1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Danh nhân Trung Quốc - Bạn ấn tượng với ai nhất

Chủ đề trong 'Trung (China Club)' bởi Lee_Kwuang_Jyun, 28/08/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. aliaha

    aliaha Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    2.130
    Đã được thích:
    0

    Mình thì thích Quan Vũ , cả đời oanh liệt .
  2. iu_uppa_nhut

    iu_uppa_nhut Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/10/2006
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    4
    Võ Tắc Thiên
    Võ Tắc Thiên (chữ Hán: 武??天; tên riêng Võ Chiếu 武>O; 625 ?" 16 tháng 12, 705) là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu ('), và cai trị dưới cái tên Thánh Thần Hoàng Đế ((-zs?帝) từ 690 đến 705. Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.
    Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ (-?水), thuộc quận Tinh Châu (幷z) (hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu (.梁o?) nằm cách Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (武士彠) (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là một thành viên liên minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi ông tiến hành chiến tranh giành quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà là Dương Thị (S氏) (579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (^z) hiện là thành phố Quảng Nguyên (廣.f,), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.
    Bà được đưa vào hậu cung vua Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời điểm khác có thể là: 636) và là một Tài Nhân (?人), tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị (s), có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vị nữ hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương. (武s~).
    Năm 649, Thái Tông chết, và theo thói thường đối với những người thiếp, Võ Mị Nương phải rời cung để vào một ngôi chùa Phật giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc. Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa trở lại hoàng cung bởi vì ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ vua Cao Tông, hoàng hậu họ Vương (Z<), đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một phi tần họ Tiêu (.) và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới người phi kia. Các nhà sử học hiện nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một số nghĩ rằng Võ Tắc Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà đã có tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua Thái Tông còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn rằng tới đầu những năm 650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và bà được gọi là Chiêu Nghi (~"?), mức cao nhất trong chín cấp bậc của những phi tần thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một trong những người thiếp của cha mình, và lại từng là một sư nữ như các nhà sử học truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng giáo.
    Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc vận động và lập mưu mẹo. Đầu tiên bà tống Tiêu phi cho khỏi bị ngáng đường, mục tiêu tiếp sau chính là hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ Tắc Thiên bị giết. Vương Hoàng hậu bị nghi ngờ là ở gần phòng của đứa trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình. Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có lẽ điều này là do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa ra. Ngay sau đó, bà được hoàng đế phong làm Thần Phi (宸f), ở thứ bậc cao hơn bốn phi tần cao nhất và chỉ kém hoàng hậu. Cuối cùng, tháng Mười Một năm 655, Vương hoàng hậu bị giáng phong và Võ Tắc Thiên được đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng Tiêu phi một cách tàn bạo - họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những thùng rượu to để họ còn sống khổ cực thêm ít ngày nữa.
    Sau khi Cao Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11, 660, bà bắt đầu cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được quyền lực tuyệt đối khi hành quyết Thượng Quan Nghi (S~"?) và Lý Trung (Z忠) vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau vị hoàng đế lúc ấy đã câm lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai vàng) và đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì dưới tên của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông và sau đó là đứa con khác Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn quyền lực vào 10 năm 690, khi bà tuyên bố lập ra nhà Chu, lấy tên theo tên thái ấp của cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực rỡ nhà Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ đó. Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà bắt triều đình đưa ra chữ mới Chiếu (>O), cùng với 11 chữ khác để trưng ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn chữ mới này làm tên thánh của mình, sau đó nó trở thành chữ húy khi bà lên ngôi mười tháng sau. Chữ này được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ "minh" ~Z ở bên trên có nghĩa là "ánh sáng" hay "sự sáng suốt"; chữ "không" 空 ở dưới có nghĩa là "bầu trời". Ý nghĩa của nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ bầu trời. Thậm chí cách đánh vần của chữ mới này cũng giống hệt như chữ "chiếu" trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi, bà tuyên bố mình là Hoàng đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức "hoàng đế" (s?帝) vốn đã được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 của triều đình Trung Quốc được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa lại gây sốc cho những nhà nho đạo Khổng.
    Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Vũ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai người sủng thần là anh em Trương Dịch Chi 張~"<, và Trương Xương Tông 張~O- ủng hộ. Bà lấy lòng dân bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ bên trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế (天?S?'輪-zs?帝), một cái tên đã không bị thay đổi cho tới tận cuối thời cai trị của bà.
    Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà cũng kết thúc ngày hôm đó, bà buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập, nhà Đường lại tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705. Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam Tư (武??), con người em họ và cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế vừa được tái lập thông qua hoàng hậu của ông ta, người mà ông đã có tình ý từ trước.
    Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà hậu Chu đã có được một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà Đường tiếp sau nó.
    Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, và cai trị bằng cách điều khiển từ phía hậu trường.
    Một tác giả nổi tiếng người Pháp là Shan Sa, sinh tại Bắc Kinh, đã viết một cuốn tiểu thuyết mang tính tiểu sử tên là "Impératrice" (Hoàng hậu, theo tiếng Pháp) dựa trên cuộc đời của Võ hậu.
  3. ColorDesign

    ColorDesign Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2006
    Bài viết:
    91
    Đã được thích:
    0
    Chu Ân Lai, một chính trị gia kiệt xuất trong lịch sử
  4. _Arwen_

    _Arwen_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2006
    Bài viết:
    3.574
    Đã được thích:
    0
    Nhân bài nói tới nước Sở của Khuất Nguyên ở trên mình lại hỏi rằng có ai còn nhớ tới Tây Sở Bá Vương Hạng Võ. Chỉ là thần tượng của đàn bà hay là thần tượng của dân tộc, mãi mãi câu hỏi đó còn trăn trở trong nỗi lòng người Trung Hoa. Cái chết oanh liệt đến phi thường, trong sự kính phục cũng như trong lời thương trách tại sao ông rất nặng lòng nhớ thương nước Sở nhưng thua một trận mà không thể mặt mũi nào gặp lại các bậc phụ lão Giang Đông. Tuy thua một trận lớn nhưng sức mạnh ở Giang Đông vẫn đủ cho một khả năng xoay ngược tình thế mà.
    "Tiếng Địch sông Ô" - một bài thơ buồn và hùng vĩ của Phạm Huy Thông cho đứa con yêu nhất của người dân nước Sở:
    Tiếng địch sông Ô
    Phạm Huy Thông
    I
    Sở Bá Vương ngồi yên trên mình ngựa,
    Giương mắt buồn say ngắm chân trời xa.
    Trong sương thu nhẹ đượm ánh dương tà,
    Quân Lưu Bang đang tưng bừng hạ trại.
    Khói tung bay trên vòm trời rộng rãi
    Như muôn sao trong đám tối mơ màng.
    Khắp bốn phương, giáo mác tỏa hào quang,
    Liên tiếp nhau chen chúc xung quanh ven trời lờn.
    Mấy làn trại (lưới xa xôi, mịt mùng và chắc chắn)
    Đóng trùng trùng, điệp điệp trên đầu non.
    Cờ chư hầu đỏ rực như pha son,
    Quằn quại cong trên nền trời lá mạ.
    Gió quát bên tai Vương, và rộn rã,
    Tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng loa vang,
    Theo gió chiều vi vút vẳng đưa sang.
    Nhưng, lặng lẽ, bâng khuâng, vua nước Sở,
    Như pho tượng đồng, ngồi trên mình ngựa,
    Để luồng mắt mênh mang
    Như vấn vương, như vơ vẩn trên Ô giang.
    Vì Vương rõ, phía sông Ô, binh Phàn Khoái,
    Mới hôm trước bị quân mình xô qua ải,
    Nên vòng vây chưa kịp khóa trước bình minh.
    Vương toan, khi đêm tối, chỉ huy binh,
    Chém quân Khoái vừa thua như cắt cỏ,
    Phá trùng vi tan tành về hướng đó.
    Vương sẽ dàn tướng sĩ bên kia sông,
    Họp chư hầu còn trung tín cho thật đông,
    Rồi máu Hán rửa lâng lâng hờn Cai Hạ.
    Vương sẽ như năm nào đem binh mã
    Lại tung hoành trên thế giới mênh mông,
    Vương sẽ lại (ôi vinh quang) trong bão lửa vẫy vùng,
    Vương sẽ lại tơi bời vung kiếm thép,
    Và, đưa tay, giành lại tấm giang sơn,
    Vương sẽ lại...
    Nhưng bóng đêm đã xóa cảnh hoàng hôn,
    Và phương xa, mơ hồ, trăng le lói,
    Một trận gió hung hăng đùng đùng nổi,
    Vặn mạnh cờ trên nóc trại ngất cao,
    Vương khoan thai, buộc lại dải chiến bào,
    Rồi xuống ngựa bước vào trong trướng gấm.
    II
    Trướng thênh thang, lạnh lùng và u ám,
    Sở Bá Vương đứng sững trước cửa phòng,
    Để nỗi buồn, một nỗi buồn u uất mênh mông,
    Ngao ngán nhẽ, nặng đè lòng người chiến sĩ...
    Và chống kiếm trước phòng sầu quạnh quẽ,
    Hạng Vương vừa nhác thấy bóng Ngu Cơ,
    Nên hỡi ôi! Tia hy vọng lờ mờ
    Vương cảm thấy trong lòng ngầm ngấm tắt.
    Vương trông...
    Vẫn như gặp nàng lần thứ nhất,
    Tim anh hùng như ngây ngất say sưa.
    Tựa thân mềm vào lưng ỷ, nàng Ngu Cơ
    Mắt mơ hồ nhìn qua khung cửa sổ,
    Để hồn buồn chơi vơi như bay trên cành gió.
    Chỗ nàng ngồi,
    Một luồng trăng biêng biếc riêng soi,
    Khiến Hạng Vương, trong lòng say, những tưởng
    Rời cung Quảng, ả Hằng vừa bay xuống...
    Thấy rèm châu êm ái bỗng cuốn lên,
    Nàng bâng khuâng sực tỉnh giấc mơ tiên,
    Ngoảnh đầu trông thấy quân vương bên trướng,
    Nàng đứng dậy. Rồi cúi chào phu tướng,
    Bước lại gần, chàng hé miệng, xót đau,
    Rồi ngập ngừng toan nói...
    Bỗng âu sầu,
    Vẳng bên tai như từng lời thổn thức,
    Như suối vắng âm thầm chiều thu khóc,
    Địch xa xôi dìu dặt trên Ô giang,
    Khúc bi ca não ruột và mơ màng,
    Như càng khêu những nỗi sầu tịch mịch,
    Như ôm ấp, như nấu nung lòng Hạng Tịch.
    Hồn đê mê, Sở chúa vuốt tua rèm,
    Say sưa nhìn cặp mắt long lanh đen,
    Cặp mắt nồng nàn, mà xa xăm, mà say đắm,
    Như chan hòa niềm ái ân đằm thắm,
    Cặp mày thanh, êm ái như mây cong,
    Như núi xuân lưu luyến hơi xuân phong,
    Dưới vầng trán bâng khuâng sẽ dịu dàng uốn nét.
    Tóc óng đen, như ao trong dưới bóng đêm mù mịt,
    Chập chờn bay theo áng gió heo may,
    Và êm buông như sóng cuốn trên lưng gầy.
    Trên Ô giang đương mơ hồ dìu dặt,
    Trong vùng tối âm u, dần dần tiếng địch... tắt.
    Tiếng địch tắt. Nhưng dư âm
    Trong sương khuya còn văng vẳng điệu âm thầm.
    Nén thương đau, Vương ngậm ngùi sẽ kể
    Niềm ngao ngán vô biên như trời bể.
    Ôi! Tấm gan bền chặt như Thái Sơn
    Bao nhiêu thu cay đắng chẳng hề sờn!
    Ôi Những trận mạc khiến trời long đất lở!
    Những chiến thắng tưng bừng, những vinh quang rực rỡ!
    Ôi! Những võ công oanh liệt chốn sa trường!
    Những buổi tung hoành, lăn lộn trong rừng thương!
    Những tướng dũng bị đầu văng trước trận...!
    Nhưng, than ôi! Vận trời khi đã tận,
    Sức lay thành, nhổ núi mà làm chi?
    Rồi buồn rầu, Vương tỏ cho nàng nghe
    Hy vọng cuối cùng trong tim Vương còn sót lại,
    Rồi Vương nói:
    Nhưng đau lòng ta biết mấy!
    Ngay đêm nay, ta phải quyết... biệt ái khanh
    Thì, nàng ôi, việc lớn mới mong thành.
    Nhưng rời nàng, ôi... rời nàng, ta đâu nỡ...?
    Mà mang nàng xông pha trong mưa lửa
    Trùng vi kia ta thoát khỏi làm sao?
    Giọt châu sa lã chã trên áo bào,
    Nàng Ngu Cơ bên mình chàng thổn thức.
    Địch Trương Lương như ngậm sầu quyện khóc,
    Lại não nùng dìu dặt trên Ô giang.
    Trên Ô giang, tiếng địch thiết tha than,
    Như tiếng nhạn kêu đêm nơi ven trời vò võ,
    Như tiếng nhạn canh khuya thầm nhủ gió
    Tự hư vô lại nức nở tiếng mơ màng,
    Nàng Ngu Cơ...
    Nàng Ngu Cơ, khẳng khái nắm tay chàng:
    Quân vương ơi ơi! Còn đợi chờ chi nữa
    Mà đường xa chàng còn chưa ruổi ngựa?
    Trống canh hai trong bóng sẫm đổ hồi,
    Còn dùng dằng chi nữa, đi đi thôi!
    Kìa! Thờ ơ, trăng mờ đang chênh chếch...
    Còn ngồi đó mà nghe chi tiếng địch,
    Cho chí đầy dần cạn trong tim đau.
    Đừng nghe! Đừng nghe nữa! Hãy đi mau!
    Nghe làm chi tiếng tre đằng than ai oán,
    Khúc bi ca nặng nề và đòi đoạn,
    Đầy những lời thương tiếc điệu thê lương.
    Quân vương ôi! Mau sửa soạn lên đường,
    Lên đường xa nơi mơ màng sương phủ...
    Nào đâu trái tim xưa? Nào đâu tâm hồn cũ?
    Lãnh truân chuyên xin gắng giữ chí bình sinh,
    Khách anh hào chi xá kể nỗi điêu linh,
    Ngày gian lao với quãng đường khe khắt?
    Địch Trương Lương trên Ô giang dìu dặt,
    Tưởng trời đêm, trăng biếc lạnh lùng than.
    Quỳ sát bên, nàng tha thiết tiếng khuyên van
    Đi đi chàng, nơi xa xăm, tiếng Địch
    Càng não lòng, càng âm u, càng tịch mịch...
    Đi đi chàng, còn thân Ngu đâu đáng bận trí quân vương?
    Lá lìa cây dù gió xé bên vệ đường,
    Dù nắng hun, dù mưa dầm làm tan nát,
    Xin quân vương chớ bận lòng vì phận bạc!
    Nhưng lời lời tuy dũng cảm, oai linh,
    Trong lòng đau niềm thống khổ vẫn mênh mông,
    Cố... nàng cố nén u buồn... nhưng không được,
    Và sóng lệ ào tuôn, nàng bưng đầu thổn thức...
    Tiếng du hồn trong bóng tối vẫn lang thang,
    Vẫn âu sầu dìu dặt phía Ô giang.
    Địch âm thầm bên tai đưa văng vẳng,
    Đương bâng khuâng trong khoảng trời yên lặng,
    Bỗng véo von như chim hót, rồi bỗng ngừng,
    Rồi lại nổi... xa xôi, và u uất não nùng.
    Gan sắt đá như chơi vơi theo tiếng địch,
    Vương thấy tan đâu chí anh hùng vô địch,
    Cất tiếng buồn, chàng sẽ nói:
    Ái khanh ơi!
    Đành... vận trời khi đã hết cũng đành thôi!
    Không, phi ơi... thà cùng phi cùng sống chết
    Còn hơn phải... phải trọn đời cách biệt!
    Rồi đỡ cằm, chán nản, Sở Bá Vương
    Để cặp mắt im giương
    Đuổi bóng những ngày vinh trong âm tối.
    Nhưng nàng Ngu lại băn khoăn tha thiết gọi:
    Thiếp đâu ngờ, quân vương hỡi, trí trượng phu
    Lại không hơn lòng nhi nữ chút nào ư?
    Nếu vì thiếp, chỉ than ôi, vì tiện thiếp
    Mà chàng quên chí cao cùng sự nghiệp,
    Thì thân hèn thà vơ vất dưới tuyền đài
    Để, đành lòng, chàng nghĩ đến cuộc tương lai.
    Đi đi, chàng, đi đi, phu tướng hỡi!
    Ngại ngần chi, và u sầu chi mãi...!
    Niềm ái ân xưa, chàng hãy gác một bên lòng
    Và, quyết tình lên ngựa, thẳng xa rong!
    Quân vương trông, trăng liềm càng phai ánh.
    Đi đi thôi!
    Sở Bá Vương, lòng quyết định,
    Nhìn Ngu Cơ lần cuối và nghẹn ngào:
    Ta đi đây... nàng ở lại... Dù sao,
    Có nhan sắc nhường kia nàng chớ sợ...
    Vì nay mai khi Hán binh vào trại Sở,
    Ta quyết Bang phải hậu đãi riêng nàng.
    Rồi đi ra.
    Nhưng trầm trầm bổng bổng Ô giang
    Địch Trương Lương vẫn vô hình nức nở,
    Như non nước tô sương ngùi than thở
    Hòa nỗi lòng u uất cõi đen sâu.
    Vương dừng hia đứng lại trước rèm châu,
    Rồi, e ấp, ngoảnh nhìn người dưới trướng.
    Tiếng than dài vẫn đâu đây bay lưởng vưởng...
    Khi nặng nề, khi đắm đuối, khi ngân nga,
    Khi mơ hồ, khi êm ả, khi cao xa.
    Tiếng địch rung trong cảnh sầu không giới hạn.
    Hy vọng gần tàn trong tim Vương như tàn hẳn.
    Nhưng bỗng:
    Buổi gió cuồng xa tống lá vàng bay,
    Ta muốn nàng tường lòng son sắt chẳng đổi thay.
    Lúc gian nguy cách biệt nàng, ta đâu nỡ!...
    Đi! Ta cùng đi! Cùng xông pha trong sóng lửa!
    Ta quyết sẽ mang nàng vượt khoỉ trùng vi,
    Rồi, cùng nhau ta cùng dấn bước lưu ly!
    Mà ví bằng cao xanh kia không tựa nữa,
    Đôi ta, cùng nhau, cùng chôn thây trong da ngựa:
    Bên mình phi, dù bỏ mạng cũng cam tâm.
    Nếu chàng mong còn trở lại đất Hoài Âm.
    Nếu chí xưa, chí nghiêng trời lệch đất,
    Trong trái tim anh hùng chưa tan nát,
    Thì, chàng ơi!
    Đường mênh mông chàng vỗ ngựa ra đi thôi.
    Bằng vì quyến, vì thương thân hèn mọn,
    Mà đễn nỗi chàng đành buông chí lớn,
    Tiện thiếp đây xin khuất bóng trước mặt chàng,
    Cho chàng đi, đi ngang dọc bước ngang tàng,
    Cho phỉ sức cường long nơi hồ hải.
    Dứt lời, nàng hăng hái,
    Tới bên chàng, cao tuốt lưỡi gươm xanh.
    Rồi tự ải.
    Vẫn âm thầm trong cõi tối mênh mông,
    Địch Trương Lương như ngậm ngùi kể lể,
    Nghẹn lời thương chiếc vong hồn quạnh quẽ,
    Liều theo mây bạt gởi kiếp lênh đênh!
    Như đã dày, đã dạn nỗi điêu linh
    Hạng Vũ như không còn biết đau đớn,
    Mặt gang thép, nỗi u buồn chẳng gợn,
    Chàng nghiêng mình lặng đứng trông người yêu.
    Nhưng... hồn bâng khuâng trong cảnh mộng tiêu điều,
    Chàng còn cố hình dung đôi mắt sáng,
    Đôi mắt sâu xa, và ảo huyền, và xán lạn,
    Mà ngàn thu đành tối mãi tự đêm nay.
    Nên, tuy nhường... không cảm động mảy may,
    Như thản nhiên, như lạnh lùng, như vô giác,
    Mà, ngập ngừng trong khóe mắt,
    Lần đầu tiên, lệ chiến sĩ long lanh.
    Lần đầu tiên, người chiến sĩ đa tình
    Để lệ bạc thầm lăn trên gò má.
    Trong khi tiếng địch thổi, âm thầm và buồn bã,
    Trên Ô giang như khóc lóc nỗi phân ly,
    Càng ngày càng réo rắt, càng lâm ly,
    Càng âm u, càng mơ màng, càng thảm thiết.
    III
    Bên mình Ngu Cơ đứng bao lâu, chàng không biết
    Nhưng, đến khi, bàng hoàng, chàng lặng lẽ ngẩng trông,
    Thì Hán binh đã đông nghịt bên bờ sông,
    Và trời cao, than ôi, vừa quyết trắng.
    Mà...!
    Mà tiếng địch âm thầm trong bóng đêm văng vẳng
    Trên Ô giang, đã bặt hẳn tự bao giờ.
    (1935)
  5. LHX_NDD

    LHX_NDD Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    2.991
    Đã được thích:
    0
    Kim Dung tiên sinh là Người mà mình ấn tượng và thần tượng nhất!!!
    Với 15 bộ tiểu thuyết kiếm hiệp của mình, trong đó bao gồm mọi đạo lý của Thiên hạ tự cổ chí kim và một khối lượng kiến thức khổng lồ ở các lĩnh vực, Kim Dung tiên sinh đã đi vào lịch sử nhân loại như một nhà văn chuyên viết truyện Kiếm hiệp có một không hai và đã nâng truyện Kiếm hiệp lên tầm tiểu thuyết Kiếm hiệp!
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Ăn nói vớ vỉn, thôi xin đồng chí đừng có đi lung tung mà nói vớ vỉn nữa đi. Đọc bài đồng chí viết tôi khó ngửi lắm.
  7. _Arwen_

    _Arwen_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2006
    Bài viết:
    3.574
    Đã được thích:
    0
    Hi... Anh người kể chuyện nóng tính quá. Anh vào topic mới post "Sở từ" cho mọi người cùng xem với đi.
  8. _Arwen_

    _Arwen_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2006
    Bài viết:
    3.574
    Đã được thích:
    0
    Arwen xin thêm một bài thơ về Sở Bá Vương nha:
    秦人天'^~季O大Z.Y
    '纵'~?o^火O让-".说.中?,
    Tần nhân thiên hạ Sở nhân cung
    Uổng bả đầu lô hiến mã đồng
    Thiên ý hà tằng đản Lưu Quý
    Đại vương thất kế luyến Giang Đông
    Tảo thôi Hàm Cốc xưng Tây Đế
    Hà tất Hồng Môn sát Bái Công
    Đồ túng Hàm Dương tam nguyệt hỏa
    Nhượng tha Lâu Kính thuyết Quan Trung.

    Đất nhà Tần, cung của ông
    Uổng lấy đầu lâu hiến mã đồng
    Trời đâu có ý thương Lưu Quý
    Đại vương thất sách luyến Giang Đông
    Sớm phá Hàm Quan xưng Tây Đế
    Cần chi Hồng Yến giết Lưu Công
    Thiêu cháy Hàm Dương ba tháng trọn
    Để cho Lâu Kính thuyết Quan Trung.

    Được _arwen_ sửa chữa / chuyển vào 13:44 ngày 28/12/2006
  9. LHX_NDD

    LHX_NDD Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    2.991
    Đã được thích:
    0
    Đề nghị Mod home_nguoikechuyen post bài mang tính tôn trọng thành viên và ko dùng từ ko hay!
    Đó là ý kiến riêng của mình, home_nguoikechuyen có lẽ vẫn chưa từng đọc qua một bộ tiểu thuyết nào của Kim Dung chăng? Hay đã đọc qua mà ko hiểu gì nhiều?
  10. rosered

    rosered Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2003
    Bài viết:
    1.320
    Đã được thích:
    1
    Home cũng không nên quá lời!
    Có thể Kim Dung là thần tượng của LHX_NDD nhưng để bảo tác phẩm của ông ta có thể thâu tóm đạo lý từ cổ chí kim, phủ khắp các lĩnh vực thì thực là hoang đường. Tuyên bố nên có chừng mực. Vì lời tuyên bố đó mà Home bức xúc chăng!

Chia sẻ trang này