1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đánh giá lại "công và tội" của vương triều Nguyễn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi minh91, 02/10/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Vừa viết xong reply thì đọc được bài này, thật là ngu dốt hết chỗ:
    Chiều hôm trước, khi nghe hướng dẫn viên nói với các quan khách rằng khu lăng miếu Triệu Tường bị xóa hoàn toàn vào năm 1977 tôi đâm ra bần thần, vì 1977 là sau 1975, là khi chiến tranh bom đạn kết thúc rồi, lẽ ra phải còn dấu vết ít ra cũng là ?onền cũ lầu đài bóng tịch dương? chứ sao nay chỉ còn ngút xanh mía và lúa thế này? Ông Giới bảo: ?oThì người ta cứ phá dần dần, bom đạn phá dần, năm này sang năm khác. Hồi cải cách đấu tố ?ophản đế phản phong? người ta phá bớt vùa hương bàn độc, sau đó là kèo cột rui mè, rồi cuối cùng là phá tường thành tam quan...
    Nhưng cú đánh trí mạng nhất là khi Hợp tác xã Hợp Tiến (đất Quý Hương xưa cũng đổi tên cho hợp với không khí thời đại: Hợp Tiến, Hợp Lực?) mở mang trại chăn nuôi. Máy húc điều về san đất từ nền cao lăng miếu lấp xuống hào sâu hộ thành, cây đề cây muỗm cũng bật gốc. Ruộng đồng phẳng lì vào tận chân núi. Dấu tích tiền nhân thành tàn tích phong kiến.

    Nguồn:
    http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=284319&ChannelID=10
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593

     
    ....
    ...
    Các sử gia Việt Nam đã đặt thời Tây Sơn dưới ống kính xem xét sử học rất kỹ lưỡng, và các diễn giải về cuộc nổi dậy này đã gây ra khá nhiều tranh luận nảy lửa. Thật vậy, thời kỳ này và các sự kiện gắn liền với nó đã đóng một vai trò rất quan trọng cho cách viết sử sẽ xuất hiện trong toàn bộ thuật nghiên cứu sử tiếp sau đó. Các vấn đề trọng tâm ở đây là về tính chính đáng chính trị, về sự phân chia và thống nhất quốc gia, về các xung đột và đối lập xã hội. Trong thế kỷ mười chín, nhà Nguyễn ?" người sáng lập ra vương triều này đã đánh lại và cuối cùng thì lật đổ được chính thể Tây Sơn- đã gọi Tây Sơn là một cuộc nổi dậy của bọn "tặc" và "giặc,"gạt bỏ bất kỳ một quan niệm nào cho Tây Sơn là một vương triều hợp thức. Dự án sử học này công khai kiến tạo tính chính danh cho triều Nguyễn, triều đại mà chính bản thân nó được lập ra phần lớn nhờ thành công quân sự hơn là nhờ một sự chuyển giao quyền lực vương triều chính thức.
    Ở cấp độ chính thức, vương triều mới đã bảo đảm ưu thế thống trị của cách diễn giải này, thậm chí ngay cả khi tri thức dân gian về Tây Sơn bắt đầu hình thành một cách nhìn lý tưởng hóa về phong trào nổi dậy này, và khi cư dân tỉnh Bình Định tìm cách khôi phục lại những nhân vật mà dưới mắt họ, là anh hùng địa phương.3 Vào đầu thế kỷ hai mươi, những suy yếu chính trị của nhà Nguyễn dưới sự đô hộ của thực dân Pháp mở rộng không gian cho những diễn giải lại. Các sử gia bắt đầu tránh dùng những từ đề cập đến Tây Sơn như "tặc" và "giặc." Bớt bị trói buộc bởi những quan tâm tư tưởng của một triều đình nhà Nguyễn suy yếu, các học giả này cho rằng ba anh em Tây Sơn đã nắm quyền lực chính trị chính đáng.4 Nhưng thậm chí ngay cả khi có sự thay đổi này, những cách diễn giải thời gian đầu thế kỷ hai mươi cũng không nghiên cứu vấn đề về sự ủng hộ của dân chúng đối với phong trào đó. Thật vậy, những đề cập đến "nông dân" hầu như hoàn toàn vắng mặt trong các bài viết của hai sử gia lỗi lạc đầu thế kỷ hai mươi là Phan Bội Châu và Trần Trọng Kim.5 Mãi đến năm 1938 thì Đào Duy Anh, trong cuốn Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, mới gắn sức mạnh và thành công của Tây Sơn với sự tham gia của nông dân.
    Sau Thế Chiến thứ II, và trong buổi đầu của cuộc cách mạng Cs với những liên hệ chặt chẽ với nông thôn Việt Nam, việc xây dựng hình ảnh Tây Sơn với đặc điểm là một "cuộc nổi dậy của nông dân" hoặc một "phong trào nông dân" bắt đầu xuất hiện trong nghiên cứu của Việt Nam. Các học giả đã nhiệt tình mô tả cuộc nổi dậy của Tây Sơn hoặc như một cuộc "cách mạng," hoặc một cách trung lập hơn, là một "phong trào nông dân." Cả hai cách diễn giải đều cho rằng giới nông dân, trừ một vài ngoại lệ, đã ủng hộ các lãnh tụ phong trào Tây Sơn và triều đại họ dựng lên sau đó, rằng nông dân đã nhiệt tình ủng hộ các lãnh tụ Tây Sơn từ buổi đầu của cuộc nổi dậy, rồi sau đó là sự hợp tác đoàn kết của nông dân trong những nỗ lực anh hùng nhằm thống nhất đất nước và đánh lui giặc ngoại xâm ?" quân Xiêm năm 1785 và quân Tàu năm 1789. Trong cách nghiên cứu sử học về Tây Sơn này, nông dân nổi lên như một biểu tượng anh hùng, cao thượng và không biết sợ hãi, quyết tâm theo đuổi mục tiêu công bằng kinh tế và xã hội, và vì một đất nước thống nhất không bị ngoại bang can thiệp. Cách diễn giải này mô tả nông dân thời Tây Sơn như những người mở đường cho cuộc cách mạng được nông dân ủng hộ vào thế kỷ hai mươi, thậm chí ngay cả thất bại của họ trong việc thay đổi các cơ cấu kinh tế và chính trị cũng được xem như những dấu hiệu của những hạn chế khắc nghiệt mà thời đoạn lịch sử lúc đó đã áp đặt lên họ.
    Chính những cách diễn giải này, mà phần lớn được các sử gia cs công bố vào nửa sau thế kỷ hai mươi, thống trị toàn bộ diễn ngôn (discourse) về thời Tây Sơn....Mặc dù một vài bài viết bằng tiếng Việt gần đây bắt đầu xem xét thời kỳ Tây Sơn với cách nhìn phê phán hơn đôi chút, nhưng chưa hề có một sự định giá lại có hệ thống nào về thời kỳ hay cuộc nổi dậy này được xuất bản.
    trich xem xét lại thời Tây Sơn
    GEORGE DUTTON
    Nguyệt Cầm chuyển ngữ
     

    được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 15:53 ngày 22/10/2008
  3. cubidaihiep

    cubidaihiep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/09/2006
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    246
    Khổ quá, đã nhắc bác rồi. Chú ý ngữ nghĩa một chút đi trước khi bắt bẻ người khác. Thôi được, dùng đoạn bác trích cho nó máu nhé:
    "... Vua Xiêm thấy y giúp cho quân ta, rất không bằng lòng. Vua bảo kín Ăng Tôn Nui hãy về ".
    Có 2 danh từ "vua" làm chủ ngữ ở đây: "vua Xiêm" ở đoạn đầu thì khỏi nói rồi: là vua của nước Xiêm. Còn "vua" ở đoạn sau là Vua của ta đó-tức là chúa Nguyễn Phúc Ánh-Gia Long sau này, chưa không phải là Vua Xiêm đuổi người ta về như bác suy diễn ra đâu nhé!
    Đại ý của đoạn văn trên là: do e ngại vua Xiêm phật lòng nên chúa Nguyễn Phúc Ánh nói người sứ thần Bồ Đào Nha về đi, không cần giúp nữa. Điều này cũng hợp với rất nhiều tư liệu về sau kể về sự kiện này.
    Mà tôi thấy bác bắt đầu sa đà vào công kích cá nhân rồi đấy! Không hay lắm đâu.
  4. Fourier

    Fourier Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2007
    Bài viết:
    243
    Đã được thích:
    0
    Thôi bạn đúng, không cãi nhau ngữ pháp với bạn nữa để bạn tố công kích cá nhân với mod.
    Vậy đoạn trên có thể thấy, Nguyễn Ánh cầu viện phương Tây, trong đó có cả Bồ Đào Nha, được giúp đỡ. Nhưng chẳng may cho Nguyễn Ánh ( và may mắn cho VN) là lúc ấy Nguyễn Ánh tị nạn dưới tư cách chư hầu của Xiêm, phải nhìn mặt vua Xiêm mà hành động, không dám cấu kết với "ngoại bang".
  5. dietcoke

    dietcoke Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2008
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    Tị nạn là tị nạn, chư hầu là chư hầu. NA tị nạn thì có chứ VN chưa khi nào xưng hầu của Xiêm cả. Lệ chư hầu thì phải có xưng hầu có triều cống hàng năm. Cố bá víu thêm làm chi vậy? Cầu viện thì cũng có cái hay cái dỡ. VN một phần cũng phải nhờ ngoai viện, vũ khí, lương thực, chuyên gia quân sự liên xô, trung quốc đến việt nam còn nhiều hơn cả chục lần thời NA mới thắng được Pháp, Mỹ, Diệm, Thiệu chứ.
    Khi thương qủa ấu cũng tròn, khi ghét thì bò hòn cũng méo phải hông?
  6. dietcoke

    dietcoke Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2008
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    Hình tượng thần thánh ư? LSVN (không kể huyền sử) đâu có ai đưọc zị ngoài đức thánh Trần hở bác (thỉnh thoảng nghe người ta nói vậy thôi chứ ông hiển thánh thực hay không thì chưa biết).
  7. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Có kết luận rồi này. Nhìn chung là hợp lý, mặc dù ko có gì mới.
    1. Ban tổ chức đã nhận được 90 báo cáo in vào Kỷ yếu và đến sát ngày hội thảo nhận thêm 2 báo cáo, tổng cộng 92 báo cáo. Các báo cáo gửi đến từ các nhà khoa học tại quê hương Thanh Hóa, từ các viện, trung tâm khoa học, các trường đại học ở nhiều tỉnh, thành phố của cả nước, tập trung nhiều nhất là thủ đô Hà Nội, thành phố Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
    Đặc biệt chúng tôi nhận được 8 báo cáo của các học giả nước ngoài: Trung Hoa, đảo Đài Loan, Nhật Bản, Pháp, Nga, Anh, trong đó có người đã từng bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài về thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Có thể nói hội thảo hội tụ các chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam thời kỳ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
    Trong phiên họp toàn thể khai mạc hội thảo sáng ngày 19-10-2008 số người tham dự lên đến khoảng 650 người, ngoài các nhà khoa học, còn hiện diện nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, nhiều nhà lãnh đạo, quản lý ở Thanh Hóa và đại diện các cơ quan trung ương, nhiều cán bộ lão thành quê hương xứ Thanh, đại diện Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Phước cùng nhiều nhà trí thức, những người quan tâm đến thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn, và đại diện nhiều hãng thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình trung ương và Thanh Hóa cùng các tỉnh, thành phố khác. Thành phần và số người tham gia hội thảo đã nói lên đây là vấn đề không chỉ giới khoa học mà cả xã hội quan tâm, vừa mong muốn, vừa đòi hỏi các nhà khoa học phải làm sáng rõ việc đánh giá các chúa Nguyễn và triều Nguyễn một cách khách quan, trung thực, công bằng.
    Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thế kỷ XVI-XIX là một thời kỳ gần gụi thời đại ngày nay với nhiều mối quan hệ trực tiếp và cũng là thời kỳ kéo dài trên 3 thế kỷ với nhiều biến động phức tạp, dữ dội của đất nước. Phân liệt Đàng Trong - Đàng Ngoài, nội chiến Trịnh - Nguyễn thế kỷ XVII, kinh tế văn hóa phát triển trong sự giao lưu mạnh mẽ với khu vực và thế giới, cuộc nổi dậy như vũ bão của phong trào Tây Sơn rồi cuộc chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn, cuộc xâm lược của thực dân Pháp, tất cả diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phương Tây đang bành trướng mạnh mẽ sang phương Đông vừa mở rộng thị trường thế giới vừa đe dọa độc lập chủ quyền các nước châu Á.
    Lịch sử Việt Nam thời kỳ này đặt ra rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu sâu sắc và thảo luận rộng rãi. Hội thảo về chúa Nguyễn và triều Nguyễn không có tham vọng thảo luận tất cả các vấn đề đó mà chỉ tập trung vào một số vấn đề cơ bản liên quan đến việc nhìn nhận và đánh giá về chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX như trong báo cáo đề dẫn đã trình bày trước hội thảo.
    2. Qua thảo luận ở 3 tiểu ban, chúng ta đã đi đến một số nhận thức đạt sự nhất trí cao, có thể nói là đồng thuận. Tôi xin phép được tóm lược nội dung cơ bản của sự nhất trí đó.
    2.1. Mọi người tham gia hội thảo đều nhận thấy sự phê phán, lên án đến mức độ gần như phủ định mọi thành tựu của thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trước đây là quá bất công, thiếu khách quan, nhất là khi đưa vào nội dung sách giáo khoa phổ thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội. Dĩ nhiên thái độ đó có nguyên do của nó trong bối cảnh cách mạng phế bỏ triều Nguyễn, rồi cải cách ruộng đất xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và nhất là khi cả dân tộc đang tiến hành cuộc chiến đấu vì độc lập và thống nhất tổ quốc. Trong bối cảnh đó, những hành động xâm phạm đến độc lập và thống nhất đều bị phê phán, lên án gay gắt. Đó là thái độ chính trị của xã hội, còn về phía các nhà sử học dĩ nhiên có trách nhiệm của mình trong vận dụng phương pháp luận sử học chưa được khách quan, trung thực.
    2.2. Hội thảo nhất trí nhận thấy việc đánh giá lại công lao và cả mặt hạn chế của các chúa Nguyễn và triều Nguyễn là rất cần thiết, có thể nói là một nhu cầu bức xúc không chỉ trong nhận thức khoa học mà cả trong tâm lý và công luận xã hội. Có người đặt vấn đề thời điểm tổ chức hội thảo phải chăng là quá chậm? Quả thực có thể nói là chậm so với yêu cầu xã hội nhưng về phương diện khoa học, nhận thức là một quá trình và một thay đổi có tính bước ngoặt phải có sự chuẩn bị của nó. Trước hội thảo của chúng ta, từ những năm 90 của thế kỷ XX đã có nhiều công trình nghiên cứu mới ở trong nước và ngoài nước, có khoảng 20 cuộc hội thảo về chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Đó là những bước chuẩn bị rất quan trọng tạo nên cơ sở khoa học, những điều kiện tương đối chín mùi cho cuộc hội thảo tầm cỡ quốc gia này. Trong những cuộc hội thảo đầu tiên, còn nhiều ý kiến khác nhau, rất khó đạt sự nhất trí, nhưng đến hội thảo này xu hướng xích lại gần nhau đã rõ nét và trên những nội dung cơ bản đã thực sự gặp nhau trong nhận thức.
    2.3. Về việc đánh giá chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong thời kỳ từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, hội thảo đã đạt được sự đồng thuận cao, khẳng định những cống hiến to lớn sau đây:
    2.3.1. Các chúa Nguyễn đã có công mở rộng lãnh thổ về phía nam đến tận đồng bằng sông Cửu Long và xác lập chủ quyền vững chắc trên vùng đất mới.
    2.3.2. Tiếp tục thành tựu của phong trào Tây Sơn đã xóa bỏ tình trạng phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài, đặt cơ sở cho sự khôi phục nền thống nhất, Nguyễn Ánh và triều Nguyễn đã hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước trên lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài.
    2.3.3. Xây dựng và củng cố quốc gia thống nhất trên lãnh thổ tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả đất liền và hải đảo ven bờ cùng quần đảo trên biển Đông. Triều Nguyễn là một vương triều quân chủ tập quyền có những mặt hạn chế về chế độ chuyên chế, về một số chính sách đối nội, đối ngoại, nhưng cũng đạt nhiều tiến bộ về mặt quản lý quốc gia thống nhất, về cải cách hành chính, xây dựng thiết chế và cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước tổ chức rất quy củ.
    2.3.4. Thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn để lại một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả di sản vật thể và phi vật thể. Di sản này trải rộng trên cả nước từ bắc chí nam, là kết quả lao động sáng tạo của nhân dân ta, của cộng đồng các thành phần dân tộc Việt Nam, của các nhà văn hóa kiết xuất tiêu biểu cho trí tuệ và tâm hồn dân tộc. Di sản này được kết tinh trong một số di sản đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới nghĩa là hàm chứa những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình, phố cổ Hội An. Do thái độ phê phán, lên án trước đây về nhà Nguyễn nên một thời việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản này có phần bị hạn chế.
    3. Trong số những vấn đề đặt ra trong hội thảo, bên cạnh những vấn đề nhất trí như trên còn những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận:
    3.1. Về hành động Nguyễn Ánh cầu cứu đem 5 vạn quân Xiêm vào Gia Đinh, ký hiệp ước Versailles năm 1787, dựa vào lực lượng viện trợ của Bá Đa Lộc. Trên thực tế, 5 vạn quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn đánh tan ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút năm 1785 và Hiệp ước Versailles không được thực thi vì sự bùng nổ của cách mạng Pháp năm 1789. Còn viện trợ do Bá Đa Lộc vận động từ các thuộc địa Pháp thì lực lượng tuy không nhiều nhưng cũng có tác dụng giúp Nguyễn Ánh trong việc xây thành lũy, huấn luyện quân sĩ, phát triển thủy quân, mua sắm vũ khí... và hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của Nguyễn Ánh. Khi xem xét ngoại viện, điều quan trọng là cần phân tích và làm sáng rõ hành động cầu ngoại viện có được kiểm soát trên cơ sở giữ được chủ quyền, đưa lại lợi ích cho đất nước hay không, nếu dẫn đến mất chủ quyền, mất độc lập là phạm tội làm mất nước, một tội ác không thể dung thứ. Trên tinh thần đó, tuy còn những khác biệt nhất định nhưng hội thảo đều cho rằng hành động đưa 5 vạn quân Xiêm vào Gia Định là một "điểm mờ", một "tỳ vết" trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ánh.
    3.2. Vấn đề canh tân đất nước của triều Nguyễn được thảo luận khá sôi nổi và còn những ý kiến khác biệt. Mọi người đều thống nhất cho rằng trong bối cảnh thế kỷ XIX, canh tân đất nước là một yêu cầu bức xúc ảnh hưởng đến sự tồn vong của dân tộc. Trên bình diện thế giới, khi các nước phương Tây đã bước vào thời đại phát triển tư bản chủ nghĩa và văn minh công nghiệp thì tình trạng tiền tư bản và tiền công nghiệp của Việt Nam và phương Đông nói chung đã bộc lộ sự chậm tiến, sự lạc hậu so với thời đại. Nếu không canh tân để khắc phục tình trạng lạc hậu của đất nước thì khó bảo toàn được sự tồn tại độc lập của quốc gia, không tạo nên tiềm lực để đương đầu thắng lợi với những thách thức mới của thời đại. Thời nhà Nguyễn đã có nhiều đề nghị cải cách dâng lên nhà vua. Nhưng chúng ta nên phân biệt những đề nghị cải cách như sửa đổi ít nhiều chế độ tuyển dụng quan lại, quản lý công trình thủy lợi, mở mang khai hoang, chỉnh đốn giáo dục... trên nền tảng không thay đổi của kết cấu kinh tế xã hội phong kiến, với những cải cách mở cửa khai thông giao thương, phát triển công thương nghiệp, học tập kỹ thuật phương Tây, nâng cao trình độ quốc phòng... vươn lên tầm nhìn thời đại.
    Những cải cách sau mãi đến thời Tự Đức mới xuất hiện với những điều trần đầy tâm huyết và nỗi trăn trở của những trí thức cấp tiến như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, Bùi Viện... Xu hướng cải cách như vậy là chậm và tuy vua Tự Đức có lúc quan tâm, nhưng không chấp nhận và thực hiện như một chủ trương của triều đình. Đây là mặt hạn chế lớn của triều Nguyễn và hội thảo cũng đã trao đổi sơ bộ về những nguyên nhân bên trong và bên ngoài cũng như trách nhiệm của triều Nguyễn và thấy cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn nữa.
    3.3. Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến 1884 do triều Nguyễn lãnh đạo đã kết thúc thất bại. Hội thảo nhất trí nhận định để mất nước là một trách nhiệm nặng nề không thể thoái thác và biện hộ của triều Nguyễn với cương vị triều đình nắm chủ quyền quốc gia. Nhưng nguyên do mất nước cần phải nghiên cứu sâu sắc trong những nguyên nhân trực tiếp và sâu xa, nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc biệt phải đặt trong bối cảnh khu vực và thế giới, cần so sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Những nguyên nhân trực tiếp thì khá rõ như chủ trương không nhất quán khi chủ chiến, khi chủ hòa, khi lúng túng giữa chủ chiến và chủ hòa, tổ chức và lãnh đạo kháng chiến phạm nhiều sai lầm về chiến lược và chiến thuật, nhất là không huy động được sức mạnh đoàn kết dân tộc, sức mạnh toàn dân đánh giặc, bỏ lỡ nhiều cơ hội đáng tiếc... Nhưng hội thảo nhận thấy cần nghiên cứu sâu hơn trong cả quá trình dẫn đến thất bại của triều Nguyễn, trong đó mối quan hệ giữa canh tân đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc là rất quan trọng.
    Ngoài những vấn đề trên, trong hội thảo cũng có người đề cập đến hệ tư tưởng Nho giáo, chính sách ngoại thương có phải là "bế quan tỏa cảng" hay không, chính sách và giải pháp đối với Ki Tô giáo, chính sách đối với các nước láng giềng, nguyên do tình trạng xã hội bất ổn định thời Nguyễn... Nhưng do điều kiện thời gian, hội thảo không mở rộng phạm vi thảo luận mà chỉ trao đổi, gợi ra một số ý kiến để cùng nghiên cứu.
    4. So với yêu cầu đặt ra từ đầu, có thể kết luận hội thảo đã thành công tốt đẹp. Thành công lớn nhất là hội thảo đã đạt được sự nhất trí cao đến mức độ đồng thuận cho rằng thái độ phê phán, lên án toàn diện các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trước đây dù có lý do của nó, nhưng đã đến lúc cần phải thay đổi. Kéo dài nhận thức cũ đã gây ra sự phản đối trong nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế, đã tạo nên nhiều phản ứng bất bình trong tâm lý xã hội và công luận. Trên cơ sở đó, hội thảo đã xác lập một nhận thức mới về thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn, công nhận và tôn vinh những cống hiến lớn lao của chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong sự nghiệp mở mang lãnh thổ về phía nam, thống nhất đất nước và xây dựng quốc gia thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại và để lại một di sản văn hóa đồ sộ, một bộ phận tạo thành quan trọng của di sản văn hóa dân tộc.
    Hội thảo cũng nhất trí nêu lên những mặt hạn chế của thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Tuy còn nhiều vấn đề đang tồn tại nhưng hội thảo đã tạo nên một hướng nhận thức mới để cùng tiếp tục nghiên cứu và thảo luận. Đây là một đổi mới quan trong trong nhận thức về chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Nhưng cần nhấn mạnh "đổi mới" hoàn toàn không có nghĩa là lật ngược lại vấn đề, chuyển từ cực đoan phê phán sang cực đoan tôn vinh một chiều mà là nhận thức lại trên cơ sở những kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất ở trong nước và trên thế giới với những luận chứng khoa học có sức thuyết phục.
    Những kết quả của hội thảo cần được quảng bá trong xã hội, cần được tiếp thu trong chỉ đạo công việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, trong biên soạn lịch sử Việt Nam, trong chỉnh sửa sách giáo khoa phổ thông. Tất nhiên hội thảo khoa học chỉ đưa ra các tư vấn và kiến nghị khoa học, còn công việc thực thi thuộc trách nhiệm của các cơ quan chức năng của hệ thống chính trị hiện nay.
    Nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực, công bằng là trách nhiệm của giới sử học và các thế hệ hôm nay, biểu thị một thái độ sòng phẳng đối với quá khứ. Đó cũng chính là cơ sở khoa học quan trọng để giải tỏa những bất bình, những mặc cảm bị dồn nén bởi những nhận thức sai lầm trước đây, từ đó góp phần ổn định xã hội, tăng cường sự đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp chấn hưng dân tộc, xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh hiện nay.
    GS Phan Huy Lê
    Được thanhle2004 sửa chữa / chuyển vào 13:58 ngày 23/10/2008
  8. CavalryX

    CavalryX Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2008
    Bài viết:
    143
    Đã được thích:
    0
    Đây la? kết luận cu?a hội nghị nhă?m vinh danh nha? Nguyêfn thôi, chứ nhưfng ngươ?i chống đối thi? họ không the?m tham dự. Hội nghị có công biến điê?m đen tha?nh "điê?m mơ?", chắc 50 chục năm sau có hội nghị khác biến điê?m mơ? tha?nh "điê?m sáng"!
  9. dietcoke

    dietcoke Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2008
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    Đen với mờ thì đều xấu và là tì vết cả, sao lại thành "sáng" là đẹp được.
    Học giả đâu cần phải dùng lời lẻ nặng nề xỉ vả như chỗ mằng nhau ngoài chợ thì mọi người mới hiểu.
    Hội nghị kết luận như vậy khách quan qúa rồi xấu tốt đều rõ cả, còn mong gì
    nữa. Ráng sống 50 năm sau xem nó ra sao đi, và hy vọng nó quay lại với quan điểm thời kỳ cải cách ruộng đất nói xấu nhà Nguyễn > 95% cho sướng.
  10. dietcoke

    dietcoke Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2008
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0

    Cái mới là từ hồi giờ chưa thấy kết luận nào công tâm hơn và có độ "thâm hậu" như vậy.

Chia sẻ trang này