1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đánh giá lại "công và tội" của vương triều Nguyễn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi minh91, 02/10/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. a2p2tXreload

    a2p2tXreload Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2007
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    1
    Nhắc thêm một điều nữa, chẳng phải "sợ" "hải ngoại" hay gì cả, bởi vì so ra nhà Nguyễn thời Minh Mệnh có công khai khẩn.... còn thời Cộng hoà chẳng làm trò gì, sao phải sợ.
  2. dhlv

    dhlv Guest

    Tôi chỉ muợn ý nói công 7, tội 3. Còn nếu bạn quan tâm đến chuyện công, tội cứ nghiên cứu kĩ khắc hiểu. Tôi chả muốn nói ra vì nó không thích hợp và sa đà vào chuyện hiện nay
    Những vị vua các các triều đại trước đều đã được vinh danh cả rồi, còn mỗi thái tổ nhà Nguyễn thì bị đì. Thời VNCH trong miền Nam Việt Nam còn có những cái tên như dinh Gia Long, trường trung học Gia Long....Còn tại sao lại bị đì ở bài trước Tôi đã nói rồi. Nó hoàn toàn mang tính chính trị theo từng giai đoạn chứ không phải vì chuyện yêu ghét đâu.
    Các bạn không tự hỏi vì sao độ 10 năm gần đây người ta sửa sai, bạch hoá nhỏ giọt nhiều chuyện trong quá khứ sao?
  3. a2p2tXreload

    a2p2tXreload Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2007
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    1
    Trung Quốc đang muốn quảng bá một Đại TQ, thống nhất, hùng mạnh, quyết đoán.
  4. a2p2tXreload

    a2p2tXreload Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2007
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    1
    Bác nghĩ rằng cđ CH không chính trị!??
    Mượn hình ảnh GL để ngầm họ đang làm như Gia Long, thống nhất đất nước.
    Mượn hình ảnh Nguyễn Huệ, Bắc phạt.
  5. dhlv

    dhlv Guest

    NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN QUỐC HIỆU VIỆT NAM
    Nguồn : http://www.mattran.org.vn/Home/TapChi/so%2051/vd-sk1.htm
    Chính thức trở thành Quốc hiệu từ cách đây khoảng hai thế kỷ, hai tiếng ?oViệt Nam? ngày nay trở nên thiêng liêng và gần gũi. Tuy nhiên, nguồn gốc, ý nghĩa và nhất là quá trình hình thành Quốc hiệu đó vẫn luôn là những vấn đề lý thú, hấp dẫn, được nhiều người quan tâm...
    Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định Quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì chính sử của nước ta và cả Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức làm Chánh sứ đem trao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Đoàn kia do Thượng thư Bộ Binh là Lê Quang Định làm Chánh sứ, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt Quốc hiệu là Nam Việt. Lời quốc thư của Nguyễn Ánh có đoạn:
    ?o... Mấy đời trước mở đất viên giao càng ngày càng rộng, gồm cả nước Việt Thường và nước Chân Lạp, đặt Quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn hai trăm năm. Nay tôi lấy hết cõi Nam, có toàn cõi đất Việt, nên theo hiệu cũ để chính quốc danh...?.
    Cũng năm 1802, nhà Thanh chuẩn danh xưng Quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (năm 1804), sứ giả nhà Thanh là Tế Bồ Sâm mới mang cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long để làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh.
    Như vậy, Quốc hiệu Việt Nam được công nhận từ năm 1802, nhưng phải đến năm 1804 mới được chính thức thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Giữa hai mốc thời gian này, có nhiều cuộc đi lại, tranh luận, hội đàm khá phức tạp giữa hai triều đình Nguyễn - Thanh, bởi vì nhà Nguyễn muốn lấy Quốc hiệu nước ta là Nam Việt như hồi các chúa Nguyễn khởi nghiệp, nên không bằng lòng ngay với sự đổi thành Việt Nam của nhà Thanh. Trong cuốn Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, tác giả người Nhật Bản Yoshiharu Tusuboi căn cứ vào kết quả nghiên cứu của nhà Đông phương học Chusei Suzuki, cũng khẳng định điều đó: ?oNăm 1803, có những cuộc thương thảo rất quan trọng về Quốc hiệu dưới triều Nguyễn: Nam Việt hay Việt Nam?.
    Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa Nam Việt thành Việt Nam là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Đà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận nước Nam Việt, nhà Thanh cũng vậy và không muốn bị gợi lại quá khứ kém hùng mạnh ấy. Thứ hai (lý do này mới quan trọng!), Nam Việt - theo cách hiểu truyền thống - có thể gồm cả miền đất nước ta và các xứ Việt Đông, Việt Tây (tức Quảng Đông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước ta, sau này sẽ gây rắc rối về mặt lãnh thổ. Quốc thư phúc đáp của vua Thanh gửi vua Nguyễn đã tế nhị trình bày lý do đó và khéo léo chuẩn danh xưng Quốc hiệu nước ta là Việt Nam.
    ?o... Lúc trước có đất Việt Thường đã xưng là nước Nam Việt, nay có cả đất An Nam, xét ra cho kỹ, thì nên gộp cả đất đai trước sau mà đặt danh hiệu tốt. Vậy, định lấy chữ Việt để trên, tỏ việc giữ đất cũ mà nối nghiệp trước; lấy chữ Nam đặt dưới, tỏ việc mở cõi nam giao mà chịu quyền mệnh mới. Như thế thì danh xưng chính đại, nghĩa chữ tốt lành, so với hai đất Việt nước Tàu khác nhau xa lắm...?.
    Thực ra, không phải đến tận đầu thời Nguyễn cái tên Việt Nam mới xuất hiện và có xuất xứ như vậy. Tên gọi Việt Nam được biết đến ít nhất từ thế kỷ XIV, thường thấy trong nhiều thư tịch đương thời: Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Trình tiên sinh quốc ngữ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn... Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cũng sưu tầm được các văn bia (với niên đại đều trước thế kỷ XVIII) có khắc tên gọi Việt Nam, tại những địa điểm khác nhau ở miền Bắc: bia chùa Bảo Lâm (năm 1558, Hải Phòng), bia chùa Cam Lộ (năm 1590, Hà Tây), bia chùa Phúc Thành (năm 1664, Bắc Ninh), bia Thuỷ Đình Môn (năm 1670, Lạng Sơn). Tên gọi Việt Nam có lẽ mang ý nghĩa kết hợp nòi giống và vị trí cư trú địa lý của dân tộc ta (Việt Nam - nước của người Việt ở phương Nam), thể hiện niềm tự tôn, tinh thần độc lập và phủ nhận sự áp đặt, miệt thị của người Trung Quốc. Tuy nhiên, nó chưa thể trở thành Quốc hiệu vì chưa được các triều đại phong kiến nước ta tuyên bố hoặc ghi nhận bằng pháp luật.
    Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành Quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Nó được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng (chiếu) của Nhà nước Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 3 (cách đây hơn 200 năm) và đã được thông báo cho Nhà Thanh. Trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt Quốc hiệu mới của vua Gia Long (Nguyễn Ánh) vào năm 1804, nội dung như sau:
    ?oXuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:
    Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt Quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, Chân, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Đến thời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài... Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ.
    Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh ninh...?.
    Trong lịch sử nước ta, Quốc hiệu và tên gọi đất nước (quốc danh) đã có nhiều lần thay đổi. Chẳng hạn, năm 1054, nhà Lý đổi Quốc hiệu là Đại Việt, Quốc hiệu đó được giữ đến hết đời Trần (1400), thế nhưng chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh ngày 10-1-1226 lại mở đầu bằng câu: ?oNước Nam Việt ta từ lâu đã có các đế vương trị vì?. Nhà Hồ (1400 - 1407) đổi Quốc hiệu là Đại Ngu (sự yên vui lớn), nhưng đa số dân chúng vẫn gọi là Đại Việt, còn người Trung Quốc gọi là Giao Chỉ. Thế kỷ thứ XV, trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi có viết: ?oVua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam làm tổ Bách Việt?, nhưng trong Bình Ngô đại cáo, ông lại viết: ?oNhư nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu?. Đời Gia Long (1802 - 1820), Quốc hiệu là Việt Nam, nhưng một bộ phận dân chúng vẫn quen gọi là Đại Việt, còn người Trung Quốc và phương Tây thường gọi An Nam...
    Sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi Quốc hiệu là Đại Nam (1838), cái tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội (năm 1908), Việt Nam Quang phục hội (năm 1912); Phan Châu Trinh viết Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội (năm 1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (năm 1941)...
    Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Đại, Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam. Ngày 19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám do ********************** lãnh đạo thành công, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hoá Quốc hiệu này. Ngày 30-4-1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông quy về một mối. Ngày 2-7-1976, ngay trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, Quốc hội đã nhất trí thông qua việc chuyển đổi tên nước từ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Gia Long, Minh Mạng, hero, Trương Đạo Diễn, Tần Thủa Hoàng Mao Trạch đông, Hà Huy tập ... mỗi chuyện cũng khá lý thú, chắc là bác biết nhiều nhưng thể hiện không được nên cứ phải dùng "...", "các bạn tự tìm hiểu lấy" ?
    Lối tranh luận như vậy, không tập trung vào các căn cứ sử liệu có được, nghe nhiều, phán cũng nhiều, thật là chẳng đi đến đâu. Xem ra bác bức xúc nhiều quá ạh?
  7. promum

    promum Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/08/2005
    Bài viết:
    116
    Đã được thích:
    0
    Bạn tranh luận lòng vòng quá, tự bạn mâu thuẫn với chính mình rồi. Ở trên bạn nói chết như Hòang Diệu là anh hùng, dưới thì bạn cho như thế là không xứng đáng, mà phải vào "chiến khu với Bác Hồ ) thế là thế nào?
  8. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Ô, không lẽ các Vua Nguyễn và quần thần phải uống thuốc độc chết hết sau khi thua trận à? thế còn ai để kháng chiến lâu dài, như phòng trào Cần Vương chẳng hạn.[/quote]
    Kể ra bạn cũng biết suy luận .
    Có điều suy luận lạc lối theo kiểu người Nhật.
    Bạn nên tập suy luận sáng sủa một chút .
    Có hơn 100 cách xử thế sau khi vua thua chúa chết kia.
    Ví dụ, Hoàng Diệu có thể xông vào chiến trận rồi bị giết trên chiến
    trường . Cái chết ấy còn hào hùng hơn chết trong Văn Miếu .Ngoài ra, ngài có thể lập chiến khu, hoặc đổi tên lên núi ở ẩn, vân vân.
    [/quote]
    Bạn tranh luận lòng vòng quá, tự bạn mâu thuẫn với chính mình rồi. Ở trên bạn nói chết như Hòang Diệu là anh hùng, dưới thì bạn cho như thế là không xứng đáng, mà phải vào "chiến khu với Bác Hồ ) thế là thế nào?
    [/quote]
    Chuyện lên chiến khu kháng chiến là được tính toán từ lâu lắm rồi. Còn Hoàng Diệu là tính sai, kô còn cách nào khác phải tự vẫn, thử nghĩ xem bác nào tự nhận to khoẻ xông vào đối phương mà nó biết là người đứng đầu cơ quan HC nó có cho bác chết kô? Còn lâu nhá, nó giữ lại làm đủ trò dụ hàng kô được thì nó cho bác sống mà còn khổ hơn chết.
  9. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    hê hê, topic ngộ quá
    tranh luận theo kiểu kể chuyện "ngụ ngôn"
    ai hiểu sao thì hiểu, ko cốt giành phần lẽ phải về mình.
    kính các bác!
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Cám ơn bạn P20 đã đưa thêm một ý kiến đóng góp cho hàng trăm giải
    pháp khi vua thua chúa chết của tôi.
    Có lẽ nhờ bạn mà tôi không bị chê cười "tranh luận lòng vòng" nữa.

Chia sẻ trang này