1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Dành cho những thắc mắc, trao đổi nhỏ về Lịch sử - Văn hoá

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 10/06/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. VHL

    VHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/07/2001
    Bài viết:
    1.509
    Đã được thích:
    0
    Các bác ơi, cho em hỏi chút.
    Hồi xưa bọn lính Hàn sang VN thường đóng quân/ở đâu nhỉ.
    Em cám ơn.
  2. MinhQuanTB

    MinhQuanTB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/11/2008
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0

    1
    Tên làng
    Phạm Minh Đức
    Đất đai Thái Bình đã có lịch sử 3000 năm, nhưng con người mới có các mặt trên vùng đất cách ngày nay khoảng 2500 năm trở lại. Theo truyền thuyết thì từ thời Hùng Vương thứ 15, con người mới có mặt trên vùng đất này. Những hiện vật tìm thấy như trống đồng ở làng Còng (Minh Tân Hưng Hà) giáo đồng, mũi tên đồng ở Ô cách (Quỳnh Xá Quỳnh Phụ) và những ngôi mộ cổ rải rác ở Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Vũ Thư? đã minh chứng thêm cho các truyền thuyết nói trên. Những năm gần đây qua kết quả nghiên cứu, các nhà địa chất cũng đưa ra những kết luận tương tự về tuổi của đất Thái Bình và sự có mặt của con người trên vùng đất ấy.
    Đồng thời với sự có mặt của con người là việc hình thành nên các xá, các làng. Theo từ điển tiếng Việt xá là những điểm dân cư cùng dòng họ như Bùi Xá, Phạm Xá, Trần Xá, Nguyễn Xá? Làng là những cộng đồng dân cư được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài do nhiều dòng họ hợp thành. Hiện nay một số đình làng vẫn có bài vị thờ các họ có công mở đất: làng Nghìn (Thị trấn An Bài Quỳnh Phụ) thờ ?oBát tính thị tiên tổ? làng Bổng Điền (Tân Lập Vũ Thư) thờ ?othập nhị tính tiên tổ? làng Lại Trì (Vũ Tây Kiến Xương) có ngôi mộ ?ongũ tộc?.
    Làng ra đời thì phải có tên gọi. Ban đầu chỉ là những tên nôm mộc mạc cốt để có tên gọi, để phân biệt làng này với làng khác như : Kênh, Cộm, Nha, Quán (Đông Xuân) Chua, va, giống (Đông La) Bùi, Tăng, Cốc, Phạm (Phong, Phú Châu). Những nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng những làng mang tộc danh, những làng có tên nôm (nhất là những làng có từ kẻ đứng trước) là những làng cổ, ra đời sớm. ở Thái Bình, qua điều tra hiện còn : 56 làng mang tộc danh, nhiều nhất là họ Bùi (13) Đào (6) Phạm (3)? và hơn 370 làng có tên Nôm. Xếp thứ tự nhiều ít; Hưng Hà (118) Quỳnh Phụ (89) Đông Hưng (77)? huyện Tiền Hải không có làng nào có tên Nôm.
    Từ khi nhà nước quản lý đến cấp cơ sở đặc biệt là từ khi nho giáo chiếm vị trí thống trị, được nhà nước phong kiến coi trọng thì làng có thêm tên chữ. Những làng cổ ngoài những làng mang tộc danh, những làng có tên nôm đều có thêm tên chữ, những làng mới lập vài ba trăm năm thường chỉ có tên chữ. Việc đặt tên chữ cho làng được người xưa coi trọng cân nhắc chọn những chữ có ý nghĩa.
    Ngày nay các cụ già ở làng Thượng Liệt (Đông Tân Đông Hưng) vẫn còn nhắc lại câu ca:
    Mất mười mẫu ruộng của dân
    Xin quan được bốn chấm chân tên làng
    Và kể rằng : Làng Giắng có tên chữ là Thượng Liệt. Chữ liệt mà không có 4 chấm chân là xếp loại là què (?) đến triều Nguyễn dân làng họp bàn trích bán 10 mẫu ruộng công lấy tiền lo lót cho quan huyện thêm 4 chấm hoả vào chữ liệt để thành oanh liệt (?).
    Người xưa đặt tên chữ cho làng thường có ý tứ :
    - Thứ nhất mong cho làng được bình yên (an cư lạc nghiệp) nên nhiều tên làng, nhiều địa danh có chữ bình, chữ yên (an).
    - Thứ hai mong cho làng, cho con cháu trường tồn, phát triển, thường có chữ thọ, lộc, phú.
    - Thứ ba mong cho con cháu sống có đạo đức: Lễ Nghĩa, Tử Tế?
    - Thứ tư miêu tả địa thế của đất như Cát Hộ (cừa cát) Hà Nội (vùng quê trong sông, nước) Phú Khê (cùng quê nhiều sông nước)?
    Cũng cần hiểu rằng ?olàng? là tên dân gian thường gọi còn trong sổ sách hành chính, thì gọi là xã, dưới xã còn có thôn, xưa cũng từng có xã một làng, xã hai ba bốn làng theo cách nói nhất xã nhất thôn, nhất xã nhị, tam, tứ? thôn.
    Sau cách mạng tháng 8 ?" 1945, cấp xã được tổ chức lại với nhiều làng nên có lúc đã gọi đại xã, làng dù to, nhỏ đều gọi là thôn.
    Tên xã được đặt mới thường là tên các địa danh lịch sử, các anh hùng dân tộc, các liệt sĩ của Đảng. Thời kỳ 1955 ?" 1956 xã được chia nhỏ, nhiều xã lại đổi tên các huyện Đông Quan, Thái Ninh, Thuỵ Anh, Quỳnh Côi, Vũ Tiên lấy tên đầu của huyện ghép với một từ nữa thành tên xã. Huyện Phụ Dực lấy chữ An làm chữ đầ1ỷ huyện Tiền Hải chia theo khu Đông, Tây, Nam.
    Vào thập kỷ 60 -70 của thế kỷ XX, các hợp tác xã nông nghiệp được tổ chức khắp các làng xã. Khi hợp tác xã còn ở quy mô thôn thì tên thôn (làng) còn được dùng sau cụm từ hợp tác xã nhưng khi hợp tác xã được mở rộng quy mô đến xã, các đội sản xuất được gọi theo số thứ tự 1, 2, 3,? Từ cuối thập kỷ 80, tổ chức xóm ra đời thay cho các đội sản xuất cũng được gọi theo số thứ tự? gần 4 thập kỷ tên thôn (làng) chỉ còn tồn tại trong trí nhớ của người già, lớp trẻ không biết tên thôn (làng) mình là gì.
    Từ đầu thập kỷ 90 phong trào ?oxây dựng làng văn hoá? được nhân dân hưởng ứng sâu rộng, văn hoá làng, văn hoá dân tộc, truyền thống được khơi dậy nhưng phong trào gặp trở ngại vì không gắn với một cấp hành chính. Năm 1998 nghị quyết trung ương V khoá VIII ra đời với mục tiêu ?oXây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc? Thực hiện nghị quyết V không thể không làm thức dậy, không phát triển những truyền thống văn hoá ở các làng quê. Bởi ?oTừ cái cơ sở làng mà chúng ta có được những gia đình, những nhân tài, rồi những phong tục tập quán, những thiết chế và những công trình công cộng? Từ khi có làng mọi thế hệ đều gắn bó với làng và dù dưới triều đại nào, dù bọn xâm lược đến nước này là người á hay người Âu, dù theo văn minh Đông hay Tây, cái làng chúng ta vẫn kiên cường tồn tại?((*) Nguyễn Duy Quý ?" Văn hoá làng và xây dựng làng văn hoá - Tạp chí giáo dục thời đại số ??.*).
    Vì lí do trên và cũng là nguyện vọng chung của nhân dân, năm 2002 uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định số 65/2002/QĐ-UB về việc tổ chức lại thôn (làng) thay cho xóm. Năm 2003 thôn (làng) đã được tổ chức lại. Nhiều thôn (làng) đã trở lại tên cũ. Một số làng quá rộng, quá đông dân cư được chia nhỏ thành các thôn nhưng dân làng bàn bạc vẫn giữ lại tên cổ, có lịch sử lâu đời, chỉ thêm vào đó những danh số hoặc kèm theo những từ chỉ phương hướng. Một số làng lại trở về tên nôm như xã Hoà Tiến (Hưng Hà) có các thôn: Nhiễm, Vải, Hú, Hoà, Quyến, Bùi, Tịp, Nguộn, Xâm, Lường, Phan ?" chỉ có thôn Tư Nam không muốn dùng tên làng là Cũ nên vẫn đề tên Tư Nam. Xã Thuỵ Ninh (Thái Thuỵ) đặt lại các tên : Gang, Me, Hống, Vân, Bùi, Hệ, Đoài, Cầu Cất. Cũng có một số làng khi chia tách bỏ hẳn tên cũ, thay vào đó tên các anh hùng dân tộc, các liệt sĩ của Đảng, các khẩu hiệu? các xã Đô Lương (Đông Hưng) Vũ Hoà, Vũ Quý, Vũ Trung, Vũ Thắng (Kiến Xương) vẫn gọi tên làng theo số thứ tự. Việc bỏ hẳn những tên cổ của làng là một điều đáng tiếc, nhất là những tên có ý nghĩa lịch sử. Thái Bình đã có những địa danh được ghi trong sử nước như Ngự Thiên, Long Hưng? nay đã không còn. Thái Bình cũng có một làng Đa Dực quê hương của nhà thơ nổi tiếng Phạm Nhữ Dực sống vào đầu thế kỷ XV nhưng vì tên làng Đa Dực không còn nên trong nhiều bộ sách đều chú : ?oKhông rõ Đa Dực ở đâu ??.
    Đất Đông Quang, Đông Xuân ngày nay được sử sách ghi nhận là đất lộc điền của An Hạ Vương và vương phi Đàm Chiêu Trình sống vào cuối Triều Lý đầu triều Trần nhưng chính thức được ghi vào sách ?oTên làng xã Việt nam đầu thế kỷ XIX? với tên gọi xã Hà Nội và xã Yên Lũ, giữa thời Nguyễn xã Hà Nội đổi là xã Trực Nội và có thêm xã Đông Trại.
    Vào thời thuộc Pháp xã Yên Lũ đổi là xã Tự Tân và vẫn có 3 xã Trực Nội, Tự Tân, Đông Trại (Đồng Lan chỉ là một xóm của Tự Tân).
    Sau cách mạng tháng 8 ?" 1945, xã Trực Nội được mở rộng gồm 8 thôn, Côm, Đông Trại, Kênh, Miễu, Lan, Nha, Quán, Tự Tân. Năm 1955 cải cách ruộng đất xã Trực Nội được chia thành 2 xã Đông Quang, Đông Xuân ?" các thôn Kênh, Cộm, Nha, Quán thuộc về Đông Xuân, các thôn Đông Trại, Miễu, Lan, Tự Tân thuộc về xã Đông Quang. Ngoài tên Nôm, các thôn đã lấy các tên anh hùng dân tộc Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Đề Thám, tên liệt sĩ của Đảng Tô Hiệu để đặt tên cho thôn (làng) mình. Như vậy Đồng Lan chính thức được ghi nhận là một thôn từ sau cách mạng tháng 8/1945.
    Năm 2003, sau nhiều năm điều hành theo đội sản xuất, theo xóm, thôn (làng) được tổ chức lại, giúp uỷ ban nhân dân xã thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và khơi dậy những giá trị văn hoá truyền thống. Thôn Đồng Lan được tái lập.
    Theo từ điển tiếng Việt thì ?oĐồng? là khoảng đất trống bằng phẳng để cày cấy, trồng trọt. Còn ?oLan? là mở rộng dần phạm vi ra? Như vậy Đồng Lan là tên đất chứ không phải tên người. Theo các nguồn tư liệu của người xưa còn để lại thì vào thời vua Lê Cảnh Hưng ở làng Yên Lũ huyện Thanh Lan phủ Tiên Hưng có Đào Vũ Thường đỗ tiến sĩ năm 42 tuổi (1746) làm quan đến chức hiến sát sứ. Ông được ban lộc điền (Đây cũng là chính sách khuyến học, khuyến tài thời phong kiến) Đào Vũ Thường không nhận những chân ruộng đã thành ?obờ xôi ruộng mật? mà đưa con cháu ra mở đất ở cánh đồng còn hoang hoá, cạnh làng Yên Lũ, nhờ vậy các ruộng hoang hoá ấy đã thành ruộng thành vườn, có nhà cửa, dân cư? Từ lâu dân làng Yên Lũ và quanh vùng vẫn gọi tên Đồng Lan như tên gọi ngày đầu mở đất và sau cách mạng tháng 8/1945, Đồng Lan đã được thừa nhận là một thôn trong xã Trực Nội rồi xã Đông Quang.
    ?oĂn quả nhớ ơn người trồng cây?, ?ouống nước nhớ nguồn? là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Có làng xóm trù phú, có đồng ruộng tốt tươi như hôm nay là có công sức của bao người đi trước. Thường thì những người có công với làng với nước được dân tôn thờ làm thành hoàng làng, được đời này qua đời khác phụng thờ. Những làng mang tộc danh (Bùi, Trần, Nguyễn) ngày nay không chỉ có những họ ấy sinh sống mà có nhiều họ nhưng dân làng vẫn giữ những tên làng ấy. Tiến sĩ Đào Vũ thường vốn xuất thân là người lao động, trước khi làm quan, ông đã làm thày dạy học, khi khai phá đất đai ông không gắn tên mình, tên họ mình vào với đất mà vẫn để tên đất với đúng nghĩa của nó, thể hiện việc làm tốt đẹp của ông và những người cùng thời mở đất với ông (cánh đồng được mở rộng lan toả ra). Vậy đã là tên đất thì cứ để nó gắn bó với đất.
  3. CMMC0508

    CMMC0508 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    3
    ---------------------------------------------------------
    Lính Hàn Quốc sang Việt Nam Cộng hòa gồm 02 sư đoàn:
    Sư đoàn Thanh Long đóng quân tại Bình Định
    Sư đoàn Bạch Hổ đóng quân tại Phú Yên
    Đặc biệt được huấn luyện Taekwondo rất kỹ càng
    Trong thời gian đầu tiên 2 sư đoàn này có lối đánh phục kích rất khó chịu: Khi lên núi phục kích vào sáng sớm; cứ 1 thằng cõng 1 thằng, phủ áo ngụy trang lên-->cố ý cho bộ đội ta đếm quân số đi lên, sau đó vài hôm lại rút về; quân ta đếm thấy quân số Đại Hàn đã về hết mới yên tâm xuống núi nhận tiếp tế lương thực, thực phẩm ---> dính phục kích và hy sinh hết (có đơn vị bị xóa phiên hiệu do bọn Đại Hàn);
    Sau địa phương quân của 2 tỉnh được huấn luyện võ thuật chu đáo (do một lão võ sư làng Thuận Truyền luyện cho tuyệt kỹ: môn roi đả cọp lừng danh chuyển thành súng trường gắn lê) làm lại 2 trận trùng phục kích quy mô lớn, đánh giáp lá cà làm 2 sư đoàn trên thương vong khá lớn nên Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc Park Chung Hee dưới sức ép của quốc hội đã phải rút quân;
  4. CMMC0508

    CMMC0508 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    3
  5. CMMC0508

    CMMC0508 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    3
    Lưu ý bạn Ck_noy là bạn phải del tòa nhà sứ quán Nhật cũ , nay là Trụ sở của Trung tâm văn hóa Korea đi nhé, tòa nhà này mới được xây dựng mấy chục năm nay thôi.
    Gia đình bà xã mình ở dốc Hàng Kèn đã 5 đời rồi, không mấy ai biết đâu.
  6. CMMC0508

    CMMC0508 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    3
  7. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Các mod làm ơn giải thích dùm về hiện tượng bài và topic của tớ lặng lẽ biến mất không có tăm hơi được không ạ?
  8. kts_june

    kts_june Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    Cho hỏi ai co tài liệu "Đại Nam Lược Sử" và Tập san BAVH ko? Nếu có cho mình xin nhé!
    Cám ơn nhiều
  9. gepard9

    gepard9 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/02/2009
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn, mình là thành viên mới. Xin các bạn giúp đỡ mình nghe
  10. borin1705

    borin1705 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    10/03/2008
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    19
    mấy bác có ai biết tại seo Bác Hồ đổi tên thành Hồ Chí Minh ko? em chỉ nghe đồn là lấy tên 1 ân nhân cứu mạng thời ở Hongkong thôi. có bác nào biết về thông tin này chỉ giúp hen

Chia sẻ trang này