1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đánh giá lại "công và tội" của vương triều Nguyễn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi minh91, 02/10/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. cacbanoi

    cacbanoi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/05/2002
    Bài viết:
    2.182
    Đã được thích:
    0
    em ở Huế cho nên một số đường mang tên một số vị Vua triều Nguyễn vẫn có, có đường Gia Long, Hàm Nghi, Minh Mạng, Duy Tân.
    em thấy chúng ta đúng là nên xem công và tội của triều Nguyễn, không đáng để bị bêu xấu như vậy đâu
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    người Xiêm giúp quân cho Gia Long để kiếm lợi, chứ nói xâm lược e hơi sai. Mà thực tế sau này các Vua Nguyễn ấn áp cả Xiêm và tranh giành bảo hộ Cao Miên.
    Nói như bạn dẫn ở trên tôi vẫn chưa thấy Gia Long có "tội" gì cả vì người Xiêm chưa làm gì thì đã bị đánh tan tác, cho nên ko thể nói hậu quả của việc chưa từng xảy ra.
    Ai dẫn chứng dc "tội" của Vua Gia Long thì xin mời tiếp tục
  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Một số thông tin về "một ai đó"
    Năm 1765, chúa Nguyễn là phúc Khoát chết. Trước kia, Phúc Khoát đã lập người con duy nhất của chính phi lên làm thế tử đi nối ngôi chúa, nhưng người đó chết sớm, để lại một đứa con là Nguyễn Phúc Dương.
    Khi Nguyễn Phúc Khoát chết, hoàng tôn tức Nguyễn Phúc Dương còn nhỏ tuổi quá không lên cầm quyền chính được, đáng lẽ ngôi chúa phải thuộc về người con lớn tuổi hơn cả của Nguyễn Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Luân và chính Nguyễn Phúc Khoát cũng đã có ý như vậy từ khỉ còn sống. Nhưng Nguyễn Phúc Khoát chết, quyền thần Trương Phúc Loan đã phế lập Nguyễn Phúc Luân, bắt Luân bỏ ngục, giết chết mọi người thân cận của Luân và đưa người con 11 tuổi của Nguyễn Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Thuần lên làm chúa. Từ đấy, quyền thần Trương Phúc Loan ngày càng tham tàn, bạo ngược. Bọn quan lại và các tầng lớp trên của xã hội Đàng trong lúc ấy đều oán ghét Trương Phúc Loan, thâm tâm muốn phù hoàng tôn Dương lên ngôi chúa, nhưng không có phương sách hoạt động. Nắm được tình hình đó, năm 1771, các lãnh tụ Tây Sơn nêu khẩu hiệu: ?oĐánh đổ Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Dương? để phất cờ khởi nghĩa.
    Mùa đông năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh, lần lượt đánh chiếm Bố Chính, Đồng Hới, tiến nhanh vào Thuận Hóa. Ngày 30 tháng 1 năm 1775, quân Trịnh hạ thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ kinh thành chạy vào Quảng Nam. Không để cho bọn chúa Nguyễn kịp nghỉ ngơi, nghĩa quân Tây Sơn theo hai đường thủy bộ tiến ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần vội chạy vào Gia Định, để cháu là Nguyễn Phúc Dương và một số tướng lĩnh ở lại hoạt động ở vùng Cu Đê thuộc Quảng Nam.
    Tháng hai năm ất Mùi (1775), quân Trịnh tiến xuống Quảng Nam. Nghĩa quân Tây Sơn cũng tiến lên lùng bắt được bọn Nguyễn Phúc Dương.
    Tháng Mườí năm Bính Thân (1776), Nguyễn Phúc Dương từ Qui Nhơn trốn được về Gia Định. Phúc Dương vội vàng gọi Lý Tài về làm vây cánh cho mình. Lý Tài tiến quân về Gia Định, Đỗ Thanh Nhân phải bỏ Gia Định, chạy về căn cứ cũ Ba Giòng (tức Tam Phụ) Lý Tài ép Phúc Thuần nhường ngôi chúa cho Phúc Dương. Phúc Dương xưng là Tân chính vương và tôn Phúc Thuần làm Thái thượng vương. Lý Tài được phong làm bảo giá đại tướng quân ?
    ? Quân Nguyễn Phúc Dương đã bị bắt gọn, không trốn thoát một người nào. Nguyễn Phúc Dương và 18 tướng lĩnh tùy tùng bị đưa về Gia Định chịu tội tử hình ngày Tân hợi tháng Tám năm Đinh Dậu tức 18 tháng 9 năm 1777
    PS: Lý Tài là người Hoa, chỉ huy quân Hoa Kiều tham gia Tây Sơn thời kỳ mới khởi nghĩa.
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Nói tóm lại, cái ý đồ đánh bóng Nguyễn Ánh và chạy tội cõng rắn cắn
    gà nhà của y, mặc dù đưa ra lúc nào, cũng chỉ bới xấu y mà thôi.
    Xin hãy để người đã chết được yên.
  5. minh91

    minh91 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2006
    Bài viết:
    1.205
    Đã được thích:
    906
    Bạn macay3, mình thua bạn vì kiểu lý luận cùn (xin lỗi nếu bạn cảm thấy phật ý). Vì quân Xiêm tan tác nên mình đã nói là Nguyễn Ánh "may mắn" chứ nếu không tan tác thì chuyện gì sẽ xảy ra. Liệu có xảy ra những vụ như tàn sát mà thủ phạm là quân Xiêm không? Đến 1 quân đội "văn minh hiện đại" như Mỹ mà vẫn có xảy ra những vụ tàn sát, thì ai đảm bảo 1 đội quân phong kiến như quân Xiêm sẽ không làm điều đó. Nguyễn ánh cần phải cảm ơn Tây Sơn đã đem lại sự "may mắn" đó, nếu không e rằng ông ta sẽ để lại trong lịch sử 1 vết đen còn lớn hơn rất nhiều.
    Bạn cứ thử nghĩ xem, ai cũng như bạn, mất quyền lực là đi mượn quân đội nước ngoài về thì Việt Nam sẽ ra sao. Triều Tiên là bài học nóng hổi, chiến tranh Triều Tiên xảy ra sau khi VN bị chia cắt, cho đến giờ đất nước đã thống nhất chưa. Bạn thử tìm xem trong LS thế giới từ trước đến nay có đất nước nào mà nhờ vào quân đội nước ngoài mà tồn tại ổn định không, hay những bằng chứng cho thấy bất ổn càng nhiều mà tội ác với dân chúng là càng lớn. Mình hỏi thật nhé, bạn có cảm thấy sỉ nhục khi người VN mình bị người nước ngoài ăn hiếp khinh rẻ 1 cách vô cớ không.
  6. dhlv

    dhlv Guest

    COPY & PASTE (1:29'' 12/06/2008) : http://vietnamnet.vn/bandocviet/2008/06/788086/
    Nhân Festival Huế: Nghĩ về chính sách Gia Long khuyến nông
    Qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hạng cao trên thế giới. Bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh chóng, đời sống của người nông dân được nâng cao... Song chính vì thế mà hiện nay, không ít người, trong đó có cả những địa phương tỏ ra chủ quan, ru ngủ bởi những thành tích đã đạt được. Ôn cố tri tân, câu chuyện về chính sách khuyến nông của vua Gia Long đáng để chúng ta suy ngẫm.
    Vua Gia Long, tức Thế Tổ Cao Hoàng đế nhà Nguyễn (Nguyễn Phúc Ánh, trị vì 1802 - 1820), sau khi thống nhất đất nước, đã sửa sang việc triều chính, định binh chế, quan chế, tài chính, đinh điền nông nghiệp, công vụ, pháp luật, học hành, ngoại giao...
    [​IMG]
    Một trong những việc làm của ông được lịch sử đánh giá cao, có nhiều tiến bộ là chính sách khuyến nông. Theo cuốn ?oViệt Nam sử lược? của học giả Trần Trọng Kim, vào thời Gia Long, nhà vua đã ban hành và thi hành rất nghiêm các định lệ.
    Về đinh bạ, tức như là sổ kê khai lao động (ở đây là nam giới). Lệ định cứ 5 năm 1 lần làm sổ đinh. Trong làng, nam giới từ chức sắc cho đến quân dân, 18 đến 59 tuổi đều phải khai vào sổ. Nhờ đó, Nhà nước nắm vững được lực lượng lao động để điều tiết trong công việc canh nông cũng như phòng thủ đất nước.
    Về điền bạ, tức là sổ thống kê ruộng đất. Các làng, ruộng mùa, ruộng chiêm, ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc toạ lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua (tức là kê biên, ghi chú) rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào Bộ (tức là Bộ Hộ trông coi việc đinh điền, canh nông, thuế má, lưu thông tiền bạc, kho tàng, sản vật, giá cả...), đóng dấu kiềm (tức là dấu giáp lai, kiểm định), rồi một bản lưu tại Bộ, đề phòng khi xét đến, còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để lại một bản lưu chiểu, còn một bản giao lại để dân xã lưu thủ.
    Đặc biệt, vua cấm chỉ việc bán ruộng công điền. Nguyên từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công điền đổi ra tư điền, có nơi thì đem cố, bán đi. Bởi vậy, năm Gia Long thứ 2 (1803), nhà vua lập lệ cấm dân không được mua bán công điền, công thổ, chỉ trừ lúc nào xã, thôn có công dụng điều gì thì mới được phép cho điền cố (tựa như cho thuê đất, khoán sản của ta bây giờ), nhưng chỉ cho hạn hết 3 năm phải trả lại. Ai giữ quá hạn ấy thì bị tội.
    Về việc miễn giảm thuế nông nghiệp. Tuy lệ thuế đã định, hạng nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên (tức hàng năm) nộp 20 thăng thóc, nhị đẳng điền nộp 15 thăng, tam đẳng điền nộp 10 thăng. Nhưng năm nào ở đâu mất mùa như bị hoàng trùng (tức là châu chấu, sâu bọ), đại hạn hay nước lụt..., Nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều hay ít mà giảm thuế cho dân. Lúc 10 phần thiệt hại tới 4 thì khoan giảm cho 2 phần thuế; thiệt hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt hại 8 phần thì giảm cho 7; thiệt hại hết cả thì miễn cả. Hoặc Nhà nước có lấy dân đi làm đường, đào sông... thì cũng được giảm thuế.
    Việc sông ngòi, đê điều, trị thuỷ. Những công việc này được nhà vua coi là sự quan yếu cho việc canh nông. Bởi vậy, ông truyền cho quan ở các trấn phải soi đào các sông ngòi và các cửa bể để dẫn thuỷ nhập điền, chống hạn, tiêu lũ. Coi trọng việc đắp đê, bảo trì đê điều, nhất là ở các trấn, các tỉnh thuộc Bắc Bộ. Chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải tu sửa. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa, đói kém thì lấy mà phát cho dân.
    Như vậy, có thể nói, Gia Long là một vị vua coi trọng khá toàn diện đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Ông đã khoan thư sức dân (giảm thuế); giữ gìn và mở rộng diện tích, cải tạo đất canh tác nông nghiệp (cấm bán công điền, công thổ; đào sông, thuỷ lợi, trị thuỷ, khai hoang phục hoá); có chiến lược an ninh lương thực (lập kho dự trữ để cấp phát cho dân khi mất mùa, đói kém)...
    Lịch sử đã ghi nhận, dưới thời ông trị vì, dân sinh an lạc, nông nghiệp mở mang, đất nước cường thịnh, vị thế đất nước được tăng cường khiến các nước trong khu vực kể cả nước lớn cũng phải nể trọng.
    Nhìn lại tình hình nông nghiệp, nông thôn, nông dân ta hiện nay, qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hạng cao trên thế giới. Bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh chóng, đời sống của người nông dân được nâng cao... Song chính vì thế mà hiện nay, không ít người, trong đó có cả những vị lãnh đạo tỏ ra chủ quan, ru ngủ bởi những thành tích đã đạt được.
    Về mặt quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng chưa có một chiến lược ổn định, lâu dài cho nông nghiệp. Hơn nữa, cơn lốc đô thị hoá tràn lan, mạnh địa phương nào địa phương ấy làm, thiếu sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Trung ương, sự yếu kém, tiêu cực trong quản lý đất đai tạo điều kiện cho nhiều kẻ cơ hội đầu cơ đất đai, khiến cho nhiều diện tích đất canh tác ?obờ xôi, ruộng mật? bị mất đi nhanh chóng vào những dự án treo, bỏ hoang hoá, trong khi nông dân thì không có đất để canh tác. Đời sống của một bộ phận không nhỏ nông dân khó khăn, thiếu lương thực, nghèo đói, tệ nạn xã hội ở những nơi nông dân bị lấy mất đất gia tăng. Trong khi diện tích đất trồng cây lương thực bị mất vĩnh viễn do bị san lấp không thể khôi phục lại.
    Theo một báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích đất canh tác lương thực của cả nước năm 2005 có 4,27 triệu ha, đến nay chỉ còn 4,13 triệu ha, trung bình mỗi năm bị mất đi 50.000ha. Vừa qua, Bộ trưởng Cao Đức Phát báo cáo với Thủ tướng phải giữ lại ít nhất 3,9 triệu ha. Nhưng, nếu với đà này, đến năm 2020, đất canh tác chỉ còn khoảng 3,3 triệu ha, trong khi dân số dự kiến đến năm 2020 là 100 triệu người, đó là vấn đề cần tính đến đối với nguy cơ mất an ninh lương thực.
    Về chính sách đối với nông dân, trong mấy năm sau thời kỳ mất ổn định ở Thái Bình và một số địa phương, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ cho nông dân như: miễn giảm thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí, bỏ các khoản hà thu lạm bổ cho nông dân. Nhưng mấy năm gần đây, tình trạng hà thu lạm bổ lại đang tái diễn.
    Hơn nữa, các khoản chi phí đầu vào của nông nghiệp quá lớn, lạm phát tăng cao và kéo dài, nên sản xuất nông nghiệp không có lãi, có lúc, có nơi còn thua lỗ, đời sống của đại bộ phận nông dân ngày càng khó khăn. Bởi vậy nông dân không còn thiết tha với đồng ruộng. Lao động trong sản xuất nông nghiệp ngày càng bị mất đi do nông dân đi làm thuê, làm mướn.
    Mấy năm gần đây, tình trạng nhiều nông dân trả ruộng ở Thái Bình, vốn là một tỉnh thuần nông, người dân bao đời nay gắn bó với ruộng đồng, là một hồi chuông báo động.. Điều đó cũng cho thấy sự bất hợp lý trong chính sách đối với nông nghiệp nói riêng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung hiện nay.
    Cuộc khủng hoảng về giá lương thực toàn cầu vừa qua, mà Việt Nam là 1 trong 37 quốc gia bị ảnh hưởng trực tiếp, buộc chúng ta không thể chủ quan với vấn đề nông nghiệp và an ninh lương thực trong bối cảnh đô thị hoá hiện nay. Nhà nước cần có cuộc tổng điều tra chi tiết diện tích đất nông nghiệp, nhất là đất canh tác sản xuất lương thực. Cần dừng lại ngay những dự án nào không thực sự cần thiết, bất hợp lý, trả lại đất cho sản xuất lương thực trong khi còn có thể, để đảm bảo an ninh lương thực, trước khi quá muộn.
    Qua câu chuyện về chính sách khuyến nông của vua Gia Long, ôn cố tri tân, thiết nghĩ bài học của tiền nhân vẫn còn nguyên giá trị với hôm nay.
    Đào Xuân Ánh, Thái Bình
  7. dhlv

    dhlv Guest

    COPY & PASTE : http://hanoi.vnn.vn/chuyen_de/0004/cac_vi_vua/bai_12.html
    Gia Long Hoàng đế (1802-1819)
    Ông chính tên là Nguyễn Phước Ánh, sinh nZm 1762 con ông Nguyễn Phước Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn, cháu nội của Võ vương Nguyễn Phước Khoát. Cha bị hãm hại, ông ở với chúa Định Vương Nguyễn Phước Thuần từ khi 4 tuổi. Cơ nghiệp họ Nguyễn suy sụp, Thuận Hóa bị mất, chúa tôi chạy vào Gia Định, lại bị Tây Sơn giết, cả Nguyễn Phước Thuần và Nguyễn Phước Dương. Nguyễn Phước Ánh trốn ra đảo Thổ Chu, mưu đồ khôi phục, dù lúc ấy ông còn rất ít tuổi. Đến nZm 1779, ông mới 17 tuổi, được thu hạ tôn làm Đại nguyên súy. NZm 1780 xưng vương ( 18 tuổi) vẫn theo niên hiệu nhà Lê, dốc sức để cự lại với Tây Sơn. Nhưng liên tiếp bị thất bại. Hai lần chạy trốn ra đảo Phú Quốc, một lần chạy sang Xiêm, có khi bơ vơ trên biển, thiếu thốn đủ đường, nhưng nhờ chí kiên trì mà cuối cùng được thắng lợi. NZm 1802 Nguyễn Phước Ánh lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Gia Long.
    [​IMG]
    Khi lên ngôi vua, Gia Long kịp thời đặt quan hệ ngoại giao, xin cầu phong với nhà Thanh, liên hệ với Xiêm La, Châu Lạp, đều có kết quả thỏa đáng, được các nước láng giềng ủng hộ. Ông đặt tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà ngày xưa nên đổi là Việt Nam. Nhà vua chú trọng việc định pháp luật, nZm 1815 bộ "Quốc triều hình luật" gồm 398 điều đặc trưng được ban hành. Các việc tài chính, thuế khóa, tiền tệ, đo lường, giao thông đê điều vv... đều được quan tâm và đưa vào nề nếp. Ông cho thành lập các thành, các trấn (có nội trấn và ngoại trấn) lập sở địa bạ, đặt lục bộ, tam tào, bỏ các ngôi vịnh hoàng hậu, tể tướng, trạng nguyên. Gia Long còn có ý thức chấn hưng vZn hóa, phát huy truyền thống, nhằm khẳng định thế lực, danh tiếng của vương triều. Từ 1801, Gia Long đã ra lệnh soạn các bộ sử Cương mục, Chính biên, Tiền liên. NZm 1810, Lê Quang Định đã làm xong sách: Nhất thống địa dư chí. Ông cùng cho lập VZn Miếu, mở khoa thi hương, nhưng chưa cho thi hội.
    Từ thế kỷ l 7, các chúa Trịnh, Nguyễn ở Đàng ngoài , Đàng trong đều đã sử dụng giáo sĩ và thương nhân nước ngoài để mua vũ khí, khai thác các khả nZng, nhằm tZng cường thế lực của mình. Nhưng chỉ Nguyễn Phước Ánh mới chính thức đi tìm ngoại viện. Ông đã cầu viện quân Xiêm, nhưng chẳng đi đến đâu, vì quân Xiêm sợ quân Tây Sơn như sợ cọp. Cả quân Xiêm và quân Nguyễn Ánh, đã bị Nguyễn Huệ đánh cho tan tác bằng chiến thắng Rạch Gầm, Xoài Mút (1785).
    Gia Long còn nhờ cổ đạo Bá Đa Lộc, mong cầu cứu Pháp, cho cả con là hoàng tử Canh sang Pháp làm con tin, ký hiệp ước ngày 28- 11 -1787, nhưng nước Pháp lại không quan tâm nên hiệp ước này không thực hiện được.
    Quản lý một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam, Gia Long đã chia cả nước làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc Thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn. ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận. Đất kinh kì đặt 4 doanh: Quảng Đức doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Để tránh lộng quyền ngay từ đầu nhà vua đã bãi bỏ chức vụ Tể tướng. ở triều đình chỉ đặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các thượng thư đứng đầu và Tả hữu tham trí, Tả hữu thị lang giúp việc. ở trong cung thì không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng phi và các cung tần.
    Công cuộc khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Thời Gia Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước. Về đối ngoại, Gia Long đã tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, đồng thời giữ mối quan hệ với Chân Lạp và Ai Lao.
    Cũng như nhiều vua chúa khác Gia Long đã đối xử không tốt với các công thần. Sau khi lên ngôi Gia Long đã giết hại vị công thần bậc nhất của triều Nguyễn lúc đó là Nguyễn VZn Thành. Còn một điểm nữa cũng gây nhiều tai tiếng đó là việc Gia Long đã tìm cách trả thù đối phương của mình một cách man rợ. Có thể ví nhà Tây Sơn đã phá tan cơ nghiệp của dòng họ Nguyễn. Có thể cũng vì phải trốn Tây Sơn mà Gia Long đã phải chịu đựng quá nhiều đắng cay nhục nhã, cho nên đến khi lên ngôi Gia Long đã thẳng tay trả thù. Gia Long tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù". Trả thù kẻ địch và tôn vinh lại những người đã khuất trong dòng họ Nguyễn. Nhưng sự tàn bạo và nhỏ nhen của Gia Long đã không thuyết phục được ai, mà lại biến ông thành kẻ tầm thường, không xứng đáng với một ông vua sáng lập ra triều đại nhà Nguyễn.
    Ngày Đinh Mùi tháng 12 nZm Kỷ Mão (1819) Gia Long mất, thọ 59 tuổi ở ngôi chúa 25 nZm, làm vua trong 18 nZm.
  8. dhlv

    dhlv Guest

    COPY & PASTE (10:39, 26/7/2008) : http://www.baodanang.vn/vn/vanhoavannghe/chuyenxua/13505/index.html
    ?oNgọn gió xứ Quảng? và giếng Vua
    Ở thôn 4, xã Tam Quang, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam có một ngôi chùa tên là Quảng Phong. Theo dân gian, chung quanh ngôi chùa này có một số giai thoại khá lý thú về Chúa Nguyễn Ánh...
    Tương truyền rằng, ở làng Thanh Trà, xứ Bàu Tròn (xưa thuộc xã Tam Quang, nay thuộc xã Tam Nghĩa, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam) có một phụ nữ được tuyển vào phủ Chúa và trở thành vú nuôi, lo chăm sóc, bồng bế Nguyễn Ánh từ bé... Được một thời gian, do chiến tranh xảy ra liên miên giữa Tây Sơn với Chúa Nguyễn, giữa Chúa Nguyễn với Chúa Trịnh nên bà phải rời phủ Chúa trở về quê nhà, giấu mang theo về chiếc áo của Nguyễn Ánh.
    Nguyễn Ánh lớn lên, theo đuổi con đường vương nghiệp, phải bôn ba nhiều nơi, trong đó có lần ông đem quân về đồn trú ở vùng biển Kỳ Hà. Bà vú nuôi năm xưa hay tin tìm đến thăm ông và trao chiếc áo ông mặc thời thơ ấu. Khi nhận ra hiện vật ngày nào, Chúa rất cảm động trước tình cảm thiêng liêng mà bà vú nuôi xứ Quảng đã dành cho mình. Tuy thời gian đã làm bà đổi khác nhưng tấm lòng đôn hậu, dịu dàng của bà đối với Nguyễn Ánh thì trước sau vẫn không thay đổi. Cảm kích trước nghĩa tình của người vú già, Chúa đã cho xây một ngôi nhà tại quê bà và cấp bổng lộc để bà an dưỡng cho đến hết đời.
    Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, nhà vua cho rước người vú nuôi có nghĩa, có tình ra kinh đô Phú Xuân để phụng dưỡng. Trước tấm thịnh tình của vua, bà xin được sống tại quê nhà và chỉ có một nguyện vọng là muốn sửa sang ngôi nhà vua ban tặng trước kia thành một ngôi chùa để bà tu hành, cứu nhân độ thế trong quãng đời còn lại. Vua thuận lòng, cho quan, quân địa phương sửa sang, xây dựng ngôi nhà thành ngôi chùa và sắc ban cho tên chùa là Quảng Phong, nghĩa là ?oNgọn gió xứ Quảng?.
    Ngày nay, chùa Quảng Phong chỉ còn lại dấu tích cổng tam quan rêu phong, cổ kính; còn kiến trúc của ngôi chùa đã thay đổi qua nhiều lần trùng tu, có dáng vẻ như bao ngôi chùa Phật khác. Cách chùa về phía trái khoảng một cây số là tháp mộ bà vú nuôi của vua Gia Long - chủ nhân đầu tiên của ngôi chùa.
    Ngoài chùa Quảng Phong, trong vùng này vẫn còn một giếng nước trong lành, gọi là giếng Vua, gắn liền với giai thoại Chúa Nguyễn Ánh đem quân về đồn trú tại đây. Tương truyền, lúc đó dân cư hãy còn thưa thớt, cả một vùng cát trắng chạy dài theo sông Trường Giang không có lấy một giọt nước ngọt, đào giếng xuống chỉ gặp toàn nước phèn, chua mặn.

    Trong cơn ngặt nghèo, Chúa đã cho bày hương án tế trời xin cho đào được nước ngọt để nuôi quân. Lạ thay, khi tế xong, quân lính chỉ đào một lần duy nhất là được ngay một giếng nước ngọt trong lành, nước đầy ăm ắp... Đến khi có lệnh rút quân đi nơi khác thì một số gia đình binh lính xin được ở lại vùng này, sau đó dân cư từ khắp nơi kéo đến đây sinh sống, lập nên làng xã. Tất cả cùng uống chung dòng nước trong lành không bao giờ cạn từ giếng Vua. Ngày nay, khách có về xã Tam Quang nhớ ghé thăm chùa Quảng Phong, nghe người trong làng kể về ?oNgọn gió xứ Quảng? và nhấp chén trà thơm ngọt lấy từ nước giếng Vua gần đó...
    AN TRƯỜNG
  9. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    tôi chỉ muốn bạn tranh luận ko dựa trên cảm tính, mà bạn cũng ko làm dc.
    Bạn nói :"tội" của Gia Long!
    Tôi chỉ muốn biết :"tội" ấy có diễn ra hay ko? có hậu quả thực tế thế nào?
    nói về quân Xiêm thì họ chiếm vùng nào của VN? có giết dân VN nhiều hay ít? vào lúc nào? số lượng bao nhiêu? Họ để lại hậu quả gì?
    Nói về người Pháp : họ ở đâu?làm gì?họ là ai?
    Tôi muốn bạn nắm vững số liệu, dữ kiện,không gian lịch sử thật chính xác cái đã rồi hãy đưa đến kết luận.
    p/s : Cãi cùn là phát ngôn dựa vào cảm tính(suy nghĩ) của mình, nếu thế tớ luôn luôn tôn trọng điều bạn nghĩ và phát ngôn.
  10. dhlv

    dhlv Guest

    COPY & PASTE : http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/vua/gialong.htm
    Gia Long (1762 - 1820)
    Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nguyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Ðàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí Tỵ (1773). Lợi dụng lúc Ðàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Ðịnh, chấm dứt sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Ðàng Trong.
    Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời đã tỏ ra là một con người có chí và thông minh vì thế rất được Chúa yêu, tuy còn nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đã tỏ ra là một tướng cầm quân có tài.
    Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Ðịnh, Chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Ðịnh Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong và vất vả.
    Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy lại Bình Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Ðịnh. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc.
    Nguyễn Vương vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh trong lòng một mối thù phục quốc. Chính vì thế nên khi biết được Giám mục Pháp Bá Ða Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Ðàng Trong , Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đã để cho con trưởng của mình là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Ða Lộc sang Pháp làm con tin.
    Trong thơ cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Ðể đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn đảo), và cảng Hội An (có sách nói là cảng Ðà Nẵng).
    Giám mục Bá Ða Lộc ký được hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân ở Ấn Ðộ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Ða Lộc nên nói ra với vua Pháp và cũng vì nước Pháp đang bị nội loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ mãi không được, Giám mục Bá Ða Lộc bỏ tiền riêng để mướn một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 thì Hoàng tử về đến Gia Ðịnh.
    Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giã mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 thì vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Ðéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương cũng chạy theo về Xiêm La lánh nạn.
    Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội) diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vã đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc Bình Vương. Từ đó anh em Tây Sơn đã có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đã đem quân đánh nhau.
    Vì ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn đã không ngó ngàng gì đến các xứ Ðàng Trong nhất là từ Qui Nhơn (Bình Ðịnh) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đã cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1787), trở về nước. Nguyễn Vương đã được dân miền Nam giúp đở rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến phò như Võ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Vương đã lớn mạnh. Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Ðịnh trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn bộ xứ Gia Ðịnh đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia Ðịnh theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong.
    Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.
    Ở Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Ðược tin, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống lãnh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín.
    Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10 tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong.
    Ðược tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v...
    Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất Bắc, quân Tây Sơn tan rã lần hồi. Ðến tháng 6 cùng năm thì vua Gia Long đã thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.
    Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi còn đầu thì đem bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ xuống sông, còn sọ thì làm gáo đựng nước tiểu).
    Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng vì đất Nam-Việt đã có bên Tàu đời nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt-Nam để cho khỏi lầm với tên củ.
    Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.
    Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư:
    -Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc, v.v...
    -Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc, v.v...
    -Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử, v.v...
    -Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v...
    -Bộ Hình : coi việc pháp luật, v.v...
    -Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự, v.v...
    Ngài lập Văn Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan...
    Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Ða Lộc và có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đã theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Ða Lộc. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được tổ chức vào khoãng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đã làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh".
    Nhưng vua vẫn một lòng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đình viết sớ đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đình, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đình và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ phạt thẳng tay những người có ý nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết.
    Ngày 19 tháng 12 năm Canh Thìn (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng Kim thì Ngài mất năm 1819).
    Được dhlv sửa chữa / chuyển vào 14:53 ngày 03/10/2008

Chia sẻ trang này