1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Danh nhân xứ Kinh Bắc

Chủ đề trong 'Bắc Giang - Bắc Ninh' bởi T_N_T, 09/11/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Khi nói đến triều Lý, không thể không kể đến một nhân vật đặc biệt, ông có ảnh hưởng rất cơ bản đến sự phát triển của triều đại này.
    Bài viết dưới đây giúp ta tìm hiểu thêm nhân vật ấy- Thiền Sư Vạn Hạnh. Xin được giới thiệu cùng các bạn, những người ham tìm hiểu lịch sử, văn hoá quê nhà.
    Thiền sư Vạn Hạnh Một tiềm ẩn huyền diệu của lịch sử
    Ngôi chùa trên ngọn Tiêu Sơn chẳng khác Vọng sơn đài, có thể bao quát những cánh đồng, làng mạc trù phú của miền quê Quan họ (vì thế nhà Hán đã có thời kỳ lấy chân núi này làm thủ phủ Long Biên). Chùa Tiêu thuộc trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của nước ta nên được các triều đại chú ý tu bổ. Nó có kiến trúc quy mô với hệ thống Tam Bảo, Viện Cam Tuyền, nhà Tổ, các bảo tháp... Những công trình còn lại đến ngày nay phần lớn là sản phẩm thời Lê-Nguyễn. Chùa Tiêu được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích quốc gia vào 1991 nhưng danh tiếng của nó đã âm vang trong lịch sử suốt bao thế kỷ.
    Hơn đâu hết, chùa Tiêu gắn bó với thân thế-sự nghiệp của Vạn Hạnh. Tại chùa Tiêu, Thiền sư đã thực hiện cuộc đời hành trì và những hoạt động chính trị đối với vận mệnh đất nước Đại Việt.
    Theo "Thiền uyển tập anh" và "Đại Nam Thiền uyển truyền đăng lục" thì "Vạn Hạnh họ Nguyễn, người Cổ Pháp, sinh trong gia đình nhiều đời thờ Phật. Thời thơ ấu ngài đã tỏ ra thông minh khác thường, làu thông Tam Giáo, nghiên cứu Bách gia chư tử. Xuất gia năm 21 tuổi ở chùa Lục Tổ cùng với Định Tuệ thờ Thiền Ông làm thày. Vạn Hạnh là một trong Thiền sư xuất sắc bậc nhất của dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) và thành lập thế hệ thứ 12 dòng Thiền Nam phương. Ngài rất am tường Tổng trì Tam ma địa (còn gọi là Bảo vương Tam muội)".
    Ngẫm nghĩ một số điều ghi chép trên đây cũng có thể sáng tỏ: cuộc đời của Vạn Hạnh thật kỳ đặc. Tại sao ngài không xuất gia từ lúc nhỏ (mặc dù gia đình có truyền thống theo đạo Phật) mà đến năm 21 tuổi mới chọn cửa Thiền? Khi đã chọn dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi rồi ngài vẫn nghiên cứu bộ kinh Mật Tông "Tổng trì Tam ma địa"?
    Một người có học vấn uyên thâm như Vạn Hạnh: hiểu sâu Tam giáo (Phật-Lão-Nho) và Bách gia Chư tử-những triết thuyết, tín ngưỡng và cũng là văn hóa phương Đông đang được đương thời tôn sùng sao ông không dùng kinh nghiệm tri thức để toại đạt công danh, trái lại ngài xuất gia?
    Xâu chuỗi các sự việc Vạn Hạnh từng trải sẽ "giải mã" được tâm thế và hành động của ông. Vạn Hạnh đã vào đời bằng cửa Nho, ở lại đời bằng cửa Lão và vươn lên, giải thoát bằng cửa Phật. Từ trẻ ông đã sớm nắm vững "bản lai diện mục" của từng Tôn giáo.
    Nho giáo giúp Vạn Hạnh xây mộng kinh bang tế thế nhưng nó rất dễ đưa đẩy người ta mê muội trong cái "bả" danh lợi (tiền tài, địa vị) hoặc mắc kẹt trong thế lưỡng đầu bế tắc: nhập thế, mẫn thế-yếm thế.
    Lão giáo khai mở tâm hồn khoáng đạt nhưng nó cũng là "cạm bẫy" trong thế Vô vi-Hữu vi, thương đời-ghét đời.
    Còn Phật giáo đã trợ thủ cho Vạn Hạnh không sa vào những hệ lụy ấy và bằng bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ quang minh ông đã dung hòa, tích hợp được tinh hoa của Phật-Lão-Nho để cứu nhân độ thế và giải thoát mình. Do đó, Vạn Hạnh đã chọn dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi - một dòng Thiền đã có truyền thống đóng góp tích cực cho đạo pháp và Thế nhân.
    Tuy tu Thiền nhưng Vạn Hạnh vẫn nghiên cứu Mật Giáo (am tường sâu sắc Tổng trì Tam ma địa-một bộ kinh chuyên bàn về cách thức tu tập để bảo tồn năng lực tâm linh) vì ông thấy Mật giáo chấp nhận tất thảy thần linh được thờ phụng trong dân gian, khuynh hướng này rất phù hợp với tín ngưỡng, phong tục người Việt khiến cho đạo Phật phát triển mở rộng tầm ảnh hưởng trong đời sống cộng đồng.
    Với sở học và tài năng siêu việt trên con đường tu hành Vạn Hạnh đã dốc toàn bộ tâm lực phù trợ những nhân vật khoan dung, có hoài bão làm cho dân an lạc, nước nhà phồn thịnh.
    Thiền sư Vạn Hạnh đã 2 lần cố vấn thành công cho vua Lê Đại Hành phá Tống bình Chiêm.
    Cũng theo "Thiền uyển tập anh" và "Đại Nam Thiền uyển truyền đăng lục": "Đương thời sư nói ra điều gì thiên hạ đều coi là sấm truyền. Vua Lê Đại Hành (980-1005) vô cùng tôn kính sư. Năm đầu tiên niên hiệu Thiên Phúc, tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo đem quân đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm lăng nước ta, vua mời sư đến hỏi việc kháng cự quân giặc thì sự thể thành, bại ra sao, sư liền đáp: trong vòng 21 ngày giặc tất phải lui. Thực tế diễn ra đúng như sư dự đoán.
    Khi Việt Nam định đánh Chiêm Thành để phá thế gọng kìm nhưng triều đình lại không quyết đoán thì sư bảo phải xúc tiến ngay không bỏ lỡ thời cơ. Quả nhiên Đại Việt đã thắng lợi trong việc đánh Chiêm Thành...".
    Với Lý Công Uẩn, sư đã để lại cho hậu thế bài học lịch sử vô giá về sự chọn lựa, đào tạo, huấn luyện người kế vị lãnh đạo quốc gia. Ông cho thấy công việc đặc biệt này đạt hiệu quả không phải một sớm một chiều mà là cả quá trình lâu dài. Năm Lý Công Uẩn lên 10 tuổi, Vạn Hạnh đón về trực tiếp nuôi dạy (trước đó Lý Công Uẩn được Vạn Hạnh giao cho em trai ông là Lý Khánh Văn nuôi dưỡng). Sau này đưa vào triều làm chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (phụ trách quân cấm vệ thời Tiền Lê). Khi Lê Ngọa Triều bạo ngược bị chết, Vạn Hạnh kịp thời động viên Lý Công Uẩn: "Nay xem trong thiên hạ, người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng Thân vệ , là người khoan từ, nhân thứ, lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải là Thân vệ thì ai đương nổi nữa".
    Nhằm quy tụ lòng dân về một mối ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi, Thiền sư Vạn Hạnh đã làm Sấm ký như "Yết bảng thị chúng" dự đoán Nhà Tiền Lê suy vong, Nhà Lý khởi phát:
    Tật Lê trầm Bắc thủy
    Lý tử thụ Nam thiên
    Tứ phương qua can tĩnh
    Bát biểu hạ bình yên
    Dịch:
    Gốc Lê chìm biển Bắc
    Chồi Lý mọc trời Nam
    Bốn phương tan giáo mác
    Tám cõi được bình an
    Cuộc thay đổi Vương triều từ Tiền Lê sang Lý mà không gây thảm cảnh đổ máu. Đây là một sự kiện hiếm có trong lịch sử và điều này đã phù hợp với tinh thần Từ bi hỷ xả-của đạo Phật - một đạo được Lý Công Uẩn và Nhà Lý đã tôn vinh là quốc giáo.
    Chỉ riêng việc tác thành huân nghiệp cho Lý Công Uẩn (974-1028) người sáng lập ra vương triều hiển hách, kéo dài 216 năm (1009-1225), đưa Đại Việt lên những đỉnh cao rực rỡ, đã nói lên tầm cỡ vĩ đại của một danh nhân văn hóa Vạn Hạnh.
    Cũng phải ghi nhận thêm rằng với Vạn Hạnh nền văn học chữ viết của dân tộc đã xuất hiện ba loại hình văn học (sấm ký, khuyến, kệ) và ông là một trong số những người hoạt động văn học đầu tiên của nước nhà và dùng văn học để "tải đạo" truyền bá tư tưởng chính trị, giáo dục nhân sinh...
    Thiền sư Vạn Hạnh viên tịch ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) trong tư thế bình thản của người nắm vững lẽ sinh trụ hoại diệt. Bài kệ, ông đọc cho học trò trước giây phút lâm chung đã thâu tóm bí quyết giác ngộ thành đạt đạo quả Bồ đề và bí quyết nhậm vận thế sự của Vạn Hạnh:
    Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
    Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô
    Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
    Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
    Dịch:
    Thân như bóng chớp có rồi không
    Cây cỏ Xuân tươi Thu não nùng
    Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
    Thịnh suy ngọn cỏ giọt sương đông
    Nhớ lại hơn 10 năm trước đây, để chuẩn bị cho sự kiện kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long và vương triều Lý vào năm 2010, làng Đình Bảng đã khôi phục đền Đô thờ Lý Bát Đế, làng Dương Lôi (Tân Hồng) xúc tiến dịch văn bia và các tài liệu liên quan đến bà mẹ Lý Công Uẩn, đồng thời tu bổ quần thể di tích quê ngoại nhà Lý. Với suy nghĩ rằng chùa Tiêu là nơi duy nhất thờ Vạn Hạnh và từng được Vạn Hạnh hưng công tô điểm, hoằng dương Phật pháp, văn hóa dân tộc, chính quyền và nhân dân xã Tương Giang đã góp nhiều triệu đồng với hàng trăm ngày công để dựng tượng Vạn Hạnh.
    Giờ đây du khách thăm xứ Kinh Bắc, từ xa hàng cây số đã thấy pho tượng Vạn Hạnh đang trong tư thế tham thiền giữa trời xanh. Đó không riêng là một biểu tượng tôn giáo, mà chính thật là một trong những dấu ấn văn hóa cho đời sau hướng vọng về cội nguồn dân tộc.
    Trương Thị Kim Dung
  2. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Sửa lại đôi chút ;-)
    Truyện về thời thơ ấu của Nhà Vua Lý Công Uẩn
    :)
    Tục truyền Vua Lý Công Uẩn do người mẹ không chồng sinh ra . Dưới thời xa xưa, người phụ nữ không chồng mà chửa là một trọng tội sẽ bị hình phạt thảm khốc. Sinh xong, đang đêm người mẹ trẻ bọc con trong mớ dẻ rách mang đến cổng chùa Giặn (Đình Bảng ngày nay) vứt. Ngay lúc đó vị sư trụ trì của chùa nằm mộng thấy một vị Bồ Tát đến bảo: Các người hãy chuẩn bị sáng mai đón quý nhân. Nhà sư tỉnh dậy thấy trời vừa hừng đông, sai mấy chú tiểu ra mở cổng. Họ thấy tiếng trẻ khóc vội bồng lấy đưa vào trình thầy. Sư Trụ trì thấy đưa bé trai liền lấy họ Lý của mình đặt cho bé rồi giao cho các sư nữ (bà Vãi) chăm nuôi. Lý Công Uẩn lớn lên dưới mái chùa Giặn và sự chăm sóc của thầy cô. Đến 10 tuổi cậu bé Lý vẫn không chịu chăm học chỉ ham chơi, phá phách khiến sư Trụ Trì phiền lòng luôn trách phạt.
    Một đêm kia Thượng tọa Trụ trì thấy rất nhiều tượng phật khăn gói quả Mướp, tay nải đến gặp ông, chào từ biệt. Trụ trì hốt hoảng hỏi, các vị tượng buồn rầu nói: Thiên tử ăn hết đồ cúng tế, chúng tôi đói quá đành đi đến các chùa khác. Tỉnh lại nhà sư đi kiểm tra: quả thật trên những bệ thờ trống trơn. Ông cho rằng bọn trộm đã đột nhập, đành ra lệnh cho các sư tiểu trong chùa thay phiên nhau canh giữ đêm ngày. Tệ nạn mất đồ thờ cúng chấm dứt. Tuy nhiên nhiều vị sư nghi việc này do Lý Công Uẩn gây ra, nhưng không dám bầy tỏ với sư phụ Trụ Trì. Các ông tượng trong chùa cũng không đến tìm gặp Trụ Trì cáo biệt nữa.
    Mấy hôm sau sự Trụ Trì lại mơ thấy hai vị hộ pháp của chùa khăn gói đến gặp mình, mặt buồn rầu, nói: Chúng tôi bái biệt ngài, sáng mai sẽ đi.
    - Tại sao các vị lại đi?
    - Thiên Tử (Con Trời - Vua) đầy chúng tôi xa 3000 dặm.
    Nhà sư toát mồi hôi hột vụt tỉnh, nghĩ: Hai vị hộ pháp trấn giữ trước cửa để đánh đuổi bọn quỷ. Giờ các vị đi, ai sẽ làm việc này - Vội gọi các công sự và đệ tử cùng ra xem thực hư ra saọ Mọi người đến trước hai ông hộ pháp một ông mặt đỏ, một ông mặt xanh. Hình hài của hai vị vẫn bình thường nhưng đằng sau lưng mỗi vị có một giòng chữ: Đồ tam thiên lý (đày xa 3000 dặm). Những sư ông, sư bác hiểu ra vội xum vào lau giòng chữ nhưng không thể lau sạch. Một vị nghĩ ngay tới Lý Công Uẩn bảo - Để thằng Uẩn lau xem sao. Lý Công Uẩn được điệu đến. Cậu bé chỉ đưa tay phẩy nhẹ, giòng chữ kia tan ngaỵ Sư trụ trì giận lắm ra lệnh cho đệ tử bắt Lý đưa lên gác tam quan trước cổng chùa giam nhằm trừng phạt răn đe. Đêm đó vào giữa tuần trăng, tiết trời se lạnh, nhà sư không yên tâm lò dò lên kiểm tra. Đến nơi thấy Lý Công Uẩn rét, nằm co quắp chân tay để giữ hơi ấm. Trông thật tội nghiệp. Động lòng thầy hỏi: Con đã biết lỗi chưa. Bây giờ con làm được bài thơ tự vịnh mình đang đêm nằm co, nếu hay, thầy cho xuống. Lý Công Uẩn suy nghĩ đoạn đọc:
    Trời làm màn chiếu, đất làm chiên (Chăn)
    Nhật, Nguyệt cùng ta một giấc yên
    Đang đêm chẳng dám giang, chân duỗi
    Chỉ sợ sơn hà, xã tắc nghiêng!
    Sư trụ trì thức tỉnh bởi bài thơ ứng khẩu của cậu bé mươi tuổi: Nằm co vì rét mà dám tự ví ''''''''giang tay, duỗi chân sợ sơn hà xã tắc ngiêng ngả'''''''' - Đó là khẩu khí của con trời (vua). Xâu chuỗi lại các sự kiện từ lúc cậu bé mới đến chùa... lời của các tượng phật ... ông liên tưởng tới cơ trời ... vội quyết định tập trung dậy dỗ Lý Công Uẩn ... Hơn 10 năm sau Lý Công Uẩn đã dựng nghiệp lớn rồi lên ngôi lấy vương hiệu là Lý Thái Tổ, dời Kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đông Quan (Thăng Long - Hà Nội ngày nay). Một triều đại mà đạo Phật thịnh trị kéo dài được 8 đời, 216 năm từ 1009 tới 1225 khi nhà Trần thay thế bằng sự kiện Chiêu Thánh truyền lại ngôi cho Trần Cảnh
    Cũng vì Sự kiện này, riêng nhà Trần sau này không có miếu hiệu Trần Thái Tổ, âu cũng là sự lạ:))
  3. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Giới thiệu Thiền sư Huyền Quang
    Bài 1:
    Thiền Sư Huyền Quang
    và Bước Tiến Tâm-Linh

    TT. Thích Đức Thắng​


    Không phải ngẩu-nhiên ngài Huyền Quang trở thành tổ thứ ba trong Thiền Trúc Lâm Yên-Tử Việt-Nam, mà ngài phải trải qua một kinh nghiệm kỷ-luật tâm-linh nào đó, được thể hiện qua truyền trao tâm ấn giữa thầy và trò, như sử đã ghi lại về phương diện kế thừa, cũng như chính ngài đã xác quyết trong bài thơ: "Nhân có việc đề ở chùa Cứu lan" qua câu: "Đức bạc thường tàm kế Tổ đăng." Nhưng những tài liệu về kỹ thuật tâm linh này quá ít ỏi, hiện tại chúng tôi không có, ngoài hai bài đố⩠thoại giữa Pháp Loa và Huyền Quang (trong Tam Tổ Thực Lục) thì qua hai mẫu đối thoại này, chúng không mang một tín hiệu nào khả dĩ để chúng ta có thể tin tưởng vào đó, mà xác định về bước tiến tâm linh của ngài. Ở đây, chúng tôi không còn cách nào hơn, phải quay sang tìm kiếm trong thi phú, may ra có thể có một tín hiệu nào chăng?
    Qua mười bốn bài thơ của ngài Huyền Quang, đã cho chúng tôi một cái nhìn vừa ngạc nhiên, vửa bất ngờ, trong con người thi sĩ mang đậm chất trữ tình, mà từ xưa tới nay không một ai không công nhận, ngài là một thi sĩ hơn là một Thiền sư. Thật sự đối với tôi, khi mới đọc sơ qua lần đầu, chúng tôi vẫn có ý ghĩ như vậy, nhưng đến lần thứ hai đọc kỹ hơn, thì nạc nhiên và bất ngờ đến với chúng tôi, là toàn bộ tất cả những bài thơ của ngài nó chuyên chở một hệ thống chuyển hướng tâm linh, mà chúng chỉ được thể hiện qua đó, một vài nét chấm phá chủ động, đã lôi cuốn toàn bộ bối cảnh không gian, thời gian, người vật, đồ vật, tất cả đều tham gia dung nhiếp một cách hài hòa vào một nhất thể trong từng bài thơ một. Đó là một đặc trưng tạo ngạc nhiên và bất ngờ đối với chúng tôi, cũng là nét tài hoa của Thiền sư Huyềng quang.
    Qua thi ca mặc dù ngài rất ít dùng thuật ngữ của nhà Thiền nói riêng và Phật giáo nói chung. Nhưng không thể vì thế, chúng không cho chúng ta một dấu hiệu nào khả dĩ nói lên tư tưởng siêu thoát, tự tại trong ngài. Mà ngược lại chúng nói rất rõ tiến trình kinh nghiệm kỹ thuật tâm linh của ngài nhằm gởi gắm lại người sau. Trước hết, bằng vào kinh nghiệm sống qua cuộc đời, khi còn là một sĩ tử, ngài đã nhận ra cái thế thái nhân tình qua hai câu thơ:
    "Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
    Đến khi đỗ Trạng, tám nghìn nhân duyên."
    (thơ văn Lý-Trần II)
    Từ cái nhìn về nhân sanh quan, ngài thấy được cái bạc bẽo, bỉ ổi, chua chát của người đời, đến cái nhìn về vũ trụ, ngài bắt nhịp với cái thay đổi về vô thường qua mau trong cuộc sống, đã khiến cho cái cô đơn được nâng lên đến vô tận. Ngài viết:
    "Lạng châu nhân vật thủy lưu đông,
    Bách tuế quang âm nhiễn chỉ trung.
    Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ,
    Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không."
    Dịch:
    "Về đông nước chảy, người Châu lạng,
    Ngày tháng, trăm năm một thoáng nhanh.
    Nuí cũ, ngoảnh đầu đăm đắm ngóng,
    Nhạn về in bóng giữa tầng xanh."
    Ở đây, thái độ ngoảnh đầu về núi là một thái độ tự qui, bắt đầu dự báo cho một phản tỉnh sau này. Đây là một nét chấm phá quyết định cho cả một vận mệnh cô đơn trước cơn vô thường luôn luôn chờ chực trong từng hơi thở, và bắt đầu cho một chuyển hướng trong tư tưởng. Ngài viết:
    "Phú quí phù vân trì vị đáo,
    Quang âm lưu thủy cấp tương thôi.
    Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,
    Nhất tháp tùng phong trà nhất bôi.
    Dịch:
    "Giàu sang mây nổi đến chậm rì,
    Năm tháng nước trôi thôi thúc qua.
    Sao bằng về ẩn nơi rừng suối,
    Một giường thông gió một ly trà."
    Cái nhìn từ nhân sanh đến cái nhìn về vũ trụ, đã bắt đầu cho một chuyển hướng tư tưởng mới. Nếu đứng về mặt liên hệ xã hội, thì tư tưởng này có vẻ bi quan yếm thế tiêu cực, nhưng đứng về mặt hoàn thành một con người như thật, thì tư tưởng phản tỉnh trở về này là một tư tưởng lạc quan tích cực. Vì theo nhà Phật, một thế giới được gọi là cực lạc hay hạnh phúc, thì trước hết thế giới ấy, tất cả mọi cá nhân phải hoàn thành một con người như thật con người trước đã, và theo đó xã hội sẽ tùy thuộc vào mỗi cá thể đó.
    Ở đây, qua biểu hiện "tiểu ẩn" đã noí lên được một chuyển biến tâm linh của ngài trong công cuộc trở về sống với chính mình, mà từ lâu đã xa nguồn, xa nơi chôn nhau cắt rốn ban sơ. Một cuộc tạo phản về nguồn, đã mở ra cho ngài một nhãn quan mới về cách nhìn từ "phản quan thế giới" để đi đến tuệ nhãn sinh, cho một thế giới mở toang ra hoàn toàn mới mẻ không thể ngờ được. Ngài viết:
    "Vũ khuê quá sơn tịnh,
    Phong lâm nhất mộng lương.
    Phản quan trần thế giới,
    Khai nhãn túy mang mang."
    Dịch:
    "Hết mưa khe nuí sạch,
    Rừng phong giấc mộng tươi.
    Quay nhìn buị thế giới,
    Mở mắt mang mác say."
    Qua hai câu cuối của bài thơ, ngài Huyền Quang đã nói lên cái tiến trình tâm linh thay đổi, từ nhãn quan của đôi mắt thịt tự phản, đã đưa đến sự đột biến của con mắt tuệ nhãn thứ ba phát sinh, và một thế giới hoàn toàn mới mẻ mở toang ra ngay trên tự tướng chính nó. Ở đây, muôn vật chung quanh không có gì thay đổi, mà chỉ có tâm thức thay đổi, do đó cái nhìn mới mẻ như thật chính nó, đối với thế giới chung quanh. Đây chúng ta theo dõi cái nhìn mới mẻ của ngài Huyền Quang:
    "Thượng phương thu dạ nhất chung lan,
    Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
    Xi vẫn đảo miên phương kinh lãnh,
    Tháp quang song trĩ ngọc tiên hàn.
    Vạn duyên bất nhiễu thành giá tục,
    Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
    Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
    Ma cung, Phật quốc hảo sinh quan."
    Dịch:
    "Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn,
    Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt lan.
    In ngược hình chim, gương nước lạnh,
    Sẫm đôi bóng tháp, ngón tiên hàn.
    Muôn duyên chẳng vướng xa trần tục,
    Một mảy nào lo rộng nhãn quan.
    Thấu hiểu thị phi đều thế cả,
    Dầu ma dầu Phật, chốn nào hơn?"
    (Huệ Chi dịch, Thơ văn Lý-Trần)
    Cái nhìn mới mẻ ở đây, là cái nhìn vượt lên trên nhân quả của trí phân biệt nhị nguyên như: thị-phi, Ma-Phật, mọi pháp ở đây đều ở trong trrạng thái bình đẳng, vô phân biệt. Từ cái nhìn này, đã đưa Thiền sư đến một nếp sống mới "muôn duyên chẳng vướng"hay "một mảy nào lo."Đó là nếp sống của ngài Huyền Quang, từ nếp sống mới này Thiền sư Huyền Quang đã thật sự tự tại trong cuộc sống. Ngài hòa nhập vào bất cứ nơi đâu, với tâm vô phân biệt thì cho dù nơi đó núi rừng hoang vắng, sông nước mênh mông, đồng mông hoang dã hay bất cứ đâu đâu chăng nữa, thì nơi đó không đủ khả năng làm vướng bận chân ông. Đây chúng ta hãy theo dõi cuộc sinh hoạt phiêu bồng thường ngày của ông, từ đồi núi cheo leo ngút ngàn mây phủ. Ngài viết:
    "Am bức thanh tiêu lãnh,
    Môn khai vân thượng tầng.
    Dĩ can long động nhật,
    Do sích hổ khê băng.
    Bão chuyết vô dư sách,
    Phù suy hữu sấu đằng.
    Trúc lâm đa túc điểu,
    Quá bán bạn nhàn Tăng."
    Dịch:
    "Am sát trời xanh lạnh,
    Cửa mở trên tầng mây.
    Động rồng trời sáng bạch,
    Khe hổ lớp băng đầy.
    Vụng dại mưu nào có,
    Già nua gậy một cây.
    Rừng tre chim chóc lắm,
    Quá nử bạn cùng Thầy."
    Ở đây, kế sống của ngài Huyền Quang, được thể hiện qua câu "Vụng dại mưu nào có"là một nét chấm phá độc đáo làm chủ động cho toàn bài thơ. Nơi đây, người vật, đồ vật, không gian, tất cả đều hòa nhập hài hoà tự nhiên vào một tổng thể rực sáng, mà ở đó mọi mưu toan của vọng chấp phân biệt không còn hiện hữu nữa, và chỉ còn lại một hình ảnh một cụ già ngây thơ chống gậy, sống tự tại giữa tầng mây. Tất cả mọi vật chung quanh giờ đây không còn là đối tượng chi phối cuộc sống ngài, mà ngược lại tất cả đã hòa nhập dung hợp vào một hình ảnh lung linh ở trên giường Thiền. Ngài viết:
    "Bán gian thạch thất hòa vân trụ,
    Nhất lĩnh xôi y kinh tuế hàn.
    Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
    Lô tàn cốt đột nhập tam can."
    Dịch:
    "Nửa gian nhà đá lẫn tầng mây,
    Trải suốt mùa đông một áo lông.
    Sư tại giường Thiền, kinhtrên án,
    Lò tàn củi lạnh, sáng trên không."
    Qua đây, thời gian không gian không còn nghĩa lý gì đối với thiền sư cả, cứ như thế mọi vấn đề không can hệ đến ngài, mặc dù ngài sống với chúng, nhưng tấm lòng ngài không bị chúng trói buộc, và ngược lại ngài cũng không trói buộc chúng, nhờ vậy mà cuộc sống của thiền sư trở thành tự tại giải thoát. Ngài viết:
    "Thu phong ngọ dạ nhất thiềm nha,
    Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
    Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến,
    Cung ma tức Phật vị thùy da."
    Dịch:
    "Gió thu chao động bức rèm khuya,
    Nhà núi đìu hiu núp bóng cây.
    Thiền đạt thôi rồi tâm một phiến,
    Dế mèn rên rỉ gọi ai đây?"
    Đây là giai đoạn tâm linh đạt đến chỗ tột cùng của Thiền sư Huyền Quang qua câu: "Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến"mà thuật ngữ thiền gọi là "Tâm vật nhất như." Giờ đây, không còn là chủ thể và đối tượng, không tâm và vật, không còn bất cứ chướng ngại ngăn cách nào giữa Thiền sư và cuộc sống, và ngược lại giữa cuộc sống và thiền sư, chúng đã trở thành một phiến. Cũng từ đó thiền sư Huyền Quang thỏng tay vào chợ phiêu bồng, và dường như ông đã quên hết tất cả mọi thứ trên đời này, cứ theo duyên mà sống. Trong bài hoa cúc có đoạn ngài viết:
    "Vong thân vong thế dĩ đô vương (vong),
    Tọa cử tiêu nhiên nhất pháp lương.
    Tuế vãng sơn trung vô lịch nhật,
    Cúc hoa khai xứ tức trùng dương."
    Dịch:
    "Quên mình quên hết cuộc tang thương,
    Ngồi lặng đìu hiu, mát cả giường.
    Năm cuối trong rừng không có lịch,
    Thấy hoa cúc nở biết trùng dương."
    (theo Phan-Võ, Lược Thảo Lịch Sử Văn Học Việt Nam, thơ văn Lý-Trần)
    Đây là nếp sống ĐƯƠNG-NIỆM theo nhà Thiền, ở đây ngài Huyền Quang chỉ biết sống trong hiện tại ngay trước mắt, còn những cái đã qua thì không còn nhớ nữa, hay việc gì chưa đến thì không khởi lên, và một đoạn khác ngài viết:
    "Hoa tại trung đình nhơn tại lâu,
    Phần hương độc tọa tự vong ưu.
    Chủ-nhơn dữ vật hồn vô cạnh,
    Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
    Dịch:
    "Hoa ở trước sân người trên lầu,
    Đốt hương ngồi lặng bỗng quên sầu.
    Hồn nhiên người vật không tranh cạnh,
    So với muôn hoa cúc đứng đầu.
    (Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý-Trần)
    Cái đạt của Thiền sư là ở chỗ hồn nhiên trong cuộc sống, đó là lối thể hiện tâm vô phân biệt. Ở đây, chúng tôi xin mở ngoặc một tí. Nếu chúng ta đứng bên ngoài mà nhìn, thì tuy chúng ta thấy cai hôn nhiên do tâm vô phân biệt của các Thiền sư thể hiện, cũng giống như tánh hồn nhiên của tuổi thơ, nhưng thật sự cốt tủy bên trong chúng khác nhau xa. Cái hồn nhiên do tâm vô phân biệt của các Thiền sư thể hiện ra bên ngoài chúng câu hữu với giaỉ thoát, còn cái hồn nhiên của tuổi thơ chúng câu hữu với vô minh. Thế nên khi chúng ta đề cập đến vấn đề đó, thì phải hiểu chúng thể hiện theo chiều hướng nào, về hiện tượng hay bản chất? Kẽo không chúng ta sẽ bị ngộ nhận ngay về lối sống của các vị thiền sư. Đó là chúng tôi đề cập về phía chúng ta thôi, còn đối với các ngài thì chả can hệ chi. Ngài viết:
    "Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương,
    Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.
    Thủ bá suy thường hòa thác thái,
    Đồ giao nhơn tiếu lão Tăng mang."
    Dịch:
    "Củi tàn thôi chẳng thắp hương thêm,
    Miệng đáp gia đồng hỏi mấy chương.
    Bận bịu cho ai cười chế lão,
    Liền tay ống thổi với mo nang."
    (Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý-Trần)
    Đối với Thiền sư chuyện nhân tình thế thái, chuyện thị-phi tốt-xấu, chuyện đúng sai của cuộc đời không là gì cả, vì chúng rốt cùng cũng chỉ là hậu quả tất yếu của vọng tâm phân biệt, đối đãi nhân quà sinh ra, do đó tất cả đều sai lầm; nhưng ngược lại thiền sư sống hết mình với chúng bằng lối tùy duyên, nên không bị lệ thuộc, cho nên cuộc sống của các ngài rất ư tự tại giải thoát. Ngài viết:
    "Dạ khí phân lương nhập họa bình,
    Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
    Trúc đường vong thích hương sơ tận,
    Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh."
    Dịch:
    "Khí mát đêm phân nhập tới mành,
    Cây sân xào xạt báo thu thanh.
    Chòi tre quên bẵng hương vừa tắt,
    Bủa lưới giăng trăng mấy nhánh cành."
    Đó là một lối sống hiện thực ngay trong lòng sự vật, tâm phân biệt không hiện hữu nơi đây. Do đó mọi sự vật như thật chính nó, không bị bóp méo không bị chụp mũ, không bị trang điểm, không bị biến chất; chúng trần truồng lồ lộ, không mang bất cứ nhãn hiệu nào. Chúng tùy theo duyên tan hợp mà hiện hữu hay biến dịch. Ở đây thiền sư Huyền Quang đã đạt được cách sống này, nghĩa là ngài đã nắm bắt được lý Duyên khởi và sống theo tùy duyên. Ngài viết:
    "Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,
    Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngọ lư.
    Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
    Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư."
    Dịch:
    "Vườn rộng ông cha mặc sức cày,
    Quanh nhà xanh mướt ủ ngàn cây.
    Ngoài sân cành quế chim cưu vắng,
    Gối mát chưa tan giấc mộng ngày (ngủ trưa)."
    Tóm lại, tất cả những trình bày ở trên, chúng tôi đã cố gắng ghi lại sự thể hiện tiến trình tâm linh qua những bài thơ ngài Huyền Quang để lại, đã cho chúng ta một cái nhìn đúng về ngài hơn. Nghĩa là trong con người của ngài Huyền Quang qua thi ca chúng mang hai sắc thái: Một thiền sư và một thi sĩ, con người thiền sư trong tư tưởng và con người thi sĩ qua hình thức thi ca, nhưng nếu nói cho cùng thì hình thức chuyên chở tư tưởng, và tư tưởng quyết định hình thức, chúng không phải là hai, nhưng chúng cũng không phải khác. Đó là một trong những đặc điểm mà ngài Huyền Quang đã sử dụng trong thi ca của ông, nó mang tính tâm linh độc đáo của Việt nam.
  4. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Bài 2:
    Huyền Quang ​
    ( Đệ tam tổ Trúc Lâm ) ​
    ( 1254 - 1334 ) ​
    -
    Tỷ Kheo Thích Chơn Thiện
    I . Tiểu sử
    Sư sinh năm 1254 tại làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang - đến đời Lê đổi tên là làng Vạn Tư, huyện Gia Định. Sư, tuổi đời cao hơn nhị tổ Pháp Loa 30 tuổi. Thể mạo có vẻ kỳ dị. Chí khí thì cao vời. Rất hông minh, học một tỏ mười; từ nhỏ đã học luyện văn chương. An Tâm quốc sư, đệ tử nối nghiệp tuệ đăng của sư ghi lại trong Tổ Gia Thực Lục rằng :"Sư có tài của Nhan Hồi Á thánh, nên thân phụ thân mẫu đặt tên là Tái Đạo. Năm 20 tuổi, đỗ thi Hương, liền năm sau đỗ thủ khoa thi Hội ( đỗ Khôi nguyên ).
    Từ thanh niên, từ chối lập gia đình, và xin miễn thành hôn với công chúa Liễu Nữ, cháu của An Sinh Vương.
    Làm quan trong triều 20 năm, từng phụng mệnh vua tiếp Bắc Sứ, nhờ vào tài ứng đối và học vấn thông thái bác lãm.
    Năm 51 tuổi, 1305, xuất gia làm đệ tử quốc sư Bảo Phác, y chỉ với nhị tổ Pháp Loa - thực ra, theo sự chỉ dạy của Nhân Tông, sư hộ trì cho Pháp Loa -. Sư theo hầu sát cạnh Nhân Tông trong hai năm cuối của Nhân Tông ( cho đến năm 1308 ). Trong hai năm này, theo lệnh của Trúc Lâm nhất tổ ( hay Điều Ngự Giác Hoàng ), sư biên soạn các sách :
    - Chư phẩm Kinh : tuyển tập các Kinh tinh yếu.
    - Công văn tập : các bài sớ, điệp...
    - Thích Khoa giáo : giáo lý căn bản của Phật học.
    Điều Ngự Giác Hoàng đã ngự bút phê :"Phàm sách nào đã qua tay Huyền Quang biên soạn, hiệu khảo rồi thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa". Sư hiện rõ là cây bút chủ chốt của " Thiền học Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử ". Trúc Lâm Đầu Đà từng cho phép Huyền Quang ngồi trên tòa trầm hương của mình để thuyết pháp : điều nầy là hình thức Điều Ngự xác chứng khả năng pháp sư đạt đạo của Huyền Quang. Điều Ngự lập sư làm trú trì chùa Hoa Yên núi Yên Tử. Tăng, Ni đến thụ giáo, học đạo với sư số đến nghìn người.
    Sau khi lập An Tâm, đệ tử, làm trú trì chùa Hoa Yên, sư về an nghĩ ở Côn Sơn - không rõ thời gian. Sư tịch ở Côn Sơn năm 1334.
    ( Theo VNPGSL, Nguyễn Lang, từ tr. 426-429 )
    II. Huyền Quang, một thiền sư
    Văn học Việt Nam và Văn học Phật giáo Việt Nam đã hưng thịnh từ đầu đời Lý qua đời Trần cho đến Trần Anh Tông, đặc biệt dưới thời Trần Nhân Tông với những bậc trí tuệ lỗi lạc như Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Huyền Qrang, Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo Đại Vương), v.v... hẳn là có nhiều công trình sáng tác, biên khảo rất giá trị, phong phú. Chỉ tiếc vì sự xâm lược của quân nhà Minh vào thời Hồ Quý Ly đã cố ý hủy diệt nền văn hoá của ta : phá hủy và lấy về Trung Quốc các công trình văn học, sử học, nên nay tài liệu văn, sử phát hiện quá ít ỏi. Về thiền sư Huyền Quang, những sáng tác và san định của sư cũng bị thất lạc hầu hết : phải nói rằng những gì bị thất lạc là những gì quý giá, còn quý giá hơn những gì hiện có, bởi lẽ quân Minh - và cả các đoàn xâm lược khác - luôn luôn muốn đốt cháy hết những gì quý giá nhất của Việt Nam.
    Dù vậy, trong vài sử liệu còn sót lại, ngày nay ta vẫn có thể hình dung ra trí tuệ và tài văn bút của sư.
    Về sự nghiêm túc chứng đắc giải thoát của thiền sư Tam tổ Trúc Lâm, ta có thể khảo sát qua mẩu đối thoại giữa sư và nhị tổ Pháp Loa trước ngày nhị tổ viên tịch, và qua một vài sáng tác thi ca khác.
    Sư Huyền Quang thăm hỏi nhị tổ:
    - Thức với ngủ đã là một chưa ?
    - Pháp Loa đáp : là một, cũng như khi không có bệnh.
    - Vậy thì bệnh và không bệnh đã là một chưa ?
    - Bệnh cũng chẳng can gì đến kẻ khác, không bệnh cũng chẳng can gì đến kẻ khác.
    - Vậy thì tiếng nói nhắm vào cái gì ?
    - Thì gió thổi trong cây cứ mặc nó chứ.
    - Tiếng gió thổi trong cây không làm cho người ta mê hoặc, nhưng lời nói mê trong giấc ngủ lại có thể làm mê hoặc người, Huyền Quang tiếp.
    - Kẻ si mê cũng có thể bị tiếng gió trong cây làm mê hoặc lắm chứ, Pháp Loa nói.
    - Chỉ có một cái tật đó mà đến chết cũng không chừa, Huyền Quang nói.
    - Pháp Loa liền dùng chân hất nhẹ Huyền Quang và không nói gì. Huyền Quang lui ra.
    Qua một mẩu đối thoại ấy, Huyền Quang hẳn là chưa đón nhận được cái thực sự giải thoát khỏi tưởng tự ngã toát ra từ ngôn ngữ của Pháp Loa. Huyền Quang lui ra mà lòng vẫn cứ tần ngần. Phần Pháp Loa thì sau lời nói trách nhẹ sau cùng của Huyền Quang rằng :" Chỉ có cái tật đó mà đến chết cũng không chừa", thì tự biết có lẽ lòng mình còn có cái gì cần tự phản tỉnh, dứt bỏ.
    Quả thực, qua lời thoại, ta nghe lời đáp của Pháp Loa rặt hơi thông minh của lập luận phân biệt hữu tướng. Đây đúng là cái "đuôi nòng nọc hữu niệm" chưa kịp rụng, và đây đúng là lý do của cảm giác tần ngần của sư Huyền Quang về cái điều mà sư gọi là "chỉ có cái tật đó mà đến chết cũng không chừa".
    Ba tuần lễ sau, khi bệnh của Pháp Loa trở nên trầm trọng, sư Huyền Quang trở lại viếng người ở chùa Quỳnh Lâm, tối mồng 3 tháng 3, sư lại hỏi:
    - Xưa nay các bậc đạt ngộ khi giờ phút đến, muốn ở thì ở, muốn đi thì đi.
    - Pháp Loa bảo : đi hay ở đều không can hệ chi tới ai.
    ( lần nầy có lẽ giọng nói với âm sắc tự tại )
    - Huyền Quang tiếp : Vậy thì sao ?
    - Pháp Loa đáp : thì tùy xứ tát-bà-ha !
    ( có lẽvới đôi môi và đôi mắt mỉm cười )
    Liền tiếp, môn đệ vào xin kệ thị tịch. Pháp Loa viết xong bài kệ bốn câu, buông bút và tịch.
    ( VNPGSL, Nguyễn Lang,..., tr.435-436 )
    Tại đây, sư Huyền quang cũng nghe lòng mình thanh thản, vơi nhẹ. Cái âm thanh "tùy xứ tát-bà-ha" nghe như có âm hưởng "sở tác dĩ biện"(các việc cần làm đã làm xong) của một A-la-hán tròn phạm hạnh.
    Chẳng phải chỉ có người ra đi là "tùy xứ tát-bà-ha" mà người ở lại, sư Huyền Quang, cũng tùy xứ tát-bà-ha. Sau đó, sư lập An Tâm lên làm trú trì chùa Hoa Yên, trở về nghỉ tại Côn Sơn, vừa dạy điệu, vừa khua chuông, vừa thổi sáo trong cảnh đạm bạc, lắng tịnh, tự tại phiêu du:
    " Củi hết, lò còn vương khói nhẹ
    Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
    Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
    Thiên hạ cười ta cứ mặc tình "
    ( " Ổi dư cốt đốt độc hoàng hương
    Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương
    Thủ ba xuy thương hòa mộc đạc
    Tùng giao nhân tiếu lão tăng mang.")
    ( VNPGSL, Nguyễn Lang,..., tr.440 )
    Sự đạt đạo của sư để lại ấn tượng rõ nét hơn qua bài kệ:
    " Thành ngăn tục lụy trần không vướng
    Cửa mở vô ưu mắt rộng tầm
    Quán rõ thị phi bình đẳng tướng
    Ma cung, Phật quốc cũng ngồi chung "
    ( " Vạn duyên bất nhiễu thành già tục
    Bán điểm vô ưu, nhãn phóng khoan
    Tham thấu thị phi bình đẳng tướng
    Ma cung Phật quốc hảo sinh quan" )
    ( VNPGSL, Nguyễn Lang,..., tr.446 )
    Hai dòng kệ đầu là nói lên sự sư đã hành ổn nền tảng về Giới học và Định học, đã nhiếp phục thuần thục các cảm thọ ( nên vô ưu ).
    Dòng kệ thứ ba "Tham thấu thị phi bình đẳng tướng" là đã trải nghiệm xong công phu thiền quán thấy rõ "thị" là pháp tánh vô ngã tánh, và "phi" cũng là pháp tánh vô ngã tánh. Cả hai đều là thực tại, có cùng thực tại tánh vô ngã. Đó cũng là Phật tánh, nên ma cung với Phật quốc chẳng phải là hai đầu cách biệt nữa. Đây là sự tỏ ngộ, chứng đắc rất truyền thống, từ thời đức Thế Tôn tại thế.
    Tam tổ Huyền Quang, sinh thời là một người thông tuệ, đã qua hơn 50 năm trải nghiệm các hư vọng và tỉnh thức, qua hơn 20 năm nhắm đích giải thoát thẳng tiến, thì "tùy xứ tát-bà-ha" là sự thành tựu tất yếu!
    III. Huyền Quang, một nhà thơ
    III.1 : Vần thơ Hoa Yên
    Thiền sư Huyền quang,lúc còn tại chức ở triều đình thì sống độc thân, không vướng bận chuyện gia thất, ít vướng vào chuyện tục lụy, đục trong ở đời. Lúc xuất gia thì ở cạnh Nhân Tông trang nghiêm thanh tịnh. Tâm tình sư hòa hợp với núi rừng, thiên nhiên. Hãy lắng nghe những dòng Phú nôm của sư vịnh chùa Hoa Yên:
    " Buông niềm trần tục
    Náu tới Hoa Yên
    Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy
    Gió tiên đưa đòi bước thần tiên
    Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới
    Giày thong thả dạo khắp sơn xuyên
    Đất phúc địa nhận xem luống kể - Kể bao nhiêu dư trăm phúc địa
    Trời thiền thiên hiệp thâu thửa lạ - Lạ hơn 36 thiền thiên
    Thấy đây:
    Đất tựa vàng lên
    Cảnh bằng ngọc đúc
    Mây năm thức che phủ đền Nghiêu
    Non nghìn tầng quanh co đường Thục
    La đá tầng thê dốc, một hòn ôm vịn một hòn
    Dòng nước chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc
    Cỏ chiều gió lướt dạm vui vui
    Non tạnh mưa dầm màu thúc thúc
    Ngàn cây phi cánh Phượng, vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn
    Hang nước tưới Hàm Rồng, nhả li châu hột san mục mục
    Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông
    Da điểm đồi mồi, đổng hòa vườn trúc
    Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành
    Điện ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc
    Cảnh tốt hòa lành
    Đồ tựa vẽ tranh
    Chỉn ấy Trời thiêng mở khéo
    Nhèn chi vua Bụt tu hành
    Hồ sen trương tán lục
    Suối trúc bấm đàn tranh
    Ngự sử mai hai hàng chầu rập
    Trượng phu tùng mấy chạnh phò oanh
    Phỉ thúy sắp hai hàng loan phượng
    Tử vi bày liệt vị công khanh
    Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng
    Vượn bồng con kề cửa nghe kinh
    Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu mây nhè nhẹ
    Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vằng vặc, núi xanh xanh...
    ( Theo VNPGSL, Nguyễn Lang,..., tr.448-450 )
    Bài phú chữ Nôm trên là một bài tả cảnh chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử. Ngày nay khách hành hương dễ dàng đến viếng và ngoạn cảnh. Cảnh nay vẫn còn đẹp, nhưng hẳn là kém hơn ngày ấy, thời sư Huyền Quang nhiều. Dù vậy, khách vẫn có thể từ cảnh núi non hiện tại mà đi vào cảm xúc của bài phú.
    Cảm xúc đầu tiên khi đặt chân đến chùa trên núi ( từ chùa Đồng ) thì hầu như mọi khách đều nghe thoát tục lạ, thanh thoát trong sáng lạ! Phương chi, từ sơ tổ đến tam tổ Trúc Lâm đều rời đế đô đến ngự ở Hoa Yên: đấy là sự kiện cả thân lẫn tâm của các tổ đã rời tục lụy, thực sự rời tục lụy.
    Qua một đoạn đường dài dốc núi quanh co, đến cổng chùa HoaYên là khách đã cảm nhận sự "rã rời" của thân ngũ ấm. Cứ đường núi lên, xuống nầy lập lại trong chừng một tuần lễ là hành giả thành tựu được "Niệm giác chi" rời bỏ hết thảy cấu uế của tâm - những ham muốn trần tục, sân, hận, phẫn, xan tham, tật đố, ngã mạn cống cao,..., điều mà sư Huyền Quang bảo là:
    " Buông niềm trần tục
    Náu tới Hoa Yên "
    hay :
    " Thành ngăn tục lụy trần không vướng
    Cửa mở vô ưu mắt rộng tầm "
    Với tâm thanh thản, khách phóng tầm nhìn quanh vùng, sẽ thấy sự hoà điệu của thiên nhiên. Ở đây, người, vật, chim chóc, cỏ cây, hoa lá chung sống an lành. Tiếng chim hót như là niềm vui của núi đồi. Tiếng suối reo như là" khúc đàn hội ngộ". Gió vờn cây lá như những tiếng thì thào đàm đạo. Toàn cảnh Hoa Yên như một Pháp hội thường thuyết mà khách có thể lắng nghe.
    Nếu ở triều đình có các quan chầu hầu mỗi ngày, thì ở Hoa Yên quanh năm dãy tùng, mai trang nghiêm đứng lặng che mát lối đi, chim vào chùa dâng hoa, vượn ghé thất nghe đạo. Một cảnh Thăng Long trần tục, một cảnh Yên Tử thần tiên. Ở triều, thì Điều Ngự bủa đức cho muôn dân, ở núi, thì Giác Hoàng rãi tâm từ cho ngàn sao mây, nước cho trăng sáng, gió thanh :
    " Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu mây nhè nhẹ
    Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vằng vặc, núi xanh xanh..."
    Lòng ấy thì tương hợp cảnh ấy:
    " Chỉn ấy trời thiêng mở khéo
    Nhèn chi vua Bụt tu hành "
    Ở Thăng Long thì có mái lưu ly, thành lũy bao che, nơi Yên Tử thì mây ngũ sắc vần vũ, núi biếc non xanh vây bọc:
    " Mây năm thức che phủ đền Nghiêu
    Non nghìn tầng quanh co đường Thục "
    Đấy là hai cảnh của một quê mà ngòi bút của Huyền Quang khéo vẽ. Bút pháp của người khiến cho núi non Yên Tử thêm đẹp thêm xinh, đầy tình đời ý đạo: Ở Yên Tử vẫn thường vẳng lên câu nói "bệ hạ hãy trở về triều đình vừa tu, vừa lo việc triều chính", "bệ hạ hãy lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình, lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình", vẫn hiện diện nhân cách hai lần oai hùng đại thắng quân Nguyên Mông; ở Thăng Long vẫn ***g bóng hình thiền định của Yên Tử, vẫn vọng tiếng sáo Côn Sơn thổi hồn thơ vào văn chương, thi ca nước Việt; đất Hoa Yên như vàng dâng xứ sở, cảnh Hoa Yên tựa ngọc tặng quê hương. Ngòi bút của Huyền Quang quả đã thu gom đủ "chiếc dép của Đạt Ma", "chiếc gậy của Đức Sơn" và "tiếng hét của Lâm Tế", ngoại nhân sao có thể xoá hết sự thật lịch sử nầy? (!)
    (còn nữa)
  5. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    bài 2
    (tiếp theo)
    III. 2 : Vần thu cảm
    Những bài thơ của thiền sư Huyền Quang ghi lại không còn bao nhiêu. Trong số các bài còn lại hiếm hoi ấy thì đã có ba bài : Vịnh Hoa Cúc, Đi Thuyền và Đầu Thu được cảm tác vào tiết thu và về tiết thu như :
    - " Năm, năm nở đúng tiết thu qua
    Gió dịu trăng thanh ý mặn mà..."
    ( Vịnh Hoa Cúc )
    ( " Niên niên hòa lộ hướng đương khai
    Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài " )
    ( VNPGSL, Nguyễn Lang,..., tr.442-443 )
    - " Hương đêm mát dịu, bình phong lạnh
    Xào xạc thu sang lá động cành... "
    ( Đầu Thu )
    ( " Dạ khí phân phương nhập họa bình
    Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh " )
    ( VNPGSL, ibid., tr.443-444 )
    - " Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
    Thu sáng ngời xanh bóng nước, cây..." )
    ( Đi Thuyền )
    ( " Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang
    Sơn thanh thủy lục hựu thu quang..." )
    ( VNPGSL, ibid., tr.444 )
    Nhớ lại, sư Huyền Quang xuất gia năm 51 tuổi, là tuổi đầu thu của đời người, tuổi khởi đầu giai đoạn đi vào lão suy ( trong 4 giai đoạn thành, trú, hoại, không ). Tiết thu cũng là đầu mùa lá đỗ ( rụng ). Đấy là thời điểm nhà thơ thiền sư có nhiều xúc cảm, và tâm thức có nhiều chuyển động. Người viết ngưỡng mộ đọc lại từng dòng thơ và lắng nghe từng cảm xúc của người, dù biết rằng rất khó mà tìm gặp cảm xúc ấy :
    Bài 1 : Đi Thuyền
    " Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
    Thu sáng ngời xanh bóng nước, cây
    Tiếng sáo thôn chài, lau lách vọng
    Trăng lặn lòng sông, sương trắng đầy "
    ( " Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang
    Sơn thanh thủy lục hựu thu quang
    Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại
    Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương ")
    Cảnh thuyền đi của nhà thơ là cảnh trăng lặn vào lúc tản sáng, khi mà cây đã soi bóng trên dòng nước giữa trời Thu sáng. Chiếc thuyền như trôi theo gió giữa dòng nước mênh mông, cạnh thôn chài; hẳn là thuyền đi trên một con sông lớn, rộng. Giữa cảnh rạng đông ấy có tiếng sáo trong trẻo vọng lại, vừa yên tỉnh vừa sống động. Người đi nhìn hình ảnh trăng lặn giữa lòng sông, chung quanh mình đầy những sương mai; trước mắt sắp xuất hiện một bình minh rạng rỡ. Đấy là toàn bộ cảm xúc.
    Hình ảnh trăng lặn lòng sông trong thiền thi - "thủy nguyệt" - là sự thực của vạn hữu mà con người đang xúc tiếp , đón nhận: nó hiện hữu như trăng trong nước - mà không phải là mảnh trăng thật - như có như không. Đây là ý nghĩa của sự chấp thủ Hữu, Không ở đời, "Hữu Không như thủy nguyệt", ( Có, Không như trăng dưới nước) mà không phải là thật tướng vô tướng. Cái thấy Hữu, Không ấy đầy sương mù của vọng tưởng như là chiếc thuyền đi đang chở "sương trắng đầy" rất thơ và rất đạo! Thiên hạ thì cứ việc chấp Hữu, Không, thị, phi, còn thiền sư thì thanh thản ngắm cảnh không dính mắc, và lắng nghe tiếng sáo vi-vu từ thôn chài vọng lại. Con
    thuyền ấy và tâm thức ấy tiếp tục đi vào bình minh của tạo vật và bình minh của giải thoát.
    Thiền sư Huyền Quang, qua cảm tác "Thuyền Đi", đã nói đạo bằng thơ, rất nhẹ!
    Bài 2 : Đầu Thu
    " Hương đêm mát dịu, bình phong lạnh
    Xào xạc thu sang lá động cành
    Trúc đường thong thả, hương vừa đốt
    Cành cây giăng võng lọt trăng thanh "
    ( " Dạ khí phân phương nhập họa bình
    Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh
    Trúc đường vong thích hương sơ tẫn
    Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh." )
    (VNPGSL, Nguyễn Lang,..., tr.443-444 )
    Cảnh đầu thu vào đêm, cành cây như giăng võng đón trăng, nghe lá đổ báo mùa thu đang đến, nhìn ánh trăng lọt qua kẻ lá. Nhà thơ sống không bận tâm đến thời gian : nghe lá đổ thì biết là thu đến; thấy hoa cúc nở thì nhận ra "tiết trùng dương; lòng yên tỉnh nghe rõ cả đến hương đêm; ghi nhận cảnh vật với tâm xả như là trẻ thơ : mũi thì nghe hương trúc đường và hương đêm, tai thì nghe tiếng lá rơi xào xạc, mắt thì nhìn ánh trăng xuyên qua kẻ lá. Cảnh ấy đến báo với nhà thơ là thu đến. Thế thôi. Đấy là công việc của các căn các trần, còn nhà thơ thì như là tỉnh giác ở đằng sau cảnh ấy và hầu như tự nhũ: " hãy để cho cái thấy là cái thấy, cái nghe là cái nghe, và cái thức tri là cái thức tri"! Đây là nghệ thuật sống của một thiền giả để lại kinh nghiệm thiền trong cảm tác "Đầu Thu".
    Bài 3 : Vịnh Hoa Cúc
    " Đường nhà Tưởng Hủ tre reo gió
    Vườn cảnh Tây Hồ đẹp nét mai
    Nghĩa khí chẳng đồng, tình chẳng hợp
    Cúc hoa nở sáng khắp vườn ai.
    Ngàn sông không đủ thấm lòng già
    Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa
    Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn
    Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta.
    Quên thân quên thế thảy đều quên
    Thiền tọa giờ lâu lạnh thấm giường
    Trên núi năm tàn không có lịch
    Thấy hoa cúc nở: tiết trùng dương.
    Năm, năm nở đúng tiết thu qua
    Gió dịu trăng thanh ý mặn mà
    Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
    Khi về, mái tóc giắt đầy hoa.
    Người ở trên lầu, hoa dưới sân
    Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông
    Hồn nhiên người với hoa vô biệt
    Một đoá hoa vàng chợt nở tung.
    Phương chi xuân sắc, trắng hay vàng
    Thời tiết tùy loài hợp sắc hương
    Khi mọi loài hoa rơi chật đất
    Dậu Đông hoa Cúc vẫn chưa tàn."
    ( " Tùng thanh Trưởng Hủ tiên sinh kính
    Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia
    Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
    Cố viên xứ xứ thổ hoàng hoa.
    Thiên giang vô mộng cán khô trường
    Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
    Lão khứ sầu ngâm hồn vị ổn
    Thi biều thực vị cúc hoa mang.
    Vương thân vương thế dĩ đô vương
    Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
    Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
    Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
    Niên niên hòa lộ hướng đương khai
    Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài
    Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
    Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai.
    Hoa tại trung đình nhân tại lâu
    Phần hương độc tọa tự vong âu
    Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
    Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
    Xuân lai hoàng bạch các phương phi
    Ái diễm liên hương diệc tự thì
    Biến giới phồn hoa toàn trụy địa
    Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly"
    ( VNPGSL, Nguyễn Lang,..., tr.441-443 )
    Trên thi đàn Việt Nam, sư Huyền Quang được biết đến như là nhà thơ của hoa Cúc, từ bài Vịnh "Hoa Cúc" bất hủ của người. Người gọi hoa Cúc là loại hoa huyền diệu : đấy là cảm nhận riêng của nhà thơ vừa là thiền sư lỗi lạc của triều Trần. Thật khó cho ta có được cảm xúc đặc biệt ấy!
    Hai nhà xử sĩ Tưởng Hủ và Tây Hồ thì đắm trước riêng trúc và mai, tính chẳng hợp: đó là sự dính mắc.
    Nhà sư tu hành thì chuộng hoa Cúc, trồng đầy một vườn Cúc, nhưng người với hoa tự tại không vướng mắc. Cúc thì có cả trăm loại nhiều hương sắc - đặc biệt là những màu vàng cúc ly dục, thoát trần - hiện diện vào thời điểm mà trăm loài hoa khác lụi tàn. Bấy giờ chỉ có riêng Cúc nổi bật sự tồn sinh thanh thoát. Thế nên nhà thiền thơ bảo:
    " Ngàn sông không đủ thấm lòng già
    Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa
    Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn
    Thấy hoa Cúc nở rộn lòng ta."
    Nhà thơ cảm thấy trong các loài hoa khác, gồm hoa mai, dù thường được các thi nhân tán vịnh, vẫn còn có cái gì đó khiếm khuyết - nên ngâm hoài mà vẫn vẫn chưa ổn -, không nghe ở đó có tiếng nói vô sinh. Giữa lúc đó, vào tiết Thu heo heo lạnh thì hoa Cúc bừng nở sáng lên như là đứng vững với thời gian, bất diệt vô sinh, khiến lòng sư vui rộn. Hãy xem thiền sư già, Huyền Quang, ngắm hoa cúc nở:
    " Người ở trên lầu, hoa dưới sân
    Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông
    Hồn nhiên người với hoa vô biệt
    Một đóa hoa vàng chợt nở tung "
    Nhà thơ đã đốt trầm và một mình không chút ưu lự ngắm nhìn hoa cúc dưới sân. Hương trầm là hương thiền khiến tâm người lắng đọng tập chú nhìn hoa đến độ chỉ có sự nhìn có mặt - chủ thể nhập vào đối tượng -; giữa khi ấy, hoa cúc bỗng bung cánh nở, như là tâm thức người nhìn cũng bùng ra bừng ngộ. Đây là điều diệu kỳ của cái nhìn ngắm hoa, rất thiền mà sư Huyền Quang thân chứng và để lại kinh nghiệm trên thi đàn.
    Vấn đề là ngắm hoa có nghệ thuật mới thấy được lẽ huyền diệu biểu hiện nơi hoa, mà không phải là ngắt hoa để cắm vào bình, hay để cài trên mái tóc - làm thế nầy thì chỉ còn có thể thấy sự chết chóc, tàn lụi. Thế nên nhà thơ vô ưu mới mỉm cười :
    " Năm, năm nở đúng tiết thu qua
    Gió dịu trăng thanh ý mặn mà
    Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
    Khi về, mái tóc giắt đầy hoa "
    Sư Huyền Quang đã không giới thiệu trí tuệ và sự tỏ ngộ bằng ngôn ngữ kinh viện, không lập luận, không nói triết lý, mà bằng ngôn ngữ thi ca, hình ảnh thi ca. Ở sư cho thấy rằng cái nhìn của bất cứ một thiền sư nào cũng là cái nhìn của một đại thi hào, và cái nhìn của một đại thi hào thì có thể là cái nhìn đạt đạo của một thiền sư. Chỉ thêm vào ngôn ngữ thi ca, thì bất cứ thiền sư nào cũng là nhà thơ lớn cả, và Việt Nam sẽ có vô số thơ, văn rất thiền và rất tuệ, nền văn học Việt Nam sẽ là "vô tỉ"!
    Đấy là nét thơ rất riêng, rất Phật giáo mà Trúc Lâm tam tổ Huyền Quang đã để lại cho hậu thế.
    IV. Kết luận
    Mỗi vị thiền sư lỗi lạc dưới thời Lý, Trần của Việt Nam mang một nét đặc kỳ. Nét đặc kỳ của thiền sư Huyền Quang làm chói lọi thêm rừng thiền Yên Tử.
    Tuổi trẻ, người rất đổi thông minh, chuyên đường học vấn. Năm 21 tuổi đã đỗ Khôi nguyên. Trải qua 30 năm phục vụ đất nước, kiến thức và kinh nghiệm sống hiểu mình hiểu đời trở nên rất cao vời. Năm 51 tuổi, giác tỉnh lẽ đạo; xuất gia trong hơn 25 năm, nghiên cứu Phật học, hành thiền và sáng tác các công trình Phật học cho đến thời điểm liễu ngộ, kế thừa ngôi vị ***** Trúc Lâm Yên Tử, thứ ba. Người trở thành một thiền sư lỗi lạc, đa văn, sành văn học, giỏi thi ca, và là một giáo thọ sư rất mô phạm.
    Kệ thiền biểu hiện sự chứng đạo của Người được chuyển thành những dòng thơ nhẹ nhàng, giản dị :
    " Thấy được thi phi cùng một tướng,
    Ma cung, Phật quốc cũng ngồi chung "
    Người đã thay thế những công án và những thiền ngữ xa xưa bằng những lời thơ bình dị, dễ dàng như là những dòng văn tả cảnh - qua bài Vịnh Hoa Cúc, Đầu Thu, Đi Thuyền,... -
    Người tự tại mà nhẹ nhàng đầy nét văn nhân ,thi sĩ.
    Người thay chiếc gậy thiền của Đức Sơn bằng chiếc sáo tre rất Việt, và thay tiếng hét của Lâm Tế bằng ánh mắt ôn nhu và nụ cười hiền hậu như đã diễn đạt khi người nói :
    - " Đến chết mà cái nết cũng không chừa " ( với Pháp Loa )

    - " Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
    Khi về, mái tóc giắt đầy hoa " ( với phật tử đến chùa )
    Người kính cẩn trước pháp giới bằng phong thái hồn nhiên :
    ( trong bài Hoa Cúc và Đầu Thu đều có đốt trầm hương )
    " Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông
    Hồn nhiên người với hoa vô biệt "
    ( " Phần hương độc tọa tự vong âu
    Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh " )
    Người rất sáng giá mà lặng lẽ khiêm tốn :
    " Đức bạc thẹn mình nối Tổ Đăng
    Học theo Hàn, Thập dứt đa đoan
    Hãy đi với bạn về non vắng
    Rừng núi bao quanh mấy vạn từng "
    ( " Đức bạc thường tàm kế tổ đăng
    Không giao Hàn, Thập khởi oan tăng
    Tranh như trục bạn quy sơn khứ
    Điệp chứng trùng loan vạn vạn tằng " )
    ( VNPGSL, Nguyễn Lang, ..., tr.439)
    Và lặng lẽ về thiền tịnh ở Côn Sơn bên cạnh một tiểu đồng và một cây sáo, khung cảnh đơn sơ:
    " Củi hết, lò còn vương khói nhẹ
    Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
    Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo..."
    ( " Ổi dư cốt đốt độc hoàng hương
    Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương
    Thủ bả xuy thương hòa mộc đạc..."
    ( VNPGSL,...,tr. 440 )
    Đến ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất, 1334, người viên tịch. Những vần thiền thi của người đã là những bài kệ giác và là kệ thị tịch không riêng để lại cho các thiền giả, mà còn để lại cho toàn dân Việt trong nền văn học Việt Nam./.
    Tỷ Kheo Thích Chơn Thiện
    Trúc Lâm Thiền Viện-Paris
    Tháng 14/4/2003
  6. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Tiếp theo dòng của TLBP, trước đây đã có "ÔNG" giờ nối tiếp tôi mạn phép post một đôi bài về các "BÀ" để có nếp có tẻ:)
    Lễ hội Đền Bà Tấm
    Đền Bà Tấm nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, xưa thuộc trang Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Dương Xá gồm ba thôn là Dương Đình, Dương Đá và Dương Đanh (Tam Dương), xa nữa là ba ngõ trong một làng, đền Bà Tấm nằm trên đất của thôn Dương Đá . Trước đây riêng Dương Xá là một xã, nhưng nay hợp với Thuận Quang và Yên Bình thành xã Dương Xá mới.
    Trong hậu cung đền có tượng bà Tấm (Nguyên Phi Ỷ Lan) và sáu tượng nữ khác gọi là lục bộ. Gian ngoài có đặt một số đồ thờ và chiếc ngai, trên ngai có bài vị ghi "Lý triều đệ tam hoàng thái hậu" và một vài bia ký ở hai gian bên cạnh. Đặc biệt có bộ khám long đình rất đẹp mang niên đại thời Mạc.
    Hàng năm ngày tiệc lệ chính là 19-2 âm lịch - ngày hội lớn là 25-7, tương truyền là ngày giỗ bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày sóc vọng đều có lễ trong đền.
    "Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm (Hảí Hưng) và những làng cấy ruộng hậu của đền. Trong đền còn giữ được tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá lớn, nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng, được tổ chức vào năm 1939, nhiều người còn nhớ cả tên người được giải cờ người năm đó là ông Trần Nhật Tân. Trước đây chính hội là từ 19 đến 22 tháng 2 âm lịch, nhưng thực chất người ta đã rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25 tháng 2 mới hết hội. Ngay từ tiệc đầu Xuân dân làng đã tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội.
    Ngày 19-2 (âm lịch tương truyền là ngày sinh của bà Tấm. Ngày hội được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước bà ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch theo kiệu. Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên Sủi. Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng lấy nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền. Do vậy mà đám rước rất lớn và dài, bởi vì ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai, Bình Trù, Liên Mỹ. . . Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui mô của đám rước dài và lớn như vậy nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng hồ mới rước được nước về tới đền.
    Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành rước lễ vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, cuộc tế lễ bắt đầu. Các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt. Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Từ thượng cổ năm nào cũng vậy có chăng thêm thì chỉ có bánh gai, bánh mật mà thôi.
    Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải dùng nước ở giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy mới đảm bảo độ tinh khiết. Sau khi đã xem xét lễ vật một cách kỹ lưỡng, cuộc tế lễ bắt đầu. Trong "Lý triều đệ tam hoàng đế? bản chữ Hán còn chép rõ bản văn tế Hoàng thái hậu về mùa xuân ở đền. Chúng tôi xin ghi lại ở đây làm cứ liệu tham khảo:
    "Rằng: Năm nay là. . . tháng . . . ngày mồng một.
    Tỉnh-phủ-huyện-tổng-xã, toàn dân kính dâng lễ vật mong được chiếu cố.
    Triều Lý, Hoàng đế thứ ba ỷ Lan linh ửng, dung mạo thơm tho, đức hạnh đoan trang, trí hòa hiền hậu, trinh tiết phép lành, lừng danh nhân hậu. . . giúp nước đầy phúc, nghĩa đẹp, một mực hiền hòa đôn hậu, dẹp hết nạn, yêu nước; đoan trang điềm lành, cứu đời yên dân, giúp nước bảo vệ sự nghiệp, gây dựng cơ đồ, vun trồng nền ơn, ban phúc, phát của. . . đức lớn lừng danh, hành vi tao nhã, giữ nề nếp, yên dân giữ nước, lòng nhân đức mở rộng kéo dài không nghỉ.
    Rất linh Hoàng thái hậu ngôi trên, rằng có lễ tế trong mùa xuân.
    Kính mong Hoàng thái hậu xét đến chỗ tối tăm, Đoan trang thuần túy công ơn ấy ghi lại ức năm, muốn kỷ. Nay gặp thời lành, tế mùa xuân, lễ mọn, tình thâm, kính cẩn, xin được chiếu cố, ban phúc, giúp nước thịnh vượng, giúp cứu vớt dân cư ấm no.
    Xin tâu trình"
    Chắc chắn văn tế này được làm về sau và tới nay không rõ vào ngày hội nội dung bài tế có giống như trên không, song ít nhất đó cũng là cứ liệu để thấy được niềm mong ước cầu xin của dân làng đối với Bà.
    Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt là các cuộc dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên kéo dài cho đến khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc vui ngoài sân và khu vực xung quanh. Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm sau, lễ vật được chia ra làm đôi, riêng Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một nửa, nửa kia mới được chia cho các thôn còn lại trong xã. Riêng ông chủ tế được biếu 60 phẩm oản và 60 quả chuối. Những cụ già được chúng tôi hỏi đều khẳng định hội xưa không có chi tiết về kiệu và võng lọng của ông bán dầu trong đám rước ngày hội (người mà theo truyền thuyết đã báo trước cho ỷ Lan biết sẽ trở thành hoàng hậu). Tuy nhiên theo Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vĩ, (mục cổ tích) khi nói về miếu Lý Thái hậu lại nhắc đến chi tiết này như sau:
    ?oNgười con gái làng Dương Xá hái dâu trong nương. Có một ông lão bán dầu trông thấy trên đầu cô có đám mây tía liền đến bảo cô ta đi gặp vua. Người con gái từ chối nói: "Mẹ tôi sai tôi đi hái dâu chứ không sai đi xem vua" . Ông lão nài thêm, nói "sau này nếu quả cô được quí hiển thì cho tôi võng lọng đi trước". Đến lúc đó, cô ta mới chịu nghe theo ông lão đến chỗ vua ngự. . . Lý Nhân Tôn lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu. Nhớ lời ông bán dầu, mỗi khi ngự giá lại cho võng lọng (của ông - LHL) đi trước. Nên về sau, dân vẫn giữ lệ cũ. Hàng năm ngày nhập tịch mở hội, vẫn rước một cái kiệu đỏ để không và một đôi lọng xanh đi trước kiệu thần, không dám thay đổi". Ngày 20 tháng 2 hội cũng bắt đầu bằng những cuộc rước. Song lần này là rước Thành hoàng và lễ vật của các thôn thuộc Dương Xá và những nơi ăn lộc ruộng của đền bái vọng dâng lễ. Trừ kiệu của bốn thôn thuộc Dương Xá và Thuận Quang được vào trong đền, còn tất cả các kiệu của những làng khác đều phải đứng bên ngoài cổng đền (chỗ đường 5 bây giờ) bái vọng vào. Lễ vật được chuyển vào trong đền. Tại sân đền còn có tục phất cờ tổng, truyền rằng nhất là vào những năm trời âm u, múa cờ là để xua tan mây ám cho trời quang mây tạnh. Thuận Quang là làng được quyền lựa chọn tổng cờ cho hội hàng năm. Tổng cờ cũng được lựa chọn cẩn thận, là người không tang chế, đẹp người, khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Ngoài ra còn có hai thủ hiệu trống và chiêng. Cả thủ hiệu cờ và thủ hiệu trống, chiêng đều mặc đẹp và phải tập luyện từ trước. Các động tác và điệu múa của họ cũng giống như hiệu cờ, hiệu trống và hiệu chiêng ở hội Dóng. Hiệu cờ cũng quì, nhảy múa ba lần như ba ván ở hội Dóng.
    Lá cờ cũng dài như ở hội Dóng, nhưng tổng cờ phải tập luyện cẩn thận, thuần thục, tránh để cờ lùng nhùng mà cuốn vào cán, như vậy sẽ bị phạt vạ rất nặng và có lỗi với Thánh. Do đó mà các tổng cờ luôn luôn phải chú ý trong khi luyện tập.. . .
    Tại bãi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát mẻ, là nơi diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm tướng. Mỗi quân cờ đều có một chiếc ghế đầu để ngồi. Riêng tướng cờ được che thêm một chiếc lọng. Người chơi đánh nước nào thì người đóng vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh. Cứ như vậy ván cờ diễn ra căng thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại hấp dẫn người xem không chỉ vì các nước cờ tài ba mà còn bởi các màu sắc và sự thanh tú của các nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch thủ kéo dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rõ người thắng và trao giải cho người nhất cuộc .
    Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền, suốt từ 19-2 đến hết hội. Thường thường các phường hát đến xin, địa phương tín nhiệm phường nào thì cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến khi rã đám mới thanh toán tiền cho họ. Ngoài ra các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm sôi nổi.
    Trong hội còn có các trò chơi khác như tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo và thời pháp thuộc có cả hát cô đầu. . . Cứ như vậy lễ hội đền bà Tấm kéo dài cho đến hết ngày 2l tháng 2 âm lịch. Ngày 22 tháng 2 là ngày tế rã đám và kết thúc hội.
    Cũng vào ngày đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nhì và làm lễ trao giải .
    Qua khảo sát lễ hội ở Dương Xá và những làng có liên quan ta thấy một số điểm sau:
    l. Trong các làng thờ Nguyên phi ỷ Lan thì hội ở Dương Xá có qui mô lớn nhất. Hội có rước nước từ trên Sủi (Phú Thị) với đám rước lớn gồm cả tổng Dương Quang xưa và các làng ăn lộc đền Bà Tấm. Nếu như ở Như Quỳnh (Hải Hưng) hay chùa Dạm (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh), Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội) nhất mực mọi người đềucho chỉ thờ Nguyên Phi ỷ Lan, thì tại Dương Xá, bà Tấm và Nguyên Phi chỉ là một và có một quá trình lịch sử dài từ một hình tượng cô Tấm lam lũ và thông minh đến vị Nguyên phi tài ba, tháo vát. Chỉ có Dương Xá kiêng chữ Tấm gọi là bổi, cám gọi là đớn .
    2. Vào dịp hội, cả Dương Xá, Như Quỳnh và Phú Thị đều rước giao hiếu và cả ba nơi đều trân trọng yêu quí thần tượng Mẫu nghi thiên hạ của mình. Cũng dễ nhận ra điều đó vì Thổ Lỗi trang xưa bao gồm đất đai suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm, Văn Giang, Hải Hưng ngày nay. Cả ba làng trên đều thuộc trang Thổ Lỗi ấy. Do vậy không lấy làm lạ khi xuất hiện tâm thức kính trọng, cả ba làng đều coi Nguyên Phi ỷ Lan là người của quê mình.
    3. Ghép các chi tiết hội ở cả ba làng ta sẽ có được một lễ hội trọn vẹn với nội dung là toàn bộ truyền thuyết về sự thực lịch sử về Nguyên Phi ỷ Lan. Đó là các tục lệ, nghi thức liên quan đến cô Tờm đền Bà Tấm. Chi tiết ông bán dầu ở hội làng Ghênh (Như Quỳnh) nhắc đến đoạn cô Tấm dựa bên khóm lan khi đi hái dâu và gặp vua để thành hoàng hậu sau này. Tục bông sòng ở hội làng Phú Thị (Sủi) nhằm kể lại sự tích đầu thai của vua Lý Nhân Tông và cuối cùng là những nghi thức và lễ vật của ngày hội nói lên quãng đời cuối cùng của Nguyên Phi chuyên tâm vào việc xây dựng chùa chiền, chuyên tâm làm điều thiện, tu nhân tích đức nơi cửa phật. Toàn bộ lịch sử của một nhân vật được biểu tượng hóa trong các nghi thức, tục lệ ở lễ hội của cả ba làng. Do vậy việc tổ chức tốt lễ hội ở đây sẽ phát huy được tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các địa phương như truyền thống tốt đẹp của các làng mạc Việt Nam vốn đã có từ xa xưa.
    4. Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn. Khu vực đền đã được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội được sự tổ chức khá chu đáo của chính quyền địa phương và nhân dân trong xã. Nhiều trò vui dân gian được khôi phục lại như tổ tôm điếm, chọi gà. . . Một số sinh hoạt mới được tổ chức. . .
    Trong một khu vực đền hơn hai hécta, các trò chơi được bố trí hợp lý cho nên đã thu hút người xem rất đông. Dương Xá lại là nơi gần Thủ đô, nằm cạnh đường quốc lộ số 5, do đó khách trẩy hội cũng rất tiện lợi. Vì vậy khách đến hội mỗi năm một đông thêm./.
    Sưu tầm và tuyển chọn:)
  7. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Trên đây là nói về đền thờ BÀ, và đây là sự tích, cũng như giai thoại về Bà
    LÊ THỊ Ỷ LAN
    Lê Thị Ỷ Lan, tên thực và năm sinh đều chưa rõ (1), xuất thân từ trong một gia đình nông dân, người hương Thổ Lỗi, lộ Bắc Giang (2). Nhân một chuyến tuần du đến Thổ Lỗi, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) bắt gặp bà đang hái dâu. Trong lúc mọi người đi xem xa giá của vua thì bà vẫn đứng dựa vào cây lan mà hát. Vua lấy làm lạ, cho vời tới hỏi, sau đó đón vào cung lập làm phu nhân, đặt hiệu ỷ Lan (dựa gốc cây lan), rồi lại phong là Linh Nhân.
    Với cương vị Nguyên phi, bà đã thay vua Lý Thánh Tông lo việc nội trị trong thời gian vua đi đánh Chiêm thành (1069) (3). Bà còn bỏ tiền trong nội phủ ra chuộc những người con gái nhà nghèo phải đi ở đợ rồi gả cho những người chưa vợ. Việc làm đó được nhân dân ghi nhớ, gọi tên là "Quan âm". Bà cũng là người hâm mộ đạo Phật, từng đi du ngoạn nhiều nơi để tìm cảnh đẹp rồi cho xây tháp, dựng chùa. Mặc dầu vậy, vào những năm cuối đời mình, bà vẫn không quên chú ý đến đời sống của dân chúng. Trước khi mất vài ba tháng, bà còn khuyên vua ra lệnh cấm tệ giết trâu bò bừa bãi để dân đủ trâu cày, thoát khỏi tình trạng mấy nhà cày chung một con trâu. Mất ngày 25 tháng Chín năm Đinh Dậu, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ tám (tức ngày 22 tháng Mười năm 1117).
    Tác phẩm: còn một bài kệ.
    (1) Theo Hoàng Xuân Hãn thì một học giả đời Tống là Thẩm Hoạt đã ghi tên bà là Lê Thị Yến Loan (trong sách Mộng khê bút đàm). Nhưng Hoàng Xuân Hãn cho rằng đây chỉ là ghi theo âm, nên có thể chữ Yến Loan là do ỷ Lan ghi chệch, cũng như mấy chữ Lý Thường Kiệt, chính sách đó ghi thành Lý Thượng Cát.
    (2) Hương Thổ Lỗi: theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì vào năm thứ nhất, niên hiệu Thiên Huống Bảo Tượng đời Lý Thánh Tông (1068), hương Thổ Lỗi đổi tên là hương Siêu Loại. Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
    (3) Trong Việt sử thông giam vương mục, Tự Đức tỏ ý nghi ngờ sự việc này. Có thể đây là việc làm của bà Thái hậu họ Dương (vợ chính), mà sử nhầm lẫn chăng?

    Sắc không
    Sắc thị không, không tức sắc,
    Không thị sắc, sắc tức không.
    Sắc, không câu bất quản,
    Phương đắc khế chân tông.
    Dịch nghĩa:
    Sắc và không (1)
    Sắc là không, không tức là sắc,
    Không là sắc, sắc tức là không.
    Sắc, không đều chẳng vấn vương gì,
    Thì mới khế hợp được với chân tông.
    Dịch thơ:

    Sắc là không, không tức sắc,
    Không là sắc, sắc tức không.
    Sắc không đều chẳng quản,
    Mới khế hợp chân tông.

    Hoa Bằng
    (Tạp chí Tri tân)
    Chú thích:
    (1) Đầu đề do chúng tôi thêm. Bài này ỷ Lan làm sau khi đàm đạo với đại sư Thông Biện về những tôn chỉ của đạo Thiền.

  8. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    LÝ NGỌC KIỀU (Diệu Nhân) [1041 - 1113]
    Lý Ngọc Kiều người hương Phù Đổng, huyện Tiên Du, là con gái đầu của Phụng càn vương (1), được vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) nuôi dạy ở trong cung từ nhỏ. Khi đến tuổi trưởng thành, vua đem gả cho người họ Lê làm châu mục châu Chân Đăng (2). Chồng chết, bà không chịu tái giá, bèn cắt tóc đi tu, được Thiền sư Chân Không ở hương Phù Đổng chỉ bảo và đặt pháp danh cho là Ni sư Diệu Nhân, trở thành người đứng đầu thế hệ thứ mười bảy, dòng thiền Nam phương. Mất ngày 1 tháng Sáu năm Quý Tî, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ tư (tức ngày 15 tháng Bảy năm 1113), thọ 72 tuổi. Bà và ỷ Lan là hai nữ sĩ đời Lý.
    Tác phẩm: còn một bài kệ nói về bốn nỗi khổ trong một đời người theo quan niệm nhà Phật.
    (1) Phụng càn vương: tức là Lý Nhật Trung (?-?), con Lý Thái Tông.
    (2) Châu Chân Đăng: tức vùng Tam Nông, Hưng Hóa đời sau. Nay thuộc tỉnh Phú Thọ.

    Sinh lão bệnh tử
    Sinh lão bệnh tử,
    Tự cổ thường nhiên.
    Dục cầu xuất ly,
    Giải phọc thiêm triền.
    Mê chi cầu Phật,
    Hoặc chi cầu Thiền.
    Thiền Phật bất cầu,
    Đỗ khẩu vô nghiên (ngôn).

    Dịch nghĩa: Sinh lão bệnh tử (1)
    Sinh, lão, bệnh, tử,
    Lẽ thường xưa nay vẫn thế.
    Muốn cầu siêu thoát,
    Nhưng cởi trói cũng chính là buộc chặt thêm.
    Mê muội thì mới cầu Phật,
    Nhầm lẫn thì mới cầu Thiền.
    Chẳng cầu Thiền, chẳng cầu Phật,
    Mím mồm lại, không nói gì.
    Dịch thơ:
    Sinh, lão, bệnh, tử,
    Lẽ thường tự nhiên.
    Muốn cầu siêu thoát,
    Càng trói buộc thêm.
    Mê, phải cầu Phật,
    Hoặc, phải cầu Thiền.
    Chẳng cầu Thiền, Phật,
    Mím miệng ngồi yên.
    Nguyễn đức Vân, Đào phương Bình
    Chú thích:
    (1) Đầu đề do chúng tôi thêm. Sinh, lão, bệnh, tử là bốn nỗi khổ trong một đời người, theo quan niệm của nhà Phật.
    Diệu Nhân (1041- 1113), nữ thiền sư Việt Nam thuộc phái Tì-Ni-Ða-Lưu Chi đời thứ 17. Sư nối pháp thiền sư Chân Không.
    Sư tên Ngọc Kiều là trưởng nữ của Phụng Loát Vương. Thuở nhỏ sư đã có phong cách thuần hậu, đoan trang, được vua Lý Thánh Tông nuôi trong cung. Lớn lên vua gả cho một người họ Lệ Khi chồng sớm qua đời, sư tự thệ thủ tiết không chịu tái giá.
    Một hôm sư tự than :" Ta tự xem các pháp trong thế gian như giấc mộng, huyễn ảo, huống là các thứ phù vinh mà đáng trông cậy sao !". Sau đó, sư đem tất cả tư trang ra bố thí và xuất gia cầu đạọ Sư đến thiền sư Chân Không tại làng Phù Ðổng xin xuất gia, thụ giới Bồ Tát. Chân Không ban cho pháp danh Diệu Nhân và truyền cho yếu chỉ Thiền Tông. Sau đó, Chân Không khuyên sư đến làng Phù Ðổng, Tiên Du , trụ trì chùa Hương Hải (cũng được gọi là chùa Linh Ứng).Tại đây sư thường dạy chúng:" Chỉ Tánh mình trở về nguồn, đốn tiệm liền tuỳ đó mà vào". Thường ngày, sư chỉ ngồi lặng lẽ, không thích thanh sắc, ngôn ngữ. Có người thấy vậy liền hỏi :" Tất cả chúng sinh bệnh, nên ta bệnh. Tại sao lại kỵ thanh sắc ? ". Sư dùng kệ trong kinh Kim Cang đáp :" Ðừng dùng sắc thấy ta, âm thanh nhận ra ta ". Lại hỏi :" Tại sao ngồi yên ?".Sư đáp:" Xưa nay không đi". Hỏi :" Thế nào chẳng nói ?". Sư đáp :" Ðạo vốn không lời ".


    Năm Hội Tường Ðại Khánh thứ tư, ngày mùng một tháng Sáu, sư có bệnh, gọi chúng lại nói kệ sau đây . Nói kệ xong, sư cạo tóc, tắm rửa rồi ngồi kiết già viên tịch, thọ 72 tuổị
    Nguồn Thư viện Hoa sen
  9. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Lý Công Uẩn - Lý Thái Tổ
    Lý Công Uẩn là người ở làng Cổ Pháp, nay thuộc về huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay ở làng Đình Bảng có lăng và đền thờ nhà Lý).
    Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiêu Sơn (làng Tiêu Sơn, phủ Từ Sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý Công Uẩn.
    Phần chú của Việt Sử Lược ghi: Theo sách Mộng Kê Bút Đàm của Thẩm Hoạt đời Tống thì Lý Công Uẩn gốc là người Mân (Phúc Kiến). Tiến sĩ Từ Bá Tường, người Quảng Tây, nhà Tống trong thư gửi cho Công Uẩn cũng nói: "Tiên thế đại vương vốn là người đất Mân. Tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng nhiều người đất Mân" [1]
    Công Uẩn lớn lên vào Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Năm 1010, vua Lê Long Đĩnh mất, thì Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Công Uẩn lên làm vua.
    Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, tức là vua Lý Thái Tổ, đặt niên hiệu là Thuận Thiên.

    Sự nghiệp

    Dời đô về Thăng Long
    Vua Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về La Thành. Tháng 7, Thuận Thiên nguyên niên (1010) thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra nên đổi Đại La thành sang Thăng Long thành tức là Hà Nội bây giờ, và cải Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ.

    Tôn giáo

    Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018) vua Thái Tổ sai quan là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang Trung Quốc thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng.
    Chính trị
    Lúc bấy giờ nhà Tống ở Trung Quốc bận nhiều việc nên không sinh sự lôi thôi gì với Việt Nam. Bởi vậy khi Thái Tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao Chỉ Quận Vương, sau lại gia phong làm Nam Bình Vương. Nước Chiêm Thành và nước Chân Lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ được yên trị.
    Ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) và ở mạn thượng du hay có sự phản nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp mới yên được.
    Thời bấy giờ các hoàng tử đều phong tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.
    Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
    Vua trị vì được 19 năm thì băng hà, thọ 55 tuổi. Vua được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ, miếu hiệu là Thái Tổ, thuỵ hiệu là Thần Vũ hoàng đế.
    Đánh giá
    Các sử gia phong kiến Việt Nam tuy có chê trách ông ở mặt quá tín ngưỡng vào đạo Phật, chê trách cơ cấu tổ chức của triều đình ông không phù hợp với quan niệm của họ, ví dụ sử gia Lê Văn Hưu viết: Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể... chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?
    Nhưng tất cả đều thừa nhận ông là người sáng suốt. Lê Văn Hưu viết: Lý Thái Tổ lo tính lâu dài... nên noi theo họ Lý. Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: Lý Thái Tổ biết nghĩ xa hơn Lê Đại Hành. Nhận định như vậy là công bằng.

    Nguồn vi.wikipedia.org
  10. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Có lẽ phải sửa sang lại mục này, lâu nay ko thấy T_N_T post bài,
    T_N_T chu du ở đâu rồi, quay lại chỉnh đốn chút
    Nên taọ ra một mục điền tên các danh nhân đã có tên, để ai biết hoặc muốn đọc về người đó thì có cơ sở mà tra cứu
    hiện tại, trong danh sách này còn rất nghèo nàn, kể cả về bài viết và trích đáp về các danh nhân,
    chính vì vậy, lập ra một list, dẫn đến các trang là cần thiết, tránh bị trùng lặp, mà lại tỏ ra là sáng sủa về bố cục, nội dung
    Kính đề nghị các bạn thi thoảng bớt chút thời gian, sưu tập thêm các bài viết về các danh nhân Kinh Bắc, để trước hết, chúng ta hiểu thêm về đất mình, sau nữa, ai có nhã ý viếng thăm, họ sẽ đọc và biết hơn về vùng mình chứ nhỉ:)

Chia sẻ trang này