1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đặng Dung và Cảm hoài

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi bye2romance, 15/01/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. bye2romance

    bye2romance Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2005
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    Đặng Dung và Cảm hoài

    Đặng Dung là con của danh tướng Đặng Tất - theo phò Trần Ngỗi ( hậu duệ nhà Trần ) chống giặc Minh. Bị giặc bắt giải về nước - Trên đường đi họ Đặng nhảy xuống sông tự vẫn.
    Cả sự nghiệp võ tướng của mình - ông lại để lại một bài thơ đầy khí phách

    Thế sự du du nại lão hà,
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca,
    Thời lai đồ điếu thành công dị,
    Vận khứ anh hùng ẩm hận đạ
    Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
    Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà,
    Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
    Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma


    Tất cả những gì em biết chỉ có vậy . Bài thơ này đúng thuộc dạng " Phi hào kiệt chí sĩ bất năng "
    Có ai biết thêm thông tin gì thì chia sẽ nhé
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Xin bạn cho bản dịch nghĩa tiếng Việt bằng văn xuôi .
    Đừng cho bản dịch thành thơ nhé.
    Nếu không, thì cho nguyên văn chữ Hán cũng được.
  3. langxettu

    langxettu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    221
    Đã được thích:
    0
    Đây ạ,
    "Y?
    -"飮恨s
    ?主o???o軸
    -."路O天河
    o<讐o報頭.^T
    幾度龍?^o^磨
    Phổ thông em đã học bài này rồi, nhưng em biết từ rất lâu, khi tình cờ đọc truyện Mài kiếm dưới trăng . Hồi đó do còn nhỏ, nên em chả biết Đặng Dung là ai cả, còn tưởng đó chỉ là truyện kiếm hiệp của Tàu nữa.
    Tìm trên google thấy 1 bản dịch :
    1- Việc đời còn dằng dặc mà mình đã già mất rồi,
    2- (vậy nên) đất trời mênh mông thu lại là một cuộc say hát (mà thôi).
    3 - Gặp thời bọn giết heo, bọn câu cá cũng thành công dễ,
    4- (nhưng) lỡ vận thì anh hùng cũng đành nuốt hận nhiều .
    5- Giúp chúa có lòng đỡ trục trái đất,
    6- (nhưng tiếc rằng) rửa binh không có đường kéo sông trời .
    7 - Nợ nước chưa báo được đầu đã sớm bạc,
    8- (đáng tiếc thay) đã bao phen mài gươm Long Tuyền dưới ánh trăng.
    Được langxettu sửa chữa / chuyển vào 00:21 ngày 16/01/2006
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Xin góp ý một chút.
    Sau đây là vài chỗ tôi làm rõ thêm, không có ý dịch đâu:
    Cảm hoài
    1- Việc đời còn dằng dặc mà mình đã già
    không cách nào ngăn được.
    5- Kính chúa có lòng đỡ trục đất,
    6- Rửa binh không có đường kéo sông trời .
    7- Quốc cừu chưa báo đầu đã bạc trước,
    8- Đã bao phen gội trăng mài gươm Long Tuyền.
    Dịch là "trục trái đất" thì hiện đại quá .
    Lúc đó người Việt chưa biết có trái đất,
    nên không biết có trục trái đất.
    Có lẽ chỉ là một khái niệm một cái trục nặng nề trần thế thôi.
    Thiên hà dịch là sông trời thì có lý hơn, chứ không có nghĩa
    là Solar System.
    "Rửa binh" thì tôi không rõ ý ra sao.
  5. bye2romance

    bye2romance Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2005
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    Mình cũng xin đính chính 1 tẹo
    Thời lai đồ điếu thành công dị &lt;-- nghĩa là "Gặp thời bọn giết heo, bọn câu cá cũng thành công dễ " nhưng không nên hiểu 1 cách thông thường như vậy
    Đồ , Điếu ở đây người xưa nhắc đến đi liền với tích " Khương Tử Nha câu cá thời vận " . Vận đến thì chẳng phải đi đâu tìm kiếm - còn không có thì anh hùng cũng đành lỡ bước mà thôi
  6. mabun

    mabun Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    1
    Xin trích 1 bài trong trang xuquang.com: Tưởng Niệm: Danh Nhân xứ Quảng - Bài nói về Đặng Dung để mọi người cùng tham khảo
    -------------------------------------------------------
    Thi sĩ và danh tướng : Ðặng Dung
    Đầu bạc giang san thù chửa trả,
    Long tuyền mấy độ bóng trăng soi. ​
    Tiểu Sử: Danh tướng Đặng Dung, sinh không rõ mất năm 1413. Ông người Nghệ An nhưng theo gia đình vào lập nghiệp tại vùng đất nay thuộc tỉnh Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông cùng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy rước Trần Quý Khoách về Nghệ An lập lên vua Trùng Quang quyết liệt kháng Minh. Năm 1413 ông cùng vua Trùng Quang bị bắt giải về Tàu, nửa đường ông trầm mình tự tử. Ngoài gương anh hùng tiết liệt, Đặng Dung còn được xem như một nhà thơ lớn của dân tộc mặc dù ông chỉ để lại một ít bài thơ, trong đó có bài Cảm Hoài nỗi tiếng. Sau đây là một bài viết phân tích bài thơ Cảm Hoài của ông.

    Thi Nhân, Tráng Sĩ Đặng Dung và thi phẩm Cảm Hoài
    Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do
    Trong lịch sử có những tráng sĩ, danh tướng ngẫu nhiên làm một vài bài thợ Thơ của họ được người đời sau biết đến là nhờ danh tiếng của họ lưu trong lịch sử. Lý Thường Kiệt, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư nằm trong trường hợp nàỵ Nói đến Lý Thường Kiệt người ta nhắc tới bài thơ có câu "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Nói tới Trần Quang Khải người ta kể "Đoạt sáo Chương Dương độ". Và nói tới Trần Khánh Dư người ta đề cập tới bài Bán Than. Đó là trường hợp từ danh của tướng người ta liên tưởng tới thơ của họ. Trường hợp của Đặng Dung ngược lại: từ thơ người ta liên tưởng tới cuộc đời của ông. Đặng Dung làm thơ nhiều hay ít không rõ, chỉ biết ông có một bài duy nhất được lưu lại, đó là bài Cảm Hoài (hay Thuật Hoài). Với bài này tên ông đã có chỗ đứng trong văn học sử, và người đời sau khi đọc bài thơ không thể không khen cái hay của nó. Yêu thơ, muốn tìm hiểu thêm về tâm sự và cuộc đời tác gỉa, người ta sẽ thích thú khi biết rằng ông là một nhà ái quốc tuyệt vời, một dũng tướng can trường, một nhân kiệt hiếm có, một tráng sĩ hiên ngang, khí phách sống vào thời Trần mạt. Bài Cảm Hoài của ông nguyên tác bằng chữ Hán, phiên âm như sau:
    Thế sự du du nại lão hà, (*)
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca, (*)
    Thời lai đồ điếu thành công dị,
    Vận khứ anh hùng ẩm hận đạ (*) (1)
    Trí chúa hữu hoài phù địa trục, (*)
    Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà, (3)
    Quốc thù vị báo đầu tiên bạch ,(*) (2)
    Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt mạ
    Lý Tử Tấn, một học gỉa thời Lê, tác gỉa Chuyết Am Văn Tập, khi đọc bài thơ này đã hết lời ca tụng người sáng tác ra nó là "phi hào kiệt chi sĩ bất năng" (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể sáng tác được như vậy).
    Ta hãy lược qua thân thế của tác gỉa để có thêm chất liệu soi sáng thêm cho phần thưởng thức bài thợ Đặng Dung sinh và mất năm nào không rõ, chỉ biết ông là người làng Tả Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh. Thân phụ ông là Đặng Tất làm quan triều Trần. Khi quân Minh do Trương Phụ thống lãnh chiếm nước ta, năm 1407 Đặng Tất cùng đồng liêu là Nguyễn Cảnh Chân theo giúp Giản Định Đế chống quân Minh. Nhưng Giản Định Đế nghe lời xiểm nịnh giết cả Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị, con Nguyễn Cảnh Chân, vì đại cuộc quên thù nhà, đem quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa, tôn Trần Qúy Khoáng lên làm vua, đó là Trùng Quang Đế, để tiếp tục sự nghiệp chống Minh. Chiến công đáng ghi nhớ nhất trong đời ông là đánh úp doanh trại quân Minh trong một đêm của tháng 9, năm 1413. Ông và một vị tướng khác là Nguyễn Suý cầm đầu một toán quân xung kích nhảy lên thuyền tướng giặc, tính bắt sống, nhưng nhờ đêm tối Trương Phụ đã thoát hiểm.
    Thời Trần mạt, tráng sĩ, nghĩa sĩ khá đông, ngoài cha con ông, và cha con Nguyễn Cảnh Dị còn có kẻ sĩ can tràng Nguyễn Biểu, dũng sĩ hiên ngang Nguyễn Suý, v.v.. nhưng vì nghiệp nhà Trần đã hết, vận nước gặp hồi điêu linh, nên tất các cuộc khởi nghĩa chống quân thù đều thất bại, và bao nhiêu kiệt sĩ đã phải ngậm đắng nuốt cay vì vận mạt. Sau khi cuộc kháng chiến thất bại, vua Trùng Quang và các tướng tá bị bắt, có sách ghi là ông ở trong đám người bị bắt đó. Trên đường bị giải về Yên Kinh ông và vua Trùng Quang đã nhảy xuống sông tự vẫn.
    Bây giờ chúng ta lắng nghe Đặng Dung dãi bầy nỗi cảm hoài qua 8 câu thơ của ông :
    1- Việc đời còn dằng dặc mà mình đã già mất rồi,
    2- (vậy nên) đất trời mênh mông thu lại là một cuộc say hát (mà thôi).
    3 - Gặp thời bọn giết heo, bọn câu cá cũng thành công dễ,
    4- (nhưng) lỡ vận thì anh hùng cũng đành nuốt hận nhiều (2).
    5- Giúp chúa có lòng đỡ trục trái đất,
    6- (nhưng tiếc rằng) rửa binh không có đường kéo sông trời (3).
    7 - Nợ nước chưa báo được đầu đã sớm bạc,
    8- (đáng tiếc thay) đã bao phen mài gươm Long Tuyền dưới ánh trăng.
    Bài thơ mở ra bằng cái bi phẫn của thi-nhân-tráng-sĩ, ngao ngán vì việc đời còn ngổn ngang mà tuổi đã xế chiềụ Bi phẫn đó dẫn đến lời ngậm ngùi: trời đất mênh mông rút lại không chừng chỉ còn là một cuộc say hát nghêu ngaọ Ta bắt gặp ý niệm tương tự nơi Tiêu Sơn Tráng Sĩ thời Lê mạt. Khi cuộc phục Lê đã vô vọng, tình yêu với Trương Quỳnh Như không thành, Chiêu Lì Phạm Thái đã trốn vào rượu, suốt ngày ngâm câu "Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu, không đong đầy đôi mắt mỹ nhân".
    Rồi từ nỗi chán chường đó thi nhân tự tìm an ủi trong triết lý về thời và vận, đầy chua cay nhưng không kém ngạo nghễ: "Thời lai đồ điếu thành công dị, vận khứ anh hùng ẩm hận đa!" Coi thường Phàn Khoái (dũng tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang vốn làm nghề giết heo - đồ là kẻ giết heo ) nghe còn tạm xuôi nhưng khinh thị Hàn Tín (đại nguyên soái của Hán Cao Tổ, khi hàn vi là anh đi câu cá kiếm ăn - điếu là đi câu cá) thì thật qúa đáng. Bởi Hàn Tín là một đại tướng lừng danh của lịch sử Trung Quốc, một trong mấy hào kiệt đã giúp chúa dựng nên đế nghiệp vẻ vang. Nhưng tại sao đọc hai câu thơ này ta không thấy chướng tai, mà lại thấy lời thơ hùng tráng và ý tứ ngậm ngùi- Bởi vì Đặng Dung là một tráng sĩ ... thất bại, nhất là thất bại trong sứ mạng phục quốc. Người ta thường chỉ chê những kẻ công thành, danh toại mà có những lời ngạo mạn, nhưng lại thông cảm và thích thú với lời ngạo nghễ, khinh bạc của những kẻ có chí, có tài nhưng lỡ thời, lỡ vận. Bài thơ được nhiều người ưa thích, và truyền lại cho hậu thế một phần có thể là nhờ hai câu thơ hùng tráng và đầy ngạo nghễ nàỵ Đối với những hào kiệt lỡ vận nó là một lời an ủi thấm thía, một phản ảnh tâm lý tuyệt vờị Suốt dòng lịch sử đấu tranh của dân tộc ta, biết bao nhiêu anh hùng đã lỡ vận, đã có tâm sự bi phẫn giống như tâm sự của người tráng sĩ làng Thiên Lộc, khi đọc hai câu thơ này chắc là họ sẽ thấy thấm lắm.
    Nếu bốn câu đầu của bài thơ phản ảnh suy tư và triết lý thời vận của nhà thơ thì bốn câu sau phản ảnh tâm sự và tấm lòng của ông đối với dân, với nước. Người hào kiệt ấy dốc lòng nhận trách nhiệm, sẵn sàng ghé vai khiêng trái đất, kéo sông trời mà gột giáp binh để đem độc lập về cho đất nước, mang thanh bình lại cho muôn ngườị Bao phen mài gươm kiên nhẫn đợi chờ mà thời vẫn chẳng chiềụ Bài thơ khép lại bằng hình ảnh của một bạch đầu tráng-sĩ dưới nguyệt mài gươm đầy thơ mộng, hào hùng, và ***g lộng một tấm lòng phục quốc khôn nguôi. Đem tiểu sử soi chiếu vào thơ, người ta càng thêm cảm phục tấm lòng của kẻ đã vì nợ nước coi nhẹ thù nhà, đã tận tụy với quê hương cho tới khi lâm tử. Bài thơ của ông qủa thật tuyệt vời cả ý lẫn lời.
    * Ngoài một số bài thơ Đường, có lẽ Cảm Hoài của Đặng Dung là bài thơ chữ Hán có nhiều người dịch nhất. Vì sự hạn hẹp của ngôn ngữ và sự phong phú của thơ, người dịch khó lòng chuyển được hết ý quấn quýt, tứ súc tích, lời hào hùng, khí ngạo nghễ, hồn ***g lộng của bài thơ.
    Ba chữ "nại lão hà" ở cuối câu 1 nửa như lời tự hỏi đầy ngao ngán: gìa rồi ư ? già mất rồi ử. Nửa như trách móc thời gian: sao vội bắt gìa! (nại hà: làm sao, thế sao, nài nỉ sao). Về ba chữ "nhập hàm ca" ở cuối câu 2, nếu hiểu hàm và ca tách biệt nhau thì ý thơ thành ra: rút lại chỉ còn là say sưa và ca hát (nghêu ngao); nếu hiểu hàm giúp nghĩa cho ca thì ý thơ có thể hiểu là: rút lại chỉ còn là cuộc hát say sưa, mê mải (cho quên chuyện đời) . Sâu kín trong hồn của hai câu thơ là cái triết lý: với khoảng đời sống trong thời gian vô tận (thế sự du du) và không gian không bờ (thiên địa vô cùng) con người sẽ khó thực hiện được hoài bão lớn lao.
    Hai câu 3 và 4 tương đối dễ dịch nghĩa nhưng lột được cái khí ngạo nghễ của tứ, và điệu mạnh mẽ của lời lại không dễ. Hai chữ "đồ điếu" vừa khinh bạc (bọn hèn kém giết heo, câu cá), vừa ngạo nghễ (những thứ như Phàn Khoái, Hàn Tín) giữ nguyên được ý thì lời không được sáng rõ, mà thoát dịch cho được lời rõ thì khó mà gồm được cả hai ý. Sự khó khăn trong việc dịch 2 câu thơ này là ở chỗ đó. Và trên thực tế chưa có ai dịch được cả ý lẫnn lời của hai câu này một cách thành công hoàn toàn.
    Trong câu 5 "phù địa trục" được dùng thật gợi hình và lạ lùng. Gợi hình vì hình ảnh một tráng sĩ ghé vai khiêng trái đất làm ta liên tưởng tới cái ý vừa chấp nhận trọng trách nặng nề, vừa tận tụy thi hành. Lạ lùng vì địa trục gây cho ta ấn tượng trái đất hình cầu trong khi ở đầu thế kỷ 15 người ta chưa biết được trái đất hình cầu, vậy hẳn là Đặng Dung cũng chưa biết, không hiểu tại sao ông lại dùng được hai chữ đó- Địa trục lại đối chọi một cách thú vị với thiên hà ở câu dưới. Câu 6 tứ thơ khó chuyển vì điển tích "vãn thiên hà" và từ "binh" để chỉ binh khí . Ý sâu kín trong hai câu thơ là tấm lòng của ông đối với nước (câu 5), và hoài bão của ông mong đem thanh bình đến cho dân (câu 6), cho nên dịch được cả ý và lời của hai câu 5, 6 này rất khó. Khó không kém gì câu 3 và câu 4 ở trên, có phần khó hơn vì cai ý ẩn sâu mà người đọc thơ phải? đào kỹ mới thấỵ
    Gợi hình nhất của bài thơ là hai câu cuối, đúng là thi trung hữu họạ Rất nhiều người sẽ yêu hai câu thơ này vì hình ảnh hào hùng của của một tráng sĩ bạc đầu vẫn kiên gan mài kiếm dưới trăng. Nó rực rỡ hơn nhiều hình ảnh Tôn Thất Thuyết ngồi cầm gươm chém đá trong những ngày tàn của cuộc đờị Nó tuyệt vời hơn nhiều hình ảnh một thi sĩ Cao Tần vác thanh kiếm gẫy lên non vạch đất nhớ quê hương.
    Bài thơ, về khía cạnh riêng, phản ảnh hoàn cảnh, tâm sự và hoài bão của tác gỉa, nó gây cảm ứng đồng điệu nơi người đọc. Về khía cạnh chung nó làm rung động sâu xa mỹ cảm nơi người đọc vì hình ảnh và nhạc điệu phong phú của nó.
    Vì bài thơ có qúa nhiều ưu điểm nên người ta khó lòng dịch được hết cái haỵ Để thưởng thức trọn vẹn bài thơ, có lẽ ta nên đọc va thưởng thức thẳng vào nguyên tác. Tuy nhiên ở đây chúng tôi cũng xin chép lại mấy bản dịch đã sưu tầm được, và chúng tôi cũng dịch một bản, hy vọng những bản dịch này sẽ gây thêm hứng vị cho độc gỉa.
    * 1. Bản dịch của Phan Kế Bính, trích trong VN Sử Lược của Trần Trọng Kim
    [
    i]Việc đời bối rối tuổi gìa vay,
    Trời đất vô cùng một cuộc say,
    Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
    Anh hùng lỡ bước ngẫm càng caỵ
    Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
    Giáp gột sông trời khó vạch mâỵ
    Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
    Gươm mài bóng nguyệt biết bao ràỵ ​
    2. Bản dịch trong Việt Nam Nhân Vật Chí Vựng Biên của Hồ Đắc Hàm và Thái Văn Kiểm
    Tuổi về gìa, phải thời bối rối,
    Cả đất trời một hội mê say,
    Gặp thời kẻ dở nên hay,
    Anh hùng lỡ vận, đắng cay trăm phần.
    Lòng cứu chúa muốn vần trái đất,
    Gột giáp binh khôn dắt sông trời.
    Thù còn đầu đã bạc rồi,
    Mấy phen dưới nguyệt chuốt mài lưỡi gươm. ​
    3. Bản dịch của Phan Võ
    Việc thế lôi thối tuổi tác này,
    Mênh mông trời đất hát và say,
    Gặp thời đồ điếu thừa nên việc,
    Lỡ vận anh hùng luống nuốt caỵ
    Giúp chúa những lăm giằng cốt đất,
    Rửa dòng không thể vén sông mâỵ
    Quốc thù chưa trả già sao vội,
    Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầỵ ​
    4.Bản dịch của Đào Hữu Dương
    Tuổi gìa lận đận nỗi tình đời,
    Vô tận vần xoay khoảng đất trời,
    Ti tiện gặp thời lên chẳng khó,
    Anh hùng lỡ bước hận nhiều thôi.
    Vác non phò chúa trên vai nặng,
    Gột giáp qua mây mặt nước trôi
    Thù nước chưa xong đầu sớm bạc,
    Dưới trăng mài kiếm mấy thu rồi. ​
    5. Bản dịch của Vũ Hải Tiêu
    Thế cuộc mênh mang tuổi sớm gìa,
    Đất trời thu lại chỉ say ca,
    Gặp thời đồ điếu thành công dễ
    Lỡ vận anh hùng nuốt hận đa.
    Giúp chúa những mong nâng địa trục,
    Rửa binh không lối kéo thiên hà.
    Quốc thù chưa trả đầu mau bạc,
    Bao độ mài gươm dưới nguyệt tà. ​
    6. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
    [
    i]Việc đời man mác, tuổi già thôi!
    Ðất rộng trời cao chén ngậm ngùi
    Gặp gỡ thời cơ may những kẻ
    Tan tành sự thế luống cay ai !
    Phò vua bụng những mong xoay đất,
    Gột giáp sông kia khó vạch trời.
    Đầu bạc giang san thù chửa trả,
    Long tuyền mấy độ bóng trăng soi. [/i] ​
    7. Bản dịch của Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do
    Thế sự ngổn ngang tuổi luống rồi,
    Đất trời thu lại hát say thôi,
    Anh hùng nuốt đắng khi tàn vận,
    Đồ điếu nên công lúc gặp thời.
    Giúp chúa rắp tâm nâng trái đất,
    Rửa binh khôn lối kéo sông trời.
    Quốc thù chưa báo đầu mau bạc,
    Bao độ gươm mài bóng nguyệt soi. [/i] ​
    Chú thích:
    (*) Bàn chép khác: câu 1: Thế lộ du du ... câu 2: Nhập thù ca, câu 4: Sự khứ anh hùng ... câu 5: Trí chúa hữu tâm, câu 7: Quốc thù vị phục đầu tương bạch.
    (1) Hai chữ "đồ, điếu" ở câu 4 là chỉ Phàn Khoái, làm nghề đồ tể trước khi ra giúp Lưu Bang, và Hàn Tín, lúc còn hàn vi đi câu để chờ thời, sau cầm quân giúp Lưu Bang dẹp Tần, Sở lập nên nhà Hán.
    (2) Câu 6 lấy ý từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã của Đỗ Phủ, thời Đường bên Trung Hoa: "An đắc tráng sĩ vãn Ngân Hà, Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng" (Ước gì có kẻ tráng sĩ kéo sông Ngân Hà, rửa sạch giáp binh để lâu dài không phải dùng tới nữa. Ý để chỉ sự hòa bình lâu dài.
  7. Half_life

    Half_life Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    389
    Đã được thích:
    0
    Năm rồi đài truyền hình làm phim "Trùng Quang tâm sử" (Quyền Linh đóng) nói đến những câu chuyện này nhưng anh em sống ngoài nước thì chưa được xem . Hay dở thế nào cũng là lịch sử nước nhà . Bác nào có biết source thì cho anh em biết để download về để cùng bàn luận thì tuyệt !
  8. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Hai ông vua nhà "Hậu Trần" kém quá, có lúc công cuộc chống Minh đạt được những bước tiến quan trọng thế mà đã nghi ngờ, giết hại trung thần để đến nỗi....
    Về bài thơ của Đặng Dung mình cũng đã đọc qua, có 1 câu rất nổi tiếng đó là " mài kiếm dưới trăng", tớ cũng có 1 quyển truyện về ông cũng với tiêu đề "Mài kiếm dưới trăng"...Tiếc cho 1 vị tướng trẻ đã ko thoả được ý nguyên của cuộc đời để rồi vua tôi đành tuẫn tiết trên sông, giữ trọn loang trung chinh với Tổ Quốc
  9. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    mình cũng thích bài thơ này lắm, nhưng theo trí nhớ của mình thì câu 5 là "vai khiêng trời đất mong phò chúa". Mình không biết chữ Hán nhưng mình thực sự không tin là 1 dịch giả tài năng như Phan Kế Bính lại dùng 1 từ hiện đại "trái đất" khi dịch 1 bài thơ cổ cách thời Phan Kế Bính 500 năm (VN Sử Lược của Trần Trọng Kim bản in gần đây)
    - mà đọc bài trên, thấy mấy cây bút của trang xuquang.com chỉ được cái tán tụng là giỏi.
    ==========
    - muốn hỏi trình độ của tớ -&gt; hỏi 3 học trò của tớ : gmail, tmkien, FNguyen1. Từ ngày có tớ dạy dỗ, tmkien hiền lành hẳn. Ngay học trò khó bảo gmail, giờ cũng thấy hiện lành rồi, bắt đầu chuyển sang tranh luận LSVN trước 1945, cũng như bỏ những chữ ký "nhạy cảm". Ôi, có ai hiểu trò bằng thầy !
    - Nhớ tới công lao dạy dỗ của tớ, gmail, học trò xuất sắc nhất, còn đề cử tớ làm mod/admin ở box này. Nhân đây, cảm ơn gmail đã có lòng hiếu kính tới thầy, nhưng mà học trò mà đề cử thầy thì không khách quan, anh em trong box không phục. hơ hơ.
    - học trò tmkien, liên minh trưởng liên minh anh em sinh trăm nguyenxxx, được tớ dạy dỗ, nhưng do bản tính sẵn có, cay cú thầy, thường huýt sáo ra hiệu cho anh em sinh trăm nguyenxxx vào bầu cho thầy 1 sao. Ôi, có ai hiểu trò bằng thầy !
    - sắp nhận thêm học trò mới : MDB.
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    "phù địa trục" nghĩa là đỡ một cái trục bằng đất, có ý nói
    những cái nặng nề, vật chất, để đối với sông trên trời, là cái
    trong sạch siêu hình .
    Dịch là "trời đất" thì vừa không đúng, vừa không đối chỉnh với
    vế dưới.
    Dịch là "trái đất" thì hẳn là vượt thời đại rồi.
    Chúng ta chỉ biết các bản dịch thơ để tham khảo, chứ tốt nhất
    nên hiểu theo bản giải thích bằng văn xuôi, nếu không biết đọc
    nguyên văn.
    Nhớ ngày xưa, tôi 16 tuổi, trong giờ học văn, những đoạn trích
    dẫn Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, cũng không hiểu hết nghĩa,
    chứ đừng nói đến văn thơ bằng tiếng nước ngoài. Ngày nay có
    hiểu được văn thơ cổ, tôi cũng đều học từ những bài giảng văn
    của người giỏi viết sẵn.
    Người Trung Hoa muốn hiểu một đoạn văn thơ cổ mà chưa
    biết, cũng phải đọc những tài liệu giải thích mới hiểu được.
    Bản dịch âm Hán Việt có chỗ
    "nại hà" có nghĩa là sự tình cứ như thế ngoài cố gắng của mình,
    mình không biết làm sao được. "Nại lão hà" tức là cứ già đi mà
    mình không trẻ mãi được để làm, hoặc mình không thể làm
    những việc mình muốn khi còn trai trẻ. Xài từ ngữ này, người
    viết nói lên cái bực tức, bồn chồn, nôn nao, nóng nảy của mình.
    "Trí chúa" có thể dịch âm khác là "Chí chủ" nghĩa là "kính thờ chủ." Âm "trí" không chính xác, và dễ nhầm với chữ "trí" có nghĩa
    khác. Trong văn Việt, chủ và chúa xài lẫn lộn.
    "Quốc thù" còn có âm khác là "quốc cừu" cùng nghĩa .
    "Đới nguyệt" còn có âm bắc là "đái nguyệt" có nghĩa "đội,
    choàng." Âm Hán Việt của miền bắc và miên Nam có nhiều
    khác nhau, mà một trong những lý do, là lý do chính trị, khi 2
    miền kỵ huý 2 triều đình khác nhau . Ví dụ: hoàng/huỳnh, võ/vũ.
    Tôi học chữ Hán thời mới, nên chỉ đóng góp chút xíu . Phần lớn
    vẫn phải học hỏi những người giỏi văn cổ.

Chia sẻ trang này