Đạo của riêng mình không?
  8. kimdung89

    kimdung89 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/03/2006
    Bài viết:
    2.994
    Đã được thích:
    0
    Trà có nguồn gốc từ Tàu. Ấn cũng ko nổi tiếng về trà, mà là Tích Lan (Sri Lanka).
  9. ruthamcau

    ruthamcau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/07/2006
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0
    Chờ đợi ấn phẩm trà đồ sộ nhất Việt Nam
    5 năm biên soạn ròng rã của Phó giáo sư Đỗ Ngọc Quỹ, cùng người con gái Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Oanh, Tham khảo các tư liệu cả trong nước và quốc tế, 400 trang sách gói gém gần 70 năm trải nghiệm trong trà. Tài trợ : Công ty Cổ Phần Sông Công Thái Nguyên.
    Được đặt tên ?o Khoa học Văn hoá trà thế giới và Việt Nam ?, đây có lẽ là ấn phẩm về trà đồ sộ nhất Việt Nam hiện tại.
    Nhà xuất bản Nông nghiệp sẽ phát hành trong quý 2/2008 tại Hà Nội - Tài trợ : Công ty Cổ Phần Sông Công Thái Nguyên, thỏa lòng mong chờ của những người yêu trà Việt Nam bấy lâu.
    Lời giới thiệu quyển sách
    Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam gắn chặt với cây chè và phong tục uống trà. Uống chè tươi, chè mạn hảo là nét bản sắc văn hoá ẩm thực của người Việt từ thuở xa xưa đến tận ngày nay. Lời chào đon đả ?oChè ngon, nước chát xin mời. Nước non non nước, nghĩa người chớ quên? của những bà mẹ Việt Nam da nhăn nheo, chít khăn mỏ quạ, miệng bỏm bẻm nhai trầu, hay những thiếu nữ mặc áo tứ thân với chiếc yếm đào, vừa mộc mạc mà chân chất, vừa luyến láy mà ấn tượng. Bát nước chè xanh nước chát là biểu tượng của tâm hồn người Việt hiếu khách và thuỷ chung.
    Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, cây chè vẫn gắn bó thắm thiết với con người Việt nam. Cây chè vừa là cây rừng vừa là cây nông nghiệp chính của đồng bào các dân tộc miền núi. Cây chè dễ trồng ngay cả trên đất đồi núi chua nghèo nhưng có giá trị kinh tế lớn góp phần vào việc phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Cây chè còn là cây bản địa lưu niên, bảo vệ đất và nước, đảm bảo dân sinh, một nền nông nghiệp phát triển hiệu quả và một nông thôn bền vững.
    Văn hoá trà, một thành tố của văn hoá ẩm thực, là một lĩnh vực bao la mà mới mẻ chưa được thảo luận sâu rộng ở Việt Nam. Các Hội thảo chuyên đề và ấn phẩm về Văn hoá trà còn quá ít và sơ sài so với Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc? mặc dầu Việt Nam nằm trong cái nôi của cây chè thế giới. Việt Nam ngày nay đã có tương đối nhiều tài liệu khoa học kỹ thuật sản xuất chè, nhưng còn thiếu một công trình giới thiệu đầy đủ về khái niệm, nội dung, giá trị văn hoá trà trong giao tiếp lễ nghi, giáo dục nhân cách, và sáng tác nghệ thuật của phong tục tập quán uống trà. Do đó cuốn sách sẽ trình bày những thông tin về giá trị vật thể (vật chất) và phi vật thể (tinh thần) của cây chè trong một hệ thống gắn bó hữu cơ, nhằm giới thiệu với bạn đọc một cái nhìn đầy đủ và toàn diện về Văn hóa trà Việt Nam.
    Mục tiêu cuốn sách là tìm hiểu lịch sử phát triển Văn hoá trà thế giới và Việt Nam. Từ đó nêu lên những nét bản sắc và giá trị của Văn hoá trà Việt cần phải bảo tồn nâng cao và những tinh hoa của Văn hoá trà thế giới cần được học tập và phát triển. Cuốn sách trình bày sáu nội dung sau đây:
    1. Khái luận văn hóa trà thế giới và Việt Nam.
    2. Lịch sử phát triển chè thế giới và Việt Nam.
    3. Khoa học sản xuất chè thế giới và Việt Nam.
    4. Phong tục tập quán uống trà thế giới và Việt Nam.
    5. Giá trị bảo vệ sức khỏe của trà.
    6. Giá trị tinh thần (phi vật thể) của trà.
    Tác giả cuốn sách mong muốn cung cấp được những thông tin cập nhật, phong phú, nhiều chiều của thế giới và Việt Nam cho các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, dinh dưỡng, ẩm thực, y dược, nông nghiệp, công nghệ, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu giảng dậy, tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh và các bạn yêu mến trà Việt, nhằm đóng góp một tiếng nói của Văn hoá trà Việt với khu vực và thế giới sau hội nhập toàn cầu.
    Tháng 4 năm 2008
    Hoạt động nghiên cứu khoa học của thầy Đỗ Ngọc Quỹ
    Sinh năm 1923 tại Hà Nội. Kỹ sư canh nông, Đại học Nông lâm nghiệp Đông Dương. Nguyên Phó Viện trưởng Viện Cây công nghiệp, Cây ăn quả - Bộ Nông Nghiệp.
    Nguồn : www.songcongtea.com
  10. ruthamcau

    ruthamcau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/07/2006
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0
    Nghệ thuật uống trà Việt
    Nói đến nghệ thuật uống trà, người ta thường nghĩ ngay đến hai đất nước có lịch sử lâu đời về loại hình nghệ thuật này là Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, tại một số đất nước có nền văn hóa tương đồng như Đài Loan, Việt Nam? thì nghệ thuật uống trà cũng rất phát triển không kém.
    Tại Nhật, nghệ thuật uống trà đã có từ rất lâu đời (hơn 500 năm) và theo thời gian đã trở thành một nghi thức chính thống của một tôn giáo gọi là Trà đạo. Trà đạo được xem là một nghệ thuật khá công phu và khá phức tạp. Để thực hiện một nghi thức Trà đạo, nhất thiết phải có đầy đủ các yếu tố là trà thất, trà viện, đạo cụ pha chế và thưởng thức trà.
    Trà thất thường làm bằng gỗ giữa một vườn đầy hoa lá. Những trà đồ trước khi bước vào trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế giới ồn ào, bon chen để nhập vào sự tĩnh lặng của tâm hồn, quên hết mọi ưu phiền. Trà đạo của Nhật Bản sử dụng cung cách pha trà như một phương pháp lắng tâm. Qua phần nghi lễ, tâm người uống trà có dịp tập trung theo dõi từng động tác pha trà và thưởng thức từng ngụm trà như theo dõi từng hơi thở trong thiền định. Trà làm cho tâm người uống lắng đọng, thanh thản do vậy nước pha trà phải trong trẻo, tinh khiết, không vướng các mùi tạp. Với bộ dụng cụ pha trà đặc biệt, người pha trà biểu diễn những bước pha trà rất khéo léo và nhanh nhẹn. Trước hết bột trà được cho vào bát sứ với một lượng chuẩn nhất định, sau đó rót nước sôi vào từng bát một rồi dùng dụng cụ nhỏ bằng tre đánh nhẹ cho đến khi trà sủi bọt mới mời khách dùng. Cách thức uống trà của khách cũng được quy định nghiêm ngặt. Trước khi uống phải để 2 tay xuống sàn nhà, cúi đầu chào mọi người rồi cung kính nâng bát trà lên, xoay bát 3 lần theo chiều kim đồng hồ, sau đó từ từ uống. Khi uống xong, xoay nát theo hường ngược lại rồi nhẹ nhàng đặt xuống. Với người Nhật, Trà đạo là một tôn giáo không có giới hạn, là một cách tu luyện khổ hạnh, tạo tinh không đối xứng trong trí tưởng, giống như thiền học nên rất hợp với phụ nữ Nhật trong thế giới xô bồ hiện tại.
    Tại Trung Quốc, vào thời Đường thuật uống trà phát triển mạnh mẽ song hành cùng với sự phát triển của Thiền tông khắp Trung Hoa. Trà được ưa chuộng trong việc thực hành thiền vì đặc tính làm đầu óc người uống tỉnh táo và dễ tập trung hơn.
    Tại đất nước này, mỗi khi Tết đến đến xuân về là khắp nơi người ta nô nức mở hội đấu trà. Có 2 cách thức thi đấu là thi pha trà và thi phân loại trà. Trong cuộc thi, ban giám khảo sẽ cho thí sinh xem trước năm mẫu trà, sau đó bí mật pha chế thành nhiều chén trà để thí sinh nhắm và đấu với nhau, cũng như bình phẩm phân loại trà. Điểm then chốt của cuộc thi vẫn là miêu tả trà qua hương sắc, mùi vị, từ đó cho biết độ lên men, cách sao và xuất xứ của trà.
    Ngày nay, ở Trung Quốc có nhiều quán Trà đạo lớn. Những người yêu thích thường tìm đến để thưởng thức nghệ thuật thanh tao này. Tại các quán Trà đạo, chủ quán thường giới thiệu cho khách tỉ mỉ đặc điểm từng loại trà, cách pha trà, từng loại chén uống trà và cả cách uống trà ra sao để thưởng thức những vị ngon khác nhau. Ban đầu, chủ quán thường là những cô gái trẻ xinh đẹp trong trang phục truyền thống sẽ hồ hỡi chào khách rồi giới thiệu sơ qua xuất xứ, cách chăm sóc, chế biến, cách nhận biết chất lượng các loại trà. Trong khi một cô giới thiệu về chè thì hai cô khác súc ấm, tráng chén, chọn chè? với mỗi động tác đều chính xác, khéo léo và uyển chuyển như múa. Có lẽ vì thế mà ly trà có vẻ đậm đà hương vị, ngọt ngào tinh khiết hơn.
    Tại Việt Nam, trà đã có mặt ít nhất 10 thế kỉ, do đó nghệ thuật uống trà cũng có nhiều điều thú vị Các cụ già xưa thường uống trà kết hợp với ngắm trăng, ngâm thơ. Trà còn là thức uống mời khách quen thuộc mà trang trọng trong các gia đình Việt. Không quá cầu kì như Trà đạo của Nhật Bản nhưng nghệ thuật trà Việt cũng không kém phần tao nhã, thanh cao. Trà xanh, ấm, chén đất có lẽ là thứ khá quen thuộc đối với tất cả người Việt.
    Ngày nay, ở nhiều thành phố trà đã xuất hiện trong các quán sang trọng được bố trí theo phong cách Nhật hay Cung đình. Tại các quán này thường có những phòng nhỏ kê riêng, ấm cùng và yên tĩnh, khách ngồi trên chiếu hoa quanh cái bàn thấp. Người phục vụ trong trang phục cổ xưa biểu diễn nghệ thuật pha trà. Trong chén trà cung đình nhỏ xíu có đủ các mùi vị khác nhau: vị chát của trà, mùi thơm của cam thảo, vị ngọt dịu của táo tàu, ngọt mát của đường phen? Nhấp một chén trà, cảm nhận hương vị trên đầu lưỡi, chỉ thế thôi cũng đủ làm cho tâm hồn thanh thản, bình yên.
    Nguồn : www.teaofworld.com

Chia sẻ trang này