1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Dành cho những thắc mắc về chính tả trong Tiếng Việt

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Lissette, 01/08/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    các bạn a. Trọng từ điển Việt Nah, Home Tra mãi mà Không có 2 chữa, RÁNG VÀ CHIỀU. Lúc Home có đi hcj, thì được dạy rằng
    -chìu -> làm theo ý -> chìu chuộng...
    -chiều -> khoảng thời gian sau đứng trưa và tối.
    -rán -> chiên -> rán cá, rán mỡ,...
    -ráng -> cố gắng, ra sức, chịu đựng...
    Nhưng bây giờ thì dường như chữ rán thay dần cho ráng. Không biết để diễn tả ánh nắng ban chiều (tà dương) lúc mặt trời sắp lặn sẽ là rán chiều (!!!!) vì tự điển không có chữ ráng. Như thế nó sẽ đồng nghĩa với ra sức mà lấy lòng một ai đó sao??? Và chữ chìu cũng đồng số phận, mất dần chỗ đứng trong Việt văn. Các bạn có để ý như vậy không?
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 18:45 ngày 24/01/2003
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Còn 2 chữ này hả các bạn:Cái nào đúng vậy
    - ông bà "xui" gia hay "sui" gia ???
    - chia "sẻ" hay chia "xẻ" (share)
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 18:49 ngày 24/01/2003
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Còn 2 chữ này hả các bạn:Cái nào đúng vậy
    - ông bà "xui" gia hay "sui" gia ???
    - chia "sẻ" hay chia "xẻ" (share)
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 18:49 ngày 24/01/2003
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Phụ lục :
    1- Những cái vô lý trong Tự điển Việt-Pháp (Lê Khả Kế + Nguyễn Lân) của nhà xuất bản Khoa học xã hội ở Hà nội.
    Để góp ý về sự bàn cãi về riêng chữ D và GI, vì có nhiều bạn dùng quyển tự điển này để xác định cách viết D và GI, với tất cả lòng kính quí của tôi, tôi xin chép ra đây vài điểm "trục trặc" của hai Cụ Lê-khả Kế và Nguyễn Lân. (Nguyễn Lân, bút hiệu là Từ-Ngọc, tác giả "Cậu bé nhà quê" là thầy dạy pháp văn và việt-văn đầu tiên của tôi, năm 1943)
    2a- Vô lý : Với một tinh thần khẳng định dựa trên quan niệm "tiếng Bắc" được phát âm đúng, nên dùng làm tiêu chuẩn chính tả cho ch" viết, ta có thể thấy nh"ng điểm "ngoan cố" sau đây :
    tr. 195 : con dộng - tr. 752 : con nhộng
    tr. 279 : dấp giọng - tr. 739 : nhấp giọng
    tr. 287 : diếc móc - tr. 745 : tr.nhiếc móc tr. 290 : dịp - tr. 748 : nhịp nhàng
    tr. 295 : dơ bẩn, dơ duốc - tr. 754 ; nhơ nhuốc, nhơ nhớp
    tr. 294 : dồi (boudin) - tr. 751 : nhồi nhét (bourrer) . Có sự lẫn lộn, trong khi sự khác nhau là dồi bột (nhào bột=pétrir) và nhồi nhét (bourrer)
    vân vân...
    Cái vô lý là hai tác giả chỉ dựa vào "thói quen" phát âm của miền Bắc để xác định cách dùng chữ D.
    2b- Chữ D dùng cho những chữ sau đây có thể tạo ra nhầm lẫn, vậy ta nên chọn lực một cách viết. Ví dụ :
    dây (vết bẩn vấy, dính dấp bừa bãi)# dây dưa (kéo dài trong một th(c)i gian dài) # giây (sợi giây, giây phút)
    dấu (vết hằn không phai lạt, để ghi nhận) # giấu (cất giấu)
    Dấm (chất nước chua) # nhấm (ăn, uống từng miếng nhỏ). Không thể dùng dấm dẳng được. (tr.276)
    Dìm (ấn xuống) : không thể viết gìm được vì gì+m hay g+ìm đều "lỗi" chính tả.
    vân vân...
    2c- Tiện đây, nhân lúc xem kỹ những chữ bắt đầu bằng D của quyển tự điển ấy, tôi cũng xin nêu lên một trường hợp sai lầm để, khi ta trân trọng văn học thì ta phải biết suy nghĩ, chứ không nên cúi đầu tuân phục những tự điển gia quá. Ví dụ : dễ ợt = facile comme un bonjour. Tiếng Pháp dùng : simple comme bonjour vì :
    - facile khác với simple
    - phải dùng comme bonjour vì người Pháp dùng dire bonjour à quelqu'un, souhaiter le bonjour à quelqu'un.
    Tóm lại, nếu ta cứ nhắm mắt tin theo các quyển tự điển, trong khi chưa có một viện hàn lâm xác định chính tả Việt nam và từ đó bào chữa cho được "sự viết đúng" của mình thì... lộn xộn lắm. Nên để tự nhiên thì hơn.
    2- Để làm nhẹ bớt nỗi lo của những người viết văn, làm thơ hay đặt lời cho các bản nhạc, tôi xin viết ra đây một bản văn 'khá nổi tiếng" để xem chư vị thiết tha đến sự trong sáng của văn chương việt nam có bị lu mờ hay không.
    Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm thang, cảnh thương tâm ghê gớm hay dịu giàng, cảnh rực rở, ái ân hay giử gội.
    Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi, không chuyên tâm, không chủ nghỉa, nhưng cần chi?
    Tôi chỉ là một khách tình si, ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể. Mượng lấy bút nàng Li-tao tôi vẻ và mượn câu đàng ngàng phiếm tôi ca, vẻ đẹp u chầm, đắm đuối hay ngây thơ, củng như vẻ đẹp cao xiêu, hùng cháng của non nước, của thi văng, tư tưởng...
    Chắc chư vị vẫn hiểu được ?
    Mạnh-Bích
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Phụ lục :
    1- Những cái vô lý trong Tự điển Việt-Pháp (Lê Khả Kế + Nguyễn Lân) của nhà xuất bản Khoa học xã hội ở Hà nội.
    Để góp ý về sự bàn cãi về riêng chữ D và GI, vì có nhiều bạn dùng quyển tự điển này để xác định cách viết D và GI, với tất cả lòng kính quí của tôi, tôi xin chép ra đây vài điểm "trục trặc" của hai Cụ Lê-khả Kế và Nguyễn Lân. (Nguyễn Lân, bút hiệu là Từ-Ngọc, tác giả "Cậu bé nhà quê" là thầy dạy pháp văn và việt-văn đầu tiên của tôi, năm 1943)
    2a- Vô lý : Với một tinh thần khẳng định dựa trên quan niệm "tiếng Bắc" được phát âm đúng, nên dùng làm tiêu chuẩn chính tả cho ch" viết, ta có thể thấy nh"ng điểm "ngoan cố" sau đây :
    tr. 195 : con dộng - tr. 752 : con nhộng
    tr. 279 : dấp giọng - tr. 739 : nhấp giọng
    tr. 287 : diếc móc - tr. 745 : tr.nhiếc móc tr. 290 : dịp - tr. 748 : nhịp nhàng
    tr. 295 : dơ bẩn, dơ duốc - tr. 754 ; nhơ nhuốc, nhơ nhớp
    tr. 294 : dồi (boudin) - tr. 751 : nhồi nhét (bourrer) . Có sự lẫn lộn, trong khi sự khác nhau là dồi bột (nhào bột=pétrir) và nhồi nhét (bourrer)
    vân vân...
    Cái vô lý là hai tác giả chỉ dựa vào "thói quen" phát âm của miền Bắc để xác định cách dùng chữ D.
    2b- Chữ D dùng cho những chữ sau đây có thể tạo ra nhầm lẫn, vậy ta nên chọn lực một cách viết. Ví dụ :
    dây (vết bẩn vấy, dính dấp bừa bãi)# dây dưa (kéo dài trong một th(c)i gian dài) # giây (sợi giây, giây phút)
    dấu (vết hằn không phai lạt, để ghi nhận) # giấu (cất giấu)
    Dấm (chất nước chua) # nhấm (ăn, uống từng miếng nhỏ). Không thể dùng dấm dẳng được. (tr.276)
    Dìm (ấn xuống) : không thể viết gìm được vì gì+m hay g+ìm đều "lỗi" chính tả.
    vân vân...
    2c- Tiện đây, nhân lúc xem kỹ những chữ bắt đầu bằng D của quyển tự điển ấy, tôi cũng xin nêu lên một trường hợp sai lầm để, khi ta trân trọng văn học thì ta phải biết suy nghĩ, chứ không nên cúi đầu tuân phục những tự điển gia quá. Ví dụ : dễ ợt = facile comme un bonjour. Tiếng Pháp dùng : simple comme bonjour vì :
    - facile khác với simple
    - phải dùng comme bonjour vì người Pháp dùng dire bonjour à quelqu'un, souhaiter le bonjour à quelqu'un.
    Tóm lại, nếu ta cứ nhắm mắt tin theo các quyển tự điển, trong khi chưa có một viện hàn lâm xác định chính tả Việt nam và từ đó bào chữa cho được "sự viết đúng" của mình thì... lộn xộn lắm. Nên để tự nhiên thì hơn.
    2- Để làm nhẹ bớt nỗi lo của những người viết văn, làm thơ hay đặt lời cho các bản nhạc, tôi xin viết ra đây một bản văn 'khá nổi tiếng" để xem chư vị thiết tha đến sự trong sáng của văn chương việt nam có bị lu mờ hay không.
    Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm thang, cảnh thương tâm ghê gớm hay dịu giàng, cảnh rực rở, ái ân hay giử gội.
    Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi, không chuyên tâm, không chủ nghỉa, nhưng cần chi?
    Tôi chỉ là một khách tình si, ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể. Mượng lấy bút nàng Li-tao tôi vẻ và mượn câu đàng ngàng phiếm tôi ca, vẻ đẹp u chầm, đắm đuối hay ngây thơ, củng như vẻ đẹp cao xiêu, hùng cháng của non nước, của thi văng, tư tưởng...
    Chắc chư vị vẫn hiểu được ?
    Mạnh-Bích
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Ngoài các vấn đề trên, chúng ta nên lưu ý đến dấu hỏi và ngã. Giáo sư Lê Ngọc Trụ đã đề nghị phương pháp "Tầm nguyên": tìm về cái gốc chữ mà giải quyết các vấn đề trong tự ngữ Việt Nam. Có thể nói đây là vị giáo sư đã suốt đời trút hết tâm huyết để xây dựng tiếng Việt và đã đưa ra nhiều đề nghị hợp lý, đúng đắn . Trong phạm vi dấu hỏi ngã, tầm nguyên có nghĩa là xác định chữ đó là tiếng Việt thuần túy (Nôm) hay tiếng Hán Việt, rồi từ đó mà kết luận về chữ được khảo cứu nên viết dấu hỏi hay ngã. Phương pháp "Tầm nguyên" của giáo sư Lê Ngọc Trụ rất hợp lý, hoàn chỉnh nhưng đi quá sâu vào chi tiết như vậy có thể là điều không thực tế đối với thế hệ hiện nay và về sau bởi vì rất ít người Việt Nam học tiếng Hán vào thời buổi Internet này! Thêm vào đó là có khá nhiều bất đồng giữa các tự vị, cũng như có rất nhiều ngoại lệ về dấu hỏi, ngã gây trở ngại cho việc dạy và học tiếng Việt. Suy nghĩ về cái thực tế này, tôi mạnh dạn đề nghị áp dụng luật "Bổng, Trầm" một cách tuyệt đối để thống nhất cách viết dấu hỏi, ngã. Cứ căn cứ vào thanh âm mà quyết định:
    thanh bổng như ngang, sắc và hỏi thì đánh dấu hỏi và thanh
    trầm như huyền, nặng, ngã thì đánh dấu ngã.
    Thí dụ:
    Thanh ngang: thong thả, vui vẻ, lẻ loi, nghỉ ngơi
    Thanh sắc: kém cỏi, hối hả, ngả ngớn, dở dói
    Thanh hỏi: lỏng lẻo, tỉ mỉ, thỉnh thoảng, thỏ thẻ
    Thanh huyền: rầu rĩ, mưa tầm tã, sẵn sàng, kỹ càng.
    Thanh nặng: cặn kẽ, vội vã, cãi cọ, dữ dội
    Thanh ngã: lỗ lã, lã chã, mãi mãi, đi lẫm chẫm (đẫm)
    Kết luận: Cấu trúc tiếng Việt là một tổng hợp của nhiều tiếng nói của khá nhiều giống dân. Do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên việc xây dựng và thống nhất tự ngữ chỉ có tính cách vá víu, lẻ loi của một số cá nhân. Trong bối cảnh đó, học tiếng Việt có nghĩa là học thuộc lòng chánh tả và ý nghĩa của chữ, đi kèm với việc tra tự vị tiếng Việt mỗi khi mơ hồ.
    Phạm Bân
    --------------------------------------------------------------------------------
    Khảo tiếng Hán Việt
    Phạm Văn Bân
    Lời nói đầu:
    Bài viết này nhằm trình bày các vấn đề thực tế của tiếng Hán Việt trong ngôn tự Việt Nam trên quan điểm thực dụng đại chúng; bỏ qua các liên quan lịch sử cũng như lý luận ngôn ngữ học khó cảm nhận được.
    Với một đề tài rộng lớn và khó khăn như vậy thì bắt buộc phải xảy ra sai sót! Kính mong quý vị rộng lòng tha thứ và bổ túc hoặc sửa sai cho các sai sót, nếu có. Tôi xin thành thật cám ơn trước.
    1)Tổng quát:
    Khi mới thấy cục xà bông lần đầu tiên từ Pháp du nhập vào, người Việt Nam không có tiếng để gọi; vì vậy đọc tiếng Pháp "savon" theo giọng Việt Nam là xà bông. Tiếng xà bông được gọi là tiếng Pháp Việt. Với thời gian sử dụng lâu dài, chữ xà bông tự nhiên hóa thành tiếng Việt, gọi là tiếng Việt có gốc Pháp. Tương tự như vậy, khi ngôn tự Việt Nam mượn tiếng của Mán, Mèo, Tày Đen, Tày Trắng, Tày
    Đỏ, Thổ, Nùng, Lào, Chiêm Thành, Chân Lạp, Anh, Cambodge, v.v... thì gọi là tiếng Mán Việt, Mèo Việt, Tày Đen Việt, v.v...
    Trong lãnh vực ngôn tự, không có vấn đề"tự ái dân tộc", cũng không có chuyện "tiếng nước tôi giàu có, vẻ vang, hay hơn hẳn tiếng nước anh" mà chỉ là một phương tiện để thông đạt với nhau mà thôị Lịch sử tiếng Việt Nam cũng na ná như của các nước khắp nơi trên thế giới: không có chữ thì cứ tự nhiên mượn mà xài, đơn giản vậy thôị Chính vì thế mà khi xét lịch sử ngôn ngữ, người ta kết luận rằng không có thứ tiếng nào được gọi là thuần cả. Trải qua khoảng 8,000 năm, tất cả các tiếng nói đều pha trộn và vay mượn lẫn nhaụ Rồi với thời gian, tất cả đều phát triển, trở nên phong phú và tiến bộ hơn.
    Muốn hay không muốn thì đó vẫn là sự thật. Xin các người Việt Nam "bảo hoàng hơn vua" không nên nóng giận khi tôi viết: tiếng Việt chỉ là một thứ tiếng nói bình thường như mọi thứ tiếng nói trên thế giới, không nghèo nàn mà cũng không giàu có, không có gì vẻ vang mà cũng không có gì nhục nhã, không có gì siêu việt mà chỉ có các đặc điểm riêng như bất cứ thứ tiếng nào khác. Tiếng Việt chỉ là một phương tiện để người Việt thông đạt với nhau; hãy bỏ qua các mánh khóe tuyên truyền, kích động tâm lý không đúng đắn. Nếu có khách quan thì mới biết chỗ hay, chỗ dở của mình mà sửa đổi cho ngày càng khá lên; còn như cứ tự cho tiếng nước mình là "giàu đẹp, phong phú, vẻ vang" hơn tiếng nước khác thì giống y như việc so sánh chó nước tôi khôn hơn chó nước anh, răng bò nước tôi trắng hơn răng bò nước anh; trong khi thực tế khách quan thì cứ hễ là chó thì chó ở nước nào cũng khôn như nhau, cũng biết trung thành với chủ và bò nước nào thì răng cũng trắng cả !
    Thiết nghĩ việc tán dương tiếng Việt quá đáng là cố tình nói sai sự thật, võ đoán và sẽ không thuyết phục được ai cả, nhất là đám con cháu có cơ may học được tinh thần phân tích khoa học của Âu Tâỵ
    Ngoại trừ các tiếng sử dụng trong đời sống hàng ngày như: ăn, ngủ, đi, chạy, cái bàn, cái ghế, cái nhà, con mèo, con chuột, con chó, cục đường, cục đá, cục gạch, cây me, cây ổi, cây trứng cá, v.v... thì tiếng Việt Nam phải mượn rất nhiều từ các tiếng nói khác, đặc biệt là tiếng Mường. Thuở ban đầu lịch sử, có giả thuyết cho rằng giống người Mường chính là giống dân nguyên thủy của người Việt bây giờ.
    Trong cuốn "Chánh tả tiếng Việt", giáo sư Lê Ngọc Trụ viết:
    "Gốc tích dân tộc và văn hóa ở tại Bắc Việt. Có lẽ thời thượng cổ, tổ tiên ta đã cư trú những vùng triền núi, từ sông Đà (Hắc Giang) tới Quảng Bình, gần gũi với dân Mường; dấu vết còn lại là tiếng nói những vùng nầy cũng cứng và có chỗ tương tợ tiếng Mường. Thí dụ:
    Mường: ka, kảy, kốk, kảw
    Hà Tĩnh: ga, gái, kộk, gạw
    Hà Nội: gà, gái, gốc, gạọ
    Dân Mường, dân miền núi, cứ rút lần rải rác vô dãy núi Hoành Sơn. Họ không bị ảnh hưởng văn hóa của nước ngoài, nhất là của hai đại cường quốc Tàu và Ấn nên còn giữ những cổ tục. Tiếng nói của họ cũng không biến đổi nhiềụ Nhờ vậy, so sánh hai thứ tiếng mới thấy tiếng Việt và tiếng Mường có lẽ do một gốc mà rạ
    Dân Việt hay dời dân lập nghiệp, lần xuống đồng bằng, kiếm chỗ đất đai phì nhiêu dễ sanh sống hơn; đó là đồng bằng sông Hồng Hà. (Lúc cổ thời không tiến vào Nam, xứ Lâm Ấp của người Chàm vì lẽ núi non cản trở, đất đai chật hẹp khó sanh sống.) Tiếng nói, nhờ nước sông Hồng Hà cũng "thanh dịu" dần."
    Có lẽ tiếng Mường là gốc của tiếng Việt nhưng sau hơn 2,000 năm lịch sử thì tiếng Việt ngày nay đã rời xa cái gốc về giọng nói cũng như số lượng từ ngữ tất nhiên phải nhiều hơn gấp bội lần do kết nạp thêm tiếng Hán ở phía Bắc và tiếng Mã Lai (cá, đã, sẽ, đang), Môn Khmer (đốt, cháy, mặn, chát, chua), Thái Lan, Chân Lạp, Chiêm Thành ở phía Nam.
    Xét về tỷ lệ mượn chữ thì việc mượn tiếng Hán đặc biệt nhiều khủng khiếp! Nhiều đến nỗi hễ cứ nói hoặc viết thì người Việt Nam, dù có ý thức hay không có ý thức, đều sử dụng rất nhiều tiếng Hán, được đọc theo khẩu âm của người Việt, gọi là tiếng Hán Việt.
    Tiếng Hán Việt đã có trong tiếng Việt Nam ngay từ thuở ban đầu có chủng tộc Việt Nam (trước thế kỷ I), sau đó là thời gian bị Trung quốc đô hộ khoảng 1,000 năm. Trong thời gian này, chữ viết cho cả nước là chữ Hán. Đến thời kỳ độc lập, khoảng 1,000 năm (trừ khoảng 20 năm bị nhà Minh đô hộ vào đầu thế kỷ XV và 100 năm bị Pháp chiếm làm thuộc địa), thì chữ viết vẫn là chữ Hán. Người Việt Nam dùng chữ Hán trong mọi lãnh vực dùng đến chữ: công văn, khoa học, lịch sử, giáo dục, văn chương, v.v... Chỉ mới gần đây (khoảng 100 năm) thì mới có lối chữ abc xuất hiện do công sức của các giáo sĩ truyền đạo Thiên chúa từ nhiều nước đến Việt Nam như: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Pháp, v.v...
    Trải qua suốt một thời gian khoảng 2,000 năm sử dụng chữ Hán liên tục như vậy thì lẽ tất nhiên ảnh hưởng to lớn của chữ Hán là một sự kiện lịch sử khách quan trong tiếng nói và chữ viết Việt Nam.
    Tiếng Việt Nam là thứ tiếng tổng hợp rất nhiều thứ tiếng, trong đó tiếng Hán Việt ước tính chiếm hơn 70%. Vì tiếng Hán Việt nhiều quá, sử dụng lâu quá, phổ thông quá và giọng đọc khác hẳn giọng Trung quốc cho nên có thể nói rằng đa số tiếng Hán Việt đã được Việt hóa rồi; hay nói cách khác, đa số tiếng Hán Việt trong ngôn tự Việt Nam là tiếng Việt có gốc là tiếng Hán.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Ngoài các vấn đề trên, chúng ta nên lưu ý đến dấu hỏi và ngã. Giáo sư Lê Ngọc Trụ đã đề nghị phương pháp "Tầm nguyên": tìm về cái gốc chữ mà giải quyết các vấn đề trong tự ngữ Việt Nam. Có thể nói đây là vị giáo sư đã suốt đời trút hết tâm huyết để xây dựng tiếng Việt và đã đưa ra nhiều đề nghị hợp lý, đúng đắn . Trong phạm vi dấu hỏi ngã, tầm nguyên có nghĩa là xác định chữ đó là tiếng Việt thuần túy (Nôm) hay tiếng Hán Việt, rồi từ đó mà kết luận về chữ được khảo cứu nên viết dấu hỏi hay ngã. Phương pháp "Tầm nguyên" của giáo sư Lê Ngọc Trụ rất hợp lý, hoàn chỉnh nhưng đi quá sâu vào chi tiết như vậy có thể là điều không thực tế đối với thế hệ hiện nay và về sau bởi vì rất ít người Việt Nam học tiếng Hán vào thời buổi Internet này! Thêm vào đó là có khá nhiều bất đồng giữa các tự vị, cũng như có rất nhiều ngoại lệ về dấu hỏi, ngã gây trở ngại cho việc dạy và học tiếng Việt. Suy nghĩ về cái thực tế này, tôi mạnh dạn đề nghị áp dụng luật "Bổng, Trầm" một cách tuyệt đối để thống nhất cách viết dấu hỏi, ngã. Cứ căn cứ vào thanh âm mà quyết định:
    thanh bổng như ngang, sắc và hỏi thì đánh dấu hỏi và thanh
    trầm như huyền, nặng, ngã thì đánh dấu ngã.
    Thí dụ:
    Thanh ngang: thong thả, vui vẻ, lẻ loi, nghỉ ngơi
    Thanh sắc: kém cỏi, hối hả, ngả ngớn, dở dói
    Thanh hỏi: lỏng lẻo, tỉ mỉ, thỉnh thoảng, thỏ thẻ
    Thanh huyền: rầu rĩ, mưa tầm tã, sẵn sàng, kỹ càng.
    Thanh nặng: cặn kẽ, vội vã, cãi cọ, dữ dội
    Thanh ngã: lỗ lã, lã chã, mãi mãi, đi lẫm chẫm (đẫm)
    Kết luận: Cấu trúc tiếng Việt là một tổng hợp của nhiều tiếng nói của khá nhiều giống dân. Do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên việc xây dựng và thống nhất tự ngữ chỉ có tính cách vá víu, lẻ loi của một số cá nhân. Trong bối cảnh đó, học tiếng Việt có nghĩa là học thuộc lòng chánh tả và ý nghĩa của chữ, đi kèm với việc tra tự vị tiếng Việt mỗi khi mơ hồ.
    Phạm Bân
    --------------------------------------------------------------------------------
    Khảo tiếng Hán Việt
    Phạm Văn Bân
    Lời nói đầu:
    Bài viết này nhằm trình bày các vấn đề thực tế của tiếng Hán Việt trong ngôn tự Việt Nam trên quan điểm thực dụng đại chúng; bỏ qua các liên quan lịch sử cũng như lý luận ngôn ngữ học khó cảm nhận được.
    Với một đề tài rộng lớn và khó khăn như vậy thì bắt buộc phải xảy ra sai sót! Kính mong quý vị rộng lòng tha thứ và bổ túc hoặc sửa sai cho các sai sót, nếu có. Tôi xin thành thật cám ơn trước.
    1)Tổng quát:
    Khi mới thấy cục xà bông lần đầu tiên từ Pháp du nhập vào, người Việt Nam không có tiếng để gọi; vì vậy đọc tiếng Pháp "savon" theo giọng Việt Nam là xà bông. Tiếng xà bông được gọi là tiếng Pháp Việt. Với thời gian sử dụng lâu dài, chữ xà bông tự nhiên hóa thành tiếng Việt, gọi là tiếng Việt có gốc Pháp. Tương tự như vậy, khi ngôn tự Việt Nam mượn tiếng của Mán, Mèo, Tày Đen, Tày Trắng, Tày
    Đỏ, Thổ, Nùng, Lào, Chiêm Thành, Chân Lạp, Anh, Cambodge, v.v... thì gọi là tiếng Mán Việt, Mèo Việt, Tày Đen Việt, v.v...
    Trong lãnh vực ngôn tự, không có vấn đề"tự ái dân tộc", cũng không có chuyện "tiếng nước tôi giàu có, vẻ vang, hay hơn hẳn tiếng nước anh" mà chỉ là một phương tiện để thông đạt với nhau mà thôị Lịch sử tiếng Việt Nam cũng na ná như của các nước khắp nơi trên thế giới: không có chữ thì cứ tự nhiên mượn mà xài, đơn giản vậy thôị Chính vì thế mà khi xét lịch sử ngôn ngữ, người ta kết luận rằng không có thứ tiếng nào được gọi là thuần cả. Trải qua khoảng 8,000 năm, tất cả các tiếng nói đều pha trộn và vay mượn lẫn nhaụ Rồi với thời gian, tất cả đều phát triển, trở nên phong phú và tiến bộ hơn.
    Muốn hay không muốn thì đó vẫn là sự thật. Xin các người Việt Nam "bảo hoàng hơn vua" không nên nóng giận khi tôi viết: tiếng Việt chỉ là một thứ tiếng nói bình thường như mọi thứ tiếng nói trên thế giới, không nghèo nàn mà cũng không giàu có, không có gì vẻ vang mà cũng không có gì nhục nhã, không có gì siêu việt mà chỉ có các đặc điểm riêng như bất cứ thứ tiếng nào khác. Tiếng Việt chỉ là một phương tiện để người Việt thông đạt với nhau; hãy bỏ qua các mánh khóe tuyên truyền, kích động tâm lý không đúng đắn. Nếu có khách quan thì mới biết chỗ hay, chỗ dở của mình mà sửa đổi cho ngày càng khá lên; còn như cứ tự cho tiếng nước mình là "giàu đẹp, phong phú, vẻ vang" hơn tiếng nước khác thì giống y như việc so sánh chó nước tôi khôn hơn chó nước anh, răng bò nước tôi trắng hơn răng bò nước anh; trong khi thực tế khách quan thì cứ hễ là chó thì chó ở nước nào cũng khôn như nhau, cũng biết trung thành với chủ và bò nước nào thì răng cũng trắng cả !
    Thiết nghĩ việc tán dương tiếng Việt quá đáng là cố tình nói sai sự thật, võ đoán và sẽ không thuyết phục được ai cả, nhất là đám con cháu có cơ may học được tinh thần phân tích khoa học của Âu Tâỵ
    Ngoại trừ các tiếng sử dụng trong đời sống hàng ngày như: ăn, ngủ, đi, chạy, cái bàn, cái ghế, cái nhà, con mèo, con chuột, con chó, cục đường, cục đá, cục gạch, cây me, cây ổi, cây trứng cá, v.v... thì tiếng Việt Nam phải mượn rất nhiều từ các tiếng nói khác, đặc biệt là tiếng Mường. Thuở ban đầu lịch sử, có giả thuyết cho rằng giống người Mường chính là giống dân nguyên thủy của người Việt bây giờ.
    Trong cuốn "Chánh tả tiếng Việt", giáo sư Lê Ngọc Trụ viết:
    "Gốc tích dân tộc và văn hóa ở tại Bắc Việt. Có lẽ thời thượng cổ, tổ tiên ta đã cư trú những vùng triền núi, từ sông Đà (Hắc Giang) tới Quảng Bình, gần gũi với dân Mường; dấu vết còn lại là tiếng nói những vùng nầy cũng cứng và có chỗ tương tợ tiếng Mường. Thí dụ:
    Mường: ka, kảy, kốk, kảw
    Hà Tĩnh: ga, gái, kộk, gạw
    Hà Nội: gà, gái, gốc, gạọ
    Dân Mường, dân miền núi, cứ rút lần rải rác vô dãy núi Hoành Sơn. Họ không bị ảnh hưởng văn hóa của nước ngoài, nhất là của hai đại cường quốc Tàu và Ấn nên còn giữ những cổ tục. Tiếng nói của họ cũng không biến đổi nhiềụ Nhờ vậy, so sánh hai thứ tiếng mới thấy tiếng Việt và tiếng Mường có lẽ do một gốc mà rạ
    Dân Việt hay dời dân lập nghiệp, lần xuống đồng bằng, kiếm chỗ đất đai phì nhiêu dễ sanh sống hơn; đó là đồng bằng sông Hồng Hà. (Lúc cổ thời không tiến vào Nam, xứ Lâm Ấp của người Chàm vì lẽ núi non cản trở, đất đai chật hẹp khó sanh sống.) Tiếng nói, nhờ nước sông Hồng Hà cũng "thanh dịu" dần."
    Có lẽ tiếng Mường là gốc của tiếng Việt nhưng sau hơn 2,000 năm lịch sử thì tiếng Việt ngày nay đã rời xa cái gốc về giọng nói cũng như số lượng từ ngữ tất nhiên phải nhiều hơn gấp bội lần do kết nạp thêm tiếng Hán ở phía Bắc và tiếng Mã Lai (cá, đã, sẽ, đang), Môn Khmer (đốt, cháy, mặn, chát, chua), Thái Lan, Chân Lạp, Chiêm Thành ở phía Nam.
    Xét về tỷ lệ mượn chữ thì việc mượn tiếng Hán đặc biệt nhiều khủng khiếp! Nhiều đến nỗi hễ cứ nói hoặc viết thì người Việt Nam, dù có ý thức hay không có ý thức, đều sử dụng rất nhiều tiếng Hán, được đọc theo khẩu âm của người Việt, gọi là tiếng Hán Việt.
    Tiếng Hán Việt đã có trong tiếng Việt Nam ngay từ thuở ban đầu có chủng tộc Việt Nam (trước thế kỷ I), sau đó là thời gian bị Trung quốc đô hộ khoảng 1,000 năm. Trong thời gian này, chữ viết cho cả nước là chữ Hán. Đến thời kỳ độc lập, khoảng 1,000 năm (trừ khoảng 20 năm bị nhà Minh đô hộ vào đầu thế kỷ XV và 100 năm bị Pháp chiếm làm thuộc địa), thì chữ viết vẫn là chữ Hán. Người Việt Nam dùng chữ Hán trong mọi lãnh vực dùng đến chữ: công văn, khoa học, lịch sử, giáo dục, văn chương, v.v... Chỉ mới gần đây (khoảng 100 năm) thì mới có lối chữ abc xuất hiện do công sức của các giáo sĩ truyền đạo Thiên chúa từ nhiều nước đến Việt Nam như: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Pháp, v.v...
    Trải qua suốt một thời gian khoảng 2,000 năm sử dụng chữ Hán liên tục như vậy thì lẽ tất nhiên ảnh hưởng to lớn của chữ Hán là một sự kiện lịch sử khách quan trong tiếng nói và chữ viết Việt Nam.
    Tiếng Việt Nam là thứ tiếng tổng hợp rất nhiều thứ tiếng, trong đó tiếng Hán Việt ước tính chiếm hơn 70%. Vì tiếng Hán Việt nhiều quá, sử dụng lâu quá, phổ thông quá và giọng đọc khác hẳn giọng Trung quốc cho nên có thể nói rằng đa số tiếng Hán Việt đã được Việt hóa rồi; hay nói cách khác, đa số tiếng Hán Việt trong ngôn tự Việt Nam là tiếng Việt có gốc là tiếng Hán.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    2)Đặc điểm của tiếng Hán Việt:
    Một câu hỏi tất nhiên phải đặt ra là làm sao phân biệt được tiếng Hán Việt và tiếng Việt, đặc biệt đối với những người không học chữ Hán hoặc chỉ có trình độ Trung Học Việt Ngữ, hoặc những người Việt quen dùng ngoại ngữ, lâu dần trình độ hiểu biết tiếng Việt có thể trở nên kém cỏị Có vài cách như sau:
    Cách làm biếng là phàm khi gặp chữ Việt nào mà không hiểu nghĩa một cách rõ ràng hoặc không chắc viết đúng chánh tả hoặc ít nghe thấy thì hầu chắc chữ đó là chữ Hán Việt. Thí dụ: A Phú Hãn (Afghanistan), việt dã (chạy đua việt dã), thị phi (chuyện thị phi ở đời), công xúc tu sỉ, bị vong lục, tối hậu thư, hàn thử biểu, địa chấn ký, ký âm pháp, trắc địa học, nhân sinh quan, vũ trụ quan, đàn việt, tiềm
    thủy đỉnh, nạn nhân mãn, thẩm mỹ, quốc sắc thiên hương, thục nữ yểu điệu , ngũ cốc, phiếm diện, cảnh sát, bảo tàng viện, hàn lâm viện, bộ nội vụ, bộ quốc phòng, bộ ngoại giao, khủng bố, đức mô khắc lạp tây (democracy), yên tư phi lý thuần (inspiration), Tòa Bạch Ốc, Nữu Ước, Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Tây Nhã Đồ, La Tỉnh (Los Angeles), Thánh Hà Tây (San Jose), Chi Gia Kha (Chicago), Gia Nã Đại (Canada), Vọng Các (Bangkok), Mạnh Mãi (Bombay), Đức Lợi (Delhi), Cổ Ba (Cuba), Nã Phá Luân (Napoléon), Lư Thoa Rousseau), Cam Địa (Gandhi), Bối Đa Phần (Beethoven), A Lý Sĩ Đa Đức (Aristote), Phú Lãng Sa (France), Ý Đại Lợi (Italie), A Mỹ Lợi Gia (Amérique), Âu La Ba (Europe), Á Tế Á (Asie), v.v...
    Cách ít làm biếng là ngẫm nghĩ nghĩa và cách dùng của chữ. Nếu một chữ nào đó đứng một mình, có nghĩa nào đó nhưng không tạo thành từ ngữ được thì chữ đó là chữ Hán Việt. Thí dụ:
    +++thiên: trờị Người Việt nói: "tôi nhìn trời", không nói "tôi nhìn thiên." Tuy nhiên, khi dùng với chữ cặp đôi, hoặc đồng nghĩa hoặc phản nghĩa, thì có thể nói : "của thiên trả địa". Từ ngữ: thiên tài, thiên tai, thiên tạo, thiên bẩm, thiên cơ, thiên hạ, thiên văn, thiên tính, thiên nhiên, thiên lương, thiên lôi, thiên hình vạn trạng, thiên niên kỷ.
    +++địa: đất. Người Việt nói: "đất này mới được bón phân", không nói "địa này mới được bón phân". Từ ngữ: địa cầu, địa dự địa lý, địa bàn, địa điểm, địa đồ, địa hình, địa vâ,t, địa thế, địa chấn ký, địa chất học, địa chỉ, địa hạt, địa lôi, địa phương, địa mạch, địa từ.
    +++nhân: ngườị Người Việt nói: "dạy con lòng thương người", không nói "dạy con lòng thương nhân". Từ ngữ: nhân đạo, nhân tài, nhân khẩu, nhân lực, nhân tâm, nhân tình thế thái, nhân sự, nhân loại, nhân bản, nhân ái, nhân chủng học, nhân chứng, nhân cách, nhân duyên, nhân đức, nhân phẩm, nhân quyền, nhân sinh quan, nhân tính, nhân hậu, nhân mãn, nhân nghĩa, nhân viên, thương nhân,
    công nhân, văn nhân.
    Cách "khó" nhất là học ... tiếng Hán, nhờ đó mà tự khắc phân biệt được tiếng Hán Việt và tiếng Việt thuần túỵ Dưới đây là một số đặc điểm của tiếng Hán Việt trong ngôn tự Việt Nam.
    a)Về âm vận:
    Xét về tiếng nói thì có hai loại: loại thứ nhất là tiếng biến âm, biến nghĩa (tonal languages), nghĩa là sự lên giọng hay xuống giọng làm thay đổi nghĩa của tiếng (như tiếng của các nước châu Phi, Nam châu Á, thổ dân Mexico, v.v...) Loại thứ hai là tiếng bất biến âm, bất biến nghĩa (nontonal languages), nghĩa là sự lên giọng hay xuống giọng không làm thay đổi nghĩa của tiếng (như Nhật Bản, Úc Á, Anh, Pháp, châu Âu). Vì vậy, điều đặc biệt quan trọng trong loại tiếng "biến âm, biến nghĩa" là phát âm và hiểu đúng nghĩạ
    Tiếng Hán và tiếng Việt là loại tiếng biến âm, biến nghĩa, có nhiều dấu giọng nên ngoài cách phát âm đúng, dùng đúng nghĩa chữ còn phải chú trọng đến vấn đề chánh tả. Lấy thí dụ phát âm tiếng tinh phải khác với tin, và khi bỏ dấu vào thì nghĩa chữ tinh khác nghĩa các chữ tình, tính, tỉnh, tĩnh và tịnh (tin cậy, tin vui và tinh anh, tinh binh, tinh đời, tinh ranh, tinh chế, tinh khiết, tinh thể, tình ái, tình cảm, tình cờ, tình duyên, tình hình, tình nghi, tình nghĩa, nóng tính, bản tính, tính chất, tính đố, tính khí, tính mạng, tính nết, tính sổ, tính từ, tỉnh điền, tỉnh dụng, tỉnh bơ, tỉnh lẻ, tỉnh giấc, tỉnh khô, tỉnh ngộ, tỉnh táo, tỉnh trưởng, thanh tĩnh, tĩnh dưỡng, tĩnh từ, tĩnh vật, tĩnh trí, tĩnh tọa, tĩnh mịch, tĩnh tâm, tịnh tiến, tịnh độ, thanh tịnh.)
    Gần đây, khi viết thơ trên lưới điện toán, một số người Việt hoặc do không có xóp que tiếng Việt, hoặc do lười biếng đánh các ký hiệu dấu VIQR, hoặc muốn che dấu lỗi chánh tả nên viết không có dấụ Tất nhiên người đọc có thể đoán nghĩa căn cứ vào nội dung bài viết nhưng nghĩ cho đến cùng thì bắt buộc phải bỏ dấu bởi cái cốt cấu trúc của tiếng Việt là dấu giọng. Không có dấu giọng thì không còn
    là tiếng Việt nữạ
    Khác với loại tiếng đa vận (polysyllabic, nhiều âm tạo ra một nghĩa), tiếng Hán là loại tiếng độc vận (monosyllabic, một âm có một nghĩa) và chữ viết là loại chữ biểu ý, biểu nghĩa (không thể ráp vần abc mà đọc được) Chính do hai đặc điểm vừa nêu mà tiếng Hán có quá nhiều tiếng phát âm giống y như nhau nhưng nghĩa và cách viết lại khác nhau (gọi là tiếng đồng âm, dị nghĩa, dị hình.) Ngay cả chữ viết cùng một hình đồ giống nhau nhưng có chữ lại bao gồm nhiều nghĩa khác nhaụ Thí dụ: xét chữ tu sỉ trong câu "Nếu cởi truồng đi ra phố là phạm tội công xúc tu sỉ." Trước hết, nếu biết công xúc tu sỉ là tiếng Hán Việt thì sẽ giúp viết đúng chánh tả, không viết cong súc hoặc cong sút tu sĩ. Xét về nghĩa:
    +Âm Tu có sáu kiểu chữ chính, viết như sau:
    1)tu: 8 nét, bộ Nhân (người): sửa (tu thân)
    2)tu: 11 nét, bộ "Nữ" (đàn bà): chị (cổ ngữ)
    3)tu: 5 nét, bộ "Dương (con dê): có hai nghĩa:
    a)thức ăn ngon (trân tu)
    b)mắc cỡ, thẹn thùng (hàm tu: có nét thẹn thùng)
    4)tu: 7 nét, bộ "Nhục" (thịt): nem
    5)tu: 2 nét, bộ "Hiệt" (đầu): cần gấp (cấp tu, thiết tu)
    6)tu: 12 nét, bộ "Tiêu" (tóc dài): râu tủa rạ Từ ngữ: liên tu: tua bông sen. Thành ngữ: Liên tu bất tận: túa ra, tiếp diễn không ngừng.
    +Âm Sỉ có sáu kiểu chữ chính, viết như sau:
    1)sỉ: 6 nét, bộ "Khẩu" (cái miệng): há miệng rạ
    2)sỉ: 6 nét, bộ "Tâm" (tim, lòng): lấy làm nhục (sỉ nhục), xấu hổ.
    3)sỉ: 19 nét, bộ "Mịch" (sợi tơ nhỏ): cái lưới bịt tóc.
    4)sỉ: 10 nét, bộ "Y" (áo): cởi áo ra, cách chức (sỉ khí, sỉ chức)
    5)sỉ: 11 nét, bộ "Túc" (chân): dép làm bằng cỏ .
    6)sỉ: 19 nét, bộ "Túc" (chân): giày dép làm bằng cỏ. Từ ngữ: sỉ lý tương nghênh: múa giày ra đón (khách).
    Trong thực tế, khi nói câu thí dụ nêu trên, người Trung quốc căn cứ vào nội dung (context) của vấn đề đang đề cập để xác định nghĩa của âm. Còn nếu viết xuống thì vì các chữ đều biểu nghĩa (và dị hình) nên nhìn vào là biết nghĩa ngay, không sao lẫn lộn được.
    Tiếng Việt Nam cũng là loại tiếng độc vận nhưng ngày nay người Việt Nam không viết chữ Hán nữa mà lại viết theo kiểu chữ biểu âm, ráp vần abc lại để phản ảnh giọng nói, hay nói cách khác là nói sao viết vậỵ Khổ nỗi là tiếng đồng âm nhưng khác nghĩa trong tiếng Việt cũng nhiều không kém tiếng Hán. Nay dùng hệ thống biểu âm cho nên người Việt sẽ vô cùng khó khăn, chỉ có thể căn cứ vào nội dung
    để đoán mò mà thôi - đôi khi đoán được, đôi khi đành chịu thua, không cách nào để xác định nghĩa của các chữ Hán Việt đồng âm được!
    Trong thí dụ "Nếu cởi truồng đi ra phố là phạm tội công xúc tu sỉ" có người đoán lờ mờ là "xúc phạm các vị tu sĩ (người tu hành)". Rồi làm sao để đoán nghĩa chữ công? Trong đầu người Việt có các chữ: công sức, công việc, công dụng, công lao, công hiệu, công suất, chiến công, thành công, uổng công, công kích, tấn công, phản công, công đoàn, thủ công, đấng hóa công, bãi công, công đức, công trình, công nhân, công cộng, công dân, công quyền, công hàm, công chức, công chúa, công lý, bất công, công hữu, công ích, công khai, công quỹ, công phẫn. Nếu biết tiếng Hán thì sẽ biết chữ công có bốn nghĩa chính, viết thành bốn chữ khác nhau:
    +công: chung (công cộng, công dân, công chúng)
    +công: kết quả của một hành động nào đó (công dụng, công lao, công hiệu)
    +công: đánh (công kích, tấn công, phản công)
    +công: thợ, lao động (công đoàn, thủ công)
    Nghĩa đúng của câu: "Nếu cởi truồng đi ra phố là phạm tội công xúc tu sỉ" là "lấy làm nhục nhã, xấu hổ, mắc cỡ, thẹn thùng khi xúc phạm đến công chúng". Một thí dụ khác về khổ nạn đồng âm: "nam nữ thụ thụ bất thân" Người không học chữ Hán, đọc câu này thì không cách nào hiểu được sự khác biệt giữa hai chữ "thụ thụ". Muốn hiểu, phải đi về cái gốc chữ Hán. Một chữ "thụ" có nghĩa là "chịu nhận lấy (thụ mệnh, thu nhận), thuộc bộ "Hựu" và chữ "thụ" kia có nghĩa là "cho, trao cho (truyền thụ), thuộc bộ "Thủ", nghĩa của câu này là: người nam và người nữ không đ ược sờ mó, đụng chạm, gần gũi, thân mật khi trao đổi vật gì đó với nhaụ
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    2)Đặc điểm của tiếng Hán Việt:
    Một câu hỏi tất nhiên phải đặt ra là làm sao phân biệt được tiếng Hán Việt và tiếng Việt, đặc biệt đối với những người không học chữ Hán hoặc chỉ có trình độ Trung Học Việt Ngữ, hoặc những người Việt quen dùng ngoại ngữ, lâu dần trình độ hiểu biết tiếng Việt có thể trở nên kém cỏị Có vài cách như sau:
    Cách làm biếng là phàm khi gặp chữ Việt nào mà không hiểu nghĩa một cách rõ ràng hoặc không chắc viết đúng chánh tả hoặc ít nghe thấy thì hầu chắc chữ đó là chữ Hán Việt. Thí dụ: A Phú Hãn (Afghanistan), việt dã (chạy đua việt dã), thị phi (chuyện thị phi ở đời), công xúc tu sỉ, bị vong lục, tối hậu thư, hàn thử biểu, địa chấn ký, ký âm pháp, trắc địa học, nhân sinh quan, vũ trụ quan, đàn việt, tiềm
    thủy đỉnh, nạn nhân mãn, thẩm mỹ, quốc sắc thiên hương, thục nữ yểu điệu , ngũ cốc, phiếm diện, cảnh sát, bảo tàng viện, hàn lâm viện, bộ nội vụ, bộ quốc phòng, bộ ngoại giao, khủng bố, đức mô khắc lạp tây (democracy), yên tư phi lý thuần (inspiration), Tòa Bạch Ốc, Nữu Ước, Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Tây Nhã Đồ, La Tỉnh (Los Angeles), Thánh Hà Tây (San Jose), Chi Gia Kha (Chicago), Gia Nã Đại (Canada), Vọng Các (Bangkok), Mạnh Mãi (Bombay), Đức Lợi (Delhi), Cổ Ba (Cuba), Nã Phá Luân (Napoléon), Lư Thoa Rousseau), Cam Địa (Gandhi), Bối Đa Phần (Beethoven), A Lý Sĩ Đa Đức (Aristote), Phú Lãng Sa (France), Ý Đại Lợi (Italie), A Mỹ Lợi Gia (Amérique), Âu La Ba (Europe), Á Tế Á (Asie), v.v...
    Cách ít làm biếng là ngẫm nghĩ nghĩa và cách dùng của chữ. Nếu một chữ nào đó đứng một mình, có nghĩa nào đó nhưng không tạo thành từ ngữ được thì chữ đó là chữ Hán Việt. Thí dụ:
    +++thiên: trờị Người Việt nói: "tôi nhìn trời", không nói "tôi nhìn thiên." Tuy nhiên, khi dùng với chữ cặp đôi, hoặc đồng nghĩa hoặc phản nghĩa, thì có thể nói : "của thiên trả địa". Từ ngữ: thiên tài, thiên tai, thiên tạo, thiên bẩm, thiên cơ, thiên hạ, thiên văn, thiên tính, thiên nhiên, thiên lương, thiên lôi, thiên hình vạn trạng, thiên niên kỷ.
    +++địa: đất. Người Việt nói: "đất này mới được bón phân", không nói "địa này mới được bón phân". Từ ngữ: địa cầu, địa dự địa lý, địa bàn, địa điểm, địa đồ, địa hình, địa vâ,t, địa thế, địa chấn ký, địa chất học, địa chỉ, địa hạt, địa lôi, địa phương, địa mạch, địa từ.
    +++nhân: ngườị Người Việt nói: "dạy con lòng thương người", không nói "dạy con lòng thương nhân". Từ ngữ: nhân đạo, nhân tài, nhân khẩu, nhân lực, nhân tâm, nhân tình thế thái, nhân sự, nhân loại, nhân bản, nhân ái, nhân chủng học, nhân chứng, nhân cách, nhân duyên, nhân đức, nhân phẩm, nhân quyền, nhân sinh quan, nhân tính, nhân hậu, nhân mãn, nhân nghĩa, nhân viên, thương nhân,
    công nhân, văn nhân.
    Cách "khó" nhất là học ... tiếng Hán, nhờ đó mà tự khắc phân biệt được tiếng Hán Việt và tiếng Việt thuần túỵ Dưới đây là một số đặc điểm của tiếng Hán Việt trong ngôn tự Việt Nam.
    a)Về âm vận:
    Xét về tiếng nói thì có hai loại: loại thứ nhất là tiếng biến âm, biến nghĩa (tonal languages), nghĩa là sự lên giọng hay xuống giọng làm thay đổi nghĩa của tiếng (như tiếng của các nước châu Phi, Nam châu Á, thổ dân Mexico, v.v...) Loại thứ hai là tiếng bất biến âm, bất biến nghĩa (nontonal languages), nghĩa là sự lên giọng hay xuống giọng không làm thay đổi nghĩa của tiếng (như Nhật Bản, Úc Á, Anh, Pháp, châu Âu). Vì vậy, điều đặc biệt quan trọng trong loại tiếng "biến âm, biến nghĩa" là phát âm và hiểu đúng nghĩạ
    Tiếng Hán và tiếng Việt là loại tiếng biến âm, biến nghĩa, có nhiều dấu giọng nên ngoài cách phát âm đúng, dùng đúng nghĩa chữ còn phải chú trọng đến vấn đề chánh tả. Lấy thí dụ phát âm tiếng tinh phải khác với tin, và khi bỏ dấu vào thì nghĩa chữ tinh khác nghĩa các chữ tình, tính, tỉnh, tĩnh và tịnh (tin cậy, tin vui và tinh anh, tinh binh, tinh đời, tinh ranh, tinh chế, tinh khiết, tinh thể, tình ái, tình cảm, tình cờ, tình duyên, tình hình, tình nghi, tình nghĩa, nóng tính, bản tính, tính chất, tính đố, tính khí, tính mạng, tính nết, tính sổ, tính từ, tỉnh điền, tỉnh dụng, tỉnh bơ, tỉnh lẻ, tỉnh giấc, tỉnh khô, tỉnh ngộ, tỉnh táo, tỉnh trưởng, thanh tĩnh, tĩnh dưỡng, tĩnh từ, tĩnh vật, tĩnh trí, tĩnh tọa, tĩnh mịch, tĩnh tâm, tịnh tiến, tịnh độ, thanh tịnh.)
    Gần đây, khi viết thơ trên lưới điện toán, một số người Việt hoặc do không có xóp que tiếng Việt, hoặc do lười biếng đánh các ký hiệu dấu VIQR, hoặc muốn che dấu lỗi chánh tả nên viết không có dấụ Tất nhiên người đọc có thể đoán nghĩa căn cứ vào nội dung bài viết nhưng nghĩ cho đến cùng thì bắt buộc phải bỏ dấu bởi cái cốt cấu trúc của tiếng Việt là dấu giọng. Không có dấu giọng thì không còn
    là tiếng Việt nữạ
    Khác với loại tiếng đa vận (polysyllabic, nhiều âm tạo ra một nghĩa), tiếng Hán là loại tiếng độc vận (monosyllabic, một âm có một nghĩa) và chữ viết là loại chữ biểu ý, biểu nghĩa (không thể ráp vần abc mà đọc được) Chính do hai đặc điểm vừa nêu mà tiếng Hán có quá nhiều tiếng phát âm giống y như nhau nhưng nghĩa và cách viết lại khác nhau (gọi là tiếng đồng âm, dị nghĩa, dị hình.) Ngay cả chữ viết cùng một hình đồ giống nhau nhưng có chữ lại bao gồm nhiều nghĩa khác nhaụ Thí dụ: xét chữ tu sỉ trong câu "Nếu cởi truồng đi ra phố là phạm tội công xúc tu sỉ." Trước hết, nếu biết công xúc tu sỉ là tiếng Hán Việt thì sẽ giúp viết đúng chánh tả, không viết cong súc hoặc cong sút tu sĩ. Xét về nghĩa:
    +Âm Tu có sáu kiểu chữ chính, viết như sau:
    1)tu: 8 nét, bộ Nhân (người): sửa (tu thân)
    2)tu: 11 nét, bộ "Nữ" (đàn bà): chị (cổ ngữ)
    3)tu: 5 nét, bộ "Dương (con dê): có hai nghĩa:
    a)thức ăn ngon (trân tu)
    b)mắc cỡ, thẹn thùng (hàm tu: có nét thẹn thùng)
    4)tu: 7 nét, bộ "Nhục" (thịt): nem
    5)tu: 2 nét, bộ "Hiệt" (đầu): cần gấp (cấp tu, thiết tu)
    6)tu: 12 nét, bộ "Tiêu" (tóc dài): râu tủa rạ Từ ngữ: liên tu: tua bông sen. Thành ngữ: Liên tu bất tận: túa ra, tiếp diễn không ngừng.
    +Âm Sỉ có sáu kiểu chữ chính, viết như sau:
    1)sỉ: 6 nét, bộ "Khẩu" (cái miệng): há miệng rạ
    2)sỉ: 6 nét, bộ "Tâm" (tim, lòng): lấy làm nhục (sỉ nhục), xấu hổ.
    3)sỉ: 19 nét, bộ "Mịch" (sợi tơ nhỏ): cái lưới bịt tóc.
    4)sỉ: 10 nét, bộ "Y" (áo): cởi áo ra, cách chức (sỉ khí, sỉ chức)
    5)sỉ: 11 nét, bộ "Túc" (chân): dép làm bằng cỏ .
    6)sỉ: 19 nét, bộ "Túc" (chân): giày dép làm bằng cỏ. Từ ngữ: sỉ lý tương nghênh: múa giày ra đón (khách).
    Trong thực tế, khi nói câu thí dụ nêu trên, người Trung quốc căn cứ vào nội dung (context) của vấn đề đang đề cập để xác định nghĩa của âm. Còn nếu viết xuống thì vì các chữ đều biểu nghĩa (và dị hình) nên nhìn vào là biết nghĩa ngay, không sao lẫn lộn được.
    Tiếng Việt Nam cũng là loại tiếng độc vận nhưng ngày nay người Việt Nam không viết chữ Hán nữa mà lại viết theo kiểu chữ biểu âm, ráp vần abc lại để phản ảnh giọng nói, hay nói cách khác là nói sao viết vậỵ Khổ nỗi là tiếng đồng âm nhưng khác nghĩa trong tiếng Việt cũng nhiều không kém tiếng Hán. Nay dùng hệ thống biểu âm cho nên người Việt sẽ vô cùng khó khăn, chỉ có thể căn cứ vào nội dung
    để đoán mò mà thôi - đôi khi đoán được, đôi khi đành chịu thua, không cách nào để xác định nghĩa của các chữ Hán Việt đồng âm được!
    Trong thí dụ "Nếu cởi truồng đi ra phố là phạm tội công xúc tu sỉ" có người đoán lờ mờ là "xúc phạm các vị tu sĩ (người tu hành)". Rồi làm sao để đoán nghĩa chữ công? Trong đầu người Việt có các chữ: công sức, công việc, công dụng, công lao, công hiệu, công suất, chiến công, thành công, uổng công, công kích, tấn công, phản công, công đoàn, thủ công, đấng hóa công, bãi công, công đức, công trình, công nhân, công cộng, công dân, công quyền, công hàm, công chức, công chúa, công lý, bất công, công hữu, công ích, công khai, công quỹ, công phẫn. Nếu biết tiếng Hán thì sẽ biết chữ công có bốn nghĩa chính, viết thành bốn chữ khác nhau:
    +công: chung (công cộng, công dân, công chúng)
    +công: kết quả của một hành động nào đó (công dụng, công lao, công hiệu)
    +công: đánh (công kích, tấn công, phản công)
    +công: thợ, lao động (công đoàn, thủ công)
    Nghĩa đúng của câu: "Nếu cởi truồng đi ra phố là phạm tội công xúc tu sỉ" là "lấy làm nhục nhã, xấu hổ, mắc cỡ, thẹn thùng khi xúc phạm đến công chúng". Một thí dụ khác về khổ nạn đồng âm: "nam nữ thụ thụ bất thân" Người không học chữ Hán, đọc câu này thì không cách nào hiểu được sự khác biệt giữa hai chữ "thụ thụ". Muốn hiểu, phải đi về cái gốc chữ Hán. Một chữ "thụ" có nghĩa là "chịu nhận lấy (thụ mệnh, thu nhận), thuộc bộ "Hựu" và chữ "thụ" kia có nghĩa là "cho, trao cho (truyền thụ), thuộc bộ "Thủ", nghĩa của câu này là: người nam và người nữ không đ ược sờ mó, đụng chạm, gần gũi, thân mật khi trao đổi vật gì đó với nhaụ
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    b)Về nghĩa:
    Khi dùng tiếng Hán Việt thì phải lưu ý hai vấn đề thường xảy ra: trật tự văn phạm và nghĩa của các tiếng cùng âm mà khác nghĩa, khác cách viết.
    Một số tiếng Hán Việt vẫn còn giữ âm Hán, khi nói ra thì âm nghe rất giống và khi sử dụng thì vẫn giữ nguyên cấu trúc văn phạm của chữ Hán. Thí dụ: mại (bán), mãi (mua), niên (niên lịch), động (động từ), đông (mùa Đông), lão (ông lão), cảng (hải cảng), thủy (thủy thủ), ánh (ánh tà dương), không (không khí), đậu (đậu xanh), như (giống như), thân (thân cây), nhung (nhung lụa), thích (vui thích), phấn (bụi
    phấn), xứ (xứ sở), sự (sự việc), diễn giảng, báo chí, tự điển, mục lục, họa sĩ, bưu chính, bưu điện, tính tình, tính mệnh, tính khí, ********, tình trạng, chỉnh đốn, chỉnh lý, chỉnh tề, chỉnh toàn, chính đại, chính đáng, chính quả, chính giáo, v.v....
    Một số tiếng Hán Việt không còn giữ âm Hán, khi nói ra thì âm nghe khác hẳn và khi sử dụng thì tuân theo cấu trúc văn phạm của chữ Việt, gọi là tiếng Việt có gốc Hán. Cần lưu ý rằng vào thời xa xưa, tiếng Hán đã bị đọc trại theo khẩu âm của người Việt thời đấỵ Rồi với thời gian trôi qua, cả giọng đọc của người Trung quốc và Việt Nam đều thay đổi, cho tới nay thì một số tiếng Hán Việt hoàn toàn khác
    hẳn về âm, không còn hơi hướm đọc trại nữạ Thí dụ: nhịn (nhường nhịn) do chữ Hán "nhẫn", gần (xa gần) do chữ Hán "cận", cứng (cứng ngắt) do chữ Hán "cang/cương", chia (phân chia) do chữ Hán "chi", giết (giết bò) do chữ Hán "sát", thiêng liêng do chữ Hán "linh", đàn (đàn bò) do chữ Hán "đoàn", cuốn (cuốn sách) do chữ Hán "quyển", thơ (thơ ca) do chữ Hán "thi".
    Chữ Hán đã có trước khi có giấy và máy in (hơn 2,000 năm nay) cho nên việc ghi chép một chữ rất khó khăn; rồi từ cái khó này mà có khuynh hướng giản tự hoặc nuốt chữ (tỉnh lược, ẩn dụng và khuyết dụng) Xin đơn cử một thí dụ về trật tự văn phạm thường gặp như sau:
    Thay vì:
    nhân chi tâm (lòng của người) thì ẩn chữ "chi", nói: nhân tâm (lòng người)
    nhân chi khẩu (miệng của người) thì nói: nhân khẩu (miệng người)
    nhân chi lực (sức của người) thì nói: nhân lực (sức người)
    nhân chi tài (tài của người) thì nói: nhân tài (tài người)
    thiên hạ chi nhân (người ở dưới khắp bầu trời ) thì nói: thiên hạ (thế giới loài người)
    thục nữ chi yểu điệu: sự yểu điệu của thục nữ.
    Không nói "tâm nhân, khẩu nhân, lực nhân, tài nhân, hạ thiên, v.v..." Trong thực tế, nếu đảo ngược trật tự văn phạm trên đây của chữ Hán Việt để nói theo trật tự văn phạm Việt Nam thì có ba vấn đề xảy ra:
    +Chữ Hán Việt trở nên vô nghĩa hoặc tối nghĩa:
    Không được đảo trật tự của các chữ: tương quan, quan trọng, cơ quan, cơ thể, thời cơ, hiếu danh, hiếu sắc, thị hiếu, hý kịch, hý trường, phương diện, phương pháp, phương trình, cảnh sát, Nho giáo, nho sĩ, hải cảng, hải quân, hải phận, hành khách, du khách, khách sáo, nhan sắc, nhan đề, thanh lâu, cao lâu, đa cảm, đa đoan, đa nghi, đa tạ, ưng thuận, nhàn nhã, thiếu phụ, sản phụ, quả phụ, sơn cước, sơn dân, độ lượng, chế độ, báo cáo, cáo phó, nguyên cáo, bị cáo, cáo trạng, quảng cáo, duy vật, duy tâm, yếm thế, yếm nhân, thương hàn, tử thương, ngoại thương, nội thương, bản chất, bản doanh, nhiệm vụ, đảm nhiệm, quyền lực, quyền hạn, quân dịch, phục dịch, tai hại, quan niệm, chánh phạm, tòng phạm, tương đối, tuyệt đối, toàn quyền, tư bản, vong bản, bản ngã, lợi dụng, cố chấp, cố thủ, v.v...
    +Chữ Hán Việt sinh ra nghĩa khác:
    Đảo chữ bộ hạ thành hạ bộ. Tương tự như vậy, xin tự đảo các chữ dể thấy nghĩa đổi: quả nhân, phạm tội, phân hóa, ai cảm, tận lực, khách quan, hiếu sự, vi phạm, thực hiện, chiến tranh, sĩ tử, công lao, tước chức, thủ hạ, đầu hàng, v.v...
    +Chữ Hán Việt vẫn giữ nghĩa:
    Đảo trật tự các chữ Hán Việt sau đây thì thành trật tự văn phạm Việt Nam nhưng không đổi nghĩa: Đông phương, Tây phương, sắc tướng, thương tổn, thương cảm, quyền uy, bản nguyên, lợi ích, lợi hại, lợi danh, ân ái, ân oán, thù hận, oán thù, phá hủy, cầu nguyện, ước nguyện, hoang phí, hư thực, cổ tích, nam tính, nữ tính, đấu tranh, trang nghiêm, phần mộ, phản bội, tạ từ, xưng hô, luận đàm, lạc lưu, luật pháp, liên kết, kết cấu, kết giao, biến cải, tranh đoạt, trang điểm, ưu điểm, nhược điểm, thần thánh, xuất phát, hoảng hốt, hao tổn, bệnh tật, gia tăng, tăng giá, mưu kế, độc kế, ác độc, tàn bạo, lão ông, tiên ông, từ biệt, giao phó, tra khảo, vinh hiển, vinh quang, sung bổ, thánh kinh, ái tình, v.v...
    c)Luật hỏi ngã:
    Giọng phát ra ngang bằng, cao hay thấp, khứ hay nhập quyết định đánh dấu hỏi hay ngã. Quy ước về dấu hỏi, ngã rất tinh vi, tùy theo giọng đọc mà có luật hẳn hoị Đây vừa là cái khó, vừa là cái hay của chánh tả tiếng Việt.
    Trong tiếng Hán Việt thì luật hỏi ngã phải theo luật tứ thanh do Thẩm Ước là nhà văn nổi tiếng thời nhà Lương, (Tề 479-501, Lương 502-556, Trần 557-587) đề rạ Vũ Đế nhà Lương hỏi Thẩm Ước rằng: "Thế nào là tứ thanh: bình, thượng, khứ, nhập?" Đáp: "Xin đọc theo giọng của bốn chữ thiên, tử, thánh, triệt."
    Nghĩa là: những chữ đọc giống âm thiên thì gọi là bình thanh, những chữ đọc giống âm tử thì gọi là thượng thanh, những chữ đọc giống âm thánh thì gọi là khứ thanh, những chữ đọc giống âm triệt thì gọi là nhập thanh.
    Trong cuốn Văn Pháp Chữ Hán (cổ Hán văn) của Phạm Tất Đắc, trang 1085, viết:
    "Ý nghĩa của tứ thanh được giải thích bằng bốn câu thơ về thời Đường:
    Bình thanh thương cảm mà yên ổn,
    Thượng thanh cao giọng như nâng lên,
    Khứ thanh trong trẻo mà vẳng xa,
    Nhập thanh ngắn tiếng mà thúc bách
    (Bình thanh ai nhi an,
    Thượng thanh cao nhi cử,
    Khứ thanh thanh nhi viễn,
    Nhập thanh đoản nhi xúc).
    Về thời Minh, tăng sĩ Chân Không đặt ra bốn câu ca để hình dung tứ thanh:
    Bình thanh đường phẳng chẳng gập ghềnh,
    Thượng thanh hô cao sức kiện cường,
    Khứ thanh rõ ràng thương cảm đường xa,
    Nhập thanh ngắn, thôi thúc, gấp thâu tàng.
    (Bình thanh bình đạo mạc đê ngang,
    Thượng thanh cao hô mãnh lực cường,
    Khứ thanh phân minh ai viễn đạo,
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.

Chia sẻ trang này